5+ Dàn ý nhân vật ông Hai (siêu hay)
Tổng hợp Dàn ý nhân vật ông Hai trong truyện Làng hay nhất, ngắn gọn giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Dàn ý nhân vật ông Hai
- Phân tích nhân vật ông Hai - mẫu 1
- Phân tích nhân vật ông Hai - mẫu 2
- Phân tích nhân vật ông Hai - mẫu 3
- Phân tích nhân vật ông Hai - mẫu 4
- Phân tích nhân vật ông Hai - mẫu 5
- Phân tích nhân vật ông Hai - mẫu 6
- Phân tích nhân vật ông Hai - mẫu 7
- Phân tích nhân vật ông Hai - mẫu 8
- Phân tích nhân vật ông Hai - mẫu 9
5+ Dàn ý nhân vật ông Hai (siêu hay)
Bài giảng: Làng - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Dàn ý nhân vật ông Hai
Dàn ý Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 1
1) Mở bài
Giới thiệu về truyện ngắn Làng, về nhân vật ông Hai:
- Truyện ngắn được viết năm 1948, là một trong số những truyện ngắn xuất sắc của thời kì kháng chiến chống Pháp, với ông Hai là nhân vật chính của truyện.
- Tình yêu làng, yêu cách mạng tha thiết của ông Hai được thể hiện một cách chân thực, chất phác và giản đơn nhưng cũng đặc biệt thiêng liêng.
- Nhân vật ông Hai là tiêu biểu cho hình ảnh người nông dân yêu nước trong thời kì kháng chiến.
2) Thân bài
Tình cảm, tính cách, phẩm chất của Ông Hai được tác giả diễn tả hết sức chân thật qua mỗi tình huống.
a) Trong bối cảnh sống tản cư xa làng:
- Vì kháng chiến, gia đình ông Hai phải đi tản cư: ông Hai hăng hái lao động cùng anh em giữ làng, miễn cưỡng đi cùng vợ.
- Ở nơi tản cư:
+ Ông buồn chán, nhớ làng quê, sinh ra lầm lì cáu gắt.
+ Ông Hai hay khoe làng: đi đâu ông cũng kể về làng chợ Dầu của ông “một cách say mê và náo nức lạ thường”, khoe làng có phòng thông tin, con đường lát đá, nhà ngói san sát. Ông khoe cho thỏa cái miệng và nỗi nhớ trong lòng, hầu như không quan tâm người nghe có hưởng ứng câu chuyện của mình không.
⇒ Khoe làng là cách bản năng nhất thể hiện tình yêu, nỗi nhớ và niềm tự hào về quê hương của ông Hai.
- Tình yêu Làng gắn liền với yêu nước, yêu cách mạng:
+ Trước cách mạng: ông tự hào khoe làng giàu và đẹp với cái sinh phần của viên tổng đốc làng.
+ Sau cách mạng: ông chỉ nói về những buổi tập quân sự, những hào giao thông,… Ông thường đến phòng thông tin nghe lỏm tin kháng chiến, vui mừng với những thắng lợi của quân và dân ta.
b) Khi nghe tin làng theo giặc.
- Khi nghe được tin: ông sững sờ “lặng đi tưởng như không thể thở được”, lảng tránh khỏi đám đông.
- Diễn biến tâm lí giằng xé của ông Hai:
+ Ông nghi ngờ tin đồn sai sự thật, rồi lại tức giận thầm chửi rủa đám người theo giặc, điểm lại từng người một trong làng, lo sợ con cái ông cũng bị hắt hủi, khinh bỉ.
+ Ông xấu hổ, sợ hãi không dám ra đường, chỉ ở trong nhà nghe ngóng.
+ Có lúc ông muốn về làng vì bị người ta hắt hủi, coi khinh. Nhưng ông suy nghĩ: “làng theo Tây thì phải thù” và chỉ biết trò chuyện với đứa con út để khẳng định: ông luôn tin và trung thành với cách mạng, với cụ Hồ, quyết không theo giặc.
⇒ Qua diễn biến tâm lí giằng xé của ông Hai, ta nhận thấy tình yêu sâu đậm của ông dành cho quê hương làng chợ Dầu, đồng thời thấy sự trung thành tuyệt đối với Đảng, cách mạng và Bác Hồ.
c) Niềm vui của ông Hai khi tin làng theo giặc được cải chính.
Khi ông chủ tịch làng đến thông báo tin cải chính:
+ Ông phấn khởi đem quà về cho các con
+ Ông đi từng nhà, gặp từng người chỉ để nói với họ tin: Tây đốt nhà ông, làng ông không theo giặc.
+ Ông kể cho mọi người nghe về trận chống càn quét ở làng chợ Dầu với niềm tự hào.
⇒ Sự hào hứng, hân hoan ấy đã thể hiện được tinh thần yêu nước của ông Hai, một tình cảm chân thành của người nông dân chất phác, một người yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng đến độ vui mừng thông báo nhà mình bị giặc đốt cháy sạch.
d) Đưa ra nhận xét về nghệ thuật
- Nhà văn Kim Lân đã xây dựng tình huống truyện vô cùng đặc biệt, mỗi tình huống đều khắc họa được diễn biến tâm lý của nhân vật một cách chân thực.
- Ông miêu tả cụ thể diễn biến tâm lý của nhân vật qua những đoạn độc thoại nội tâm, những hành động giàu cảm xúc.
- Ngôn ngữ nhân vật vừa mang đặc trưng vùng miền, vừa mang đậm tính thuần phác, đôn hậu chung của người nông dân.
3, Kết bài:
- Đưa ra kết luận về nhân vật ông Hai và truyện ngắn Làng:
+ Nhân vật ông Hai là một bức chân dung sống động, riêng biệt về người nông dân Việt Nam những ngày đầu kháng chiến: bình dị nhưng có lòng yêu làng, yêu nước chân thành, sâu nặng, cao quý.
+ Truyện ngắn Làng của Kim Lân: nội dung truyện gần gũi, đơn giản nhưng thể hiện được những ý nghĩa to lớn, sâu sắc; nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, sống động.
Dàn ý nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 2
I/ Mở bài
- Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 – 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân. Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện tinh thần kháng chiến của người nông dân
- Truyện ngắn Làng được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp chí Văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng định vì nó thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của dân tộc, tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
II/ Thân bài
1. Truyện ngắn Làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc, tình cảm quê hương đất nước. Với người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến thì tình yêu làng xóm quê hương đã hoà nhập trong tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình cảm đó vừa có tính truyền thống vừa có chuyển biến mới.
2. Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai. Ở ông Hai tình cảm chung đó mang rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính chỉ riêng ông mới có.
a. Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thông trong ông Hai.
- Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.
- Cái làng đó với người nông dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần.
b. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến mới trong tình cảm.
- Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải xa làng, ông nhớ quá cái không khí "đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”; rồi ông lo "cái chòi gác,… những đường hầm bí mật,…” đã xong chưa?
- Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bình luận, náo nức trước tin thắng lợi ở mọi nơi "Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại, làm gì mà thằng Tây không bước sớm”.
c. Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc.
- Khi mới nghe tin xấu đó, ông sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể rành rọt, không tin không được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì chiết ông đau đớn cúi gầm mặt xuống mà đi.
- Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó "cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người thì lại không tin họ "đổ đốn” ra thế. Nhưng cái tâm lí "không có lửa làm sao có khói”, lại bắt ông phải tin là họ đã phản nước hại dân.
- Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cái tin nhục nhã ấy choán hết tâm trí ông thành nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt giật mình. Không khí nặng nề bao trùm cả nhà.
- Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội tâm gay gắt: Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có tin đồn không đâu chứa chấp người làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói cứng như vậy nhưng thực lòng đau như cắt.
- Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông chút nỗi lòng vào lời tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng này:
+ Đứa con ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: "ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!” nữa là ông, bố của nó.
+ Ông mong "Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”.
+ Qua đó, ta thấy rõ:
Tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải cái làng đổ đốn theo giặc).
Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu tượng của kháng chiến là cụ Hồ được biểu lộ rất mộc mạc, chân thành. Tình cảm đó sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng : có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.
d. Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ, ông Hai tột cùng vui sướng và càng tự hào về làng chợ Dầu.
- Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí "Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước” của người nông dân lao động bình thường.
- Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.
3. Nhân vạt ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lí tính cách và ngôn ngữ nhân vật của người nông dân dưới ngòi bút của Kim Lân.
- Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng.
- Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.
Ngôn ngữ của Ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa mang đậm cá tính nhân vật nên rất sinh động.
III/ Kết bài:
- Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước rất mộc mạc, chân thành mà vô cùng sâu nặng, cao quý trong những người nông dân lao động bình thường.
- Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yếu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý.
Dàn ý nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 3
1. Mở bài:
- Giới thiệu nhà văn Kim Lân và truyện ngắn "Làng".
- Khái quát về nhân vật ông Hai: Một người nông dân chất phác, có tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào làng Chợ Dầu của mình, vào cách mạng.
2. Thân bài:
a, Giới thiệu nhân vật ông Hai:
- Là người dân làng Chợ Dầu.
- Theo lệnh của Ủy ban phải rời làng để sang nơi khác.
- Có tình yêu sâu sắc đối với ngôi làng thân thương của mình.
b, Phân tích nhân vật ông Hai:
* Khi ở nơi tản cư:
- Đi đâu cũng khoe về làng.
- Luôn nhớ nhung về những kỉ niệm khi ở bên những người anh em thân thiết.
- Hay đi nghe ngóng tin tức về cách mạng, vui vẻ mỗi khi thấy tin giặc bị bắt, bị tiêu diệt.
* Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc: "vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác", "cổ ông lão nghẹn ắng lại. Da mặt tê rân rân", "tưởng như đến không thở được", "cúi gằm mặt mà đi, "tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra".
-> Cảm xúc hoang mang, bàng hoàng cùng tâm trạng xót xa, tủi nhục của ông Hai.
- Thương xót bản thân và những đứa con thơ: "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư?".
- Ông Hai xấu hổ không dám đi đâu, chỉ biết ngồi thủ thỉ với đứa con nhỏ để làm rõ tấm lòng mình.
- Sự quyết tâm trung thành với cách mạng: "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù".
* Khi tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính:
- Tin tức đến như một sự hồi sinh đối với ông Hai:
- Vui vẻ mua quà bánh cho các con.
- Chạy khắp nơi khoe: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đối nhẵn".
- Thể hiện sự tự hào về làng bằng cách ngồi miêu tả quá trình chống giặc của dân làng như chính mình đã tham gia.
c, Đánh giá chung:
- Ông Hai là đại diện của tầng lớp nhân dân nghèo với tinh thần yêu quê hương đất nước sâu sắc.
- Tình yêu làng được hòa chung với lòng yêu nước.
- Hình ảnh được xây dựng giản dị, tình huống truyện độc đáo, thu hút.
3. Kết bài:
- Khái quát lại về vẻ đẹp của nhân vật ông Hai.
- Liên hệ mở rộng.
Dàn ý nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 4
1. Mở bài
Giới thiệu về truyện ngắn Làng và nhân vật ông Hai
2. Thân bài
* Giới thiệu về ông Hai:
- Ông Hai là người nông dân hiền lành, chất phác làng chợ Dầu
- Do hoàn cảnh ông phải rời quê để đến nơi tản cư
* Lòng yêu làng tha thiết:
- Ở nơi tản cư:
- Háo hức, say mê kể về làng chợ Dầu thân yêu của mình
- Nghe ngóng thông tin về làng, về cuộc kháng chiến
- Luôn nhớ về làng, nhớ về những tháng ngày làm việc với anh em “sao mà độ ấy vui thế…”
- Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc:
+ Ông điếng người, không dám tin “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân…”
+ Giọng lạc hẳn đi, ông cúi gằm mặt mà đi
+ Thương những đứa con thơ bị mang tiếng Việt gian nước mắt ông trào ra.
+ Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!...”
+ Ăn không ngon, ngủ không yên, không dám bước chân ra ngoài vì xấu hổ.
- Khi nghe tin cải chính:
+ Vui sướng, hả hê "Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên…”
+ Đính chính thông tin với mọi người “Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả…”
+ Khoe khắp nơi về ngôi nhà bị đốt "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ Đốt nhẵn!
* Trung thành với cách mạng:
+ Tin tưởng với cách mạng, một lòng trung thành với cụ Hồ
+ Yêu làng nhưng làng theo giặc thì sẵn sàng đứng về phía cách mạng “làng thì yêu thật nhưng làng theo tây thì phải thù”.
3. Kết bài
Nhận xét về nhân vật ông Hai:
+ Ông Hai là đại diện tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam yêu nước
+ Ông Hai trở thành linh hồn của “Làng” và truyền tải trọn vẹn tư tưởng của nhà văn.
Dàn ý nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 5
1. Mở bài:
Kim Lân là nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Ông là một trong những nhà văn tuy viết ít nhưng thành công lớn. “Làng” là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Câu chuyện xoay quanh tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai. Đặt nhân vật trong một thử thách đặc biệt, nhà văn muốn khẳng định sâu sắc tinh thần kháng chiến, một lòng ủng hộ cách mạng của người nông dân Việt nam thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
2. Thân bài:
* Ông Hai khi còn ở làng
- Ông hai người lành chợ Dầu là một lão nông hiền lành, chất phát. Điều khiến người ta chú ý ở ông Hai đó là ông Hai có một tình yêu làng tha thiết.
- Ông yêu cái làng chợ Dầu như máu thịt của mình. Đi đâu, ông cũng khoe cái làng của ông to, đẹp, bề thế, khang trang.
- Tình yêu Làng gắn liền với yêu nước, yêu cách mạng:
+ Trước cách mạng: ông tự hào khoe làng giàu và đẹp với cái sinh phần của viên tổng đốc làng.
+ Sau cách mạng: ông chỉ nói về những buổi tập quân sự, những hào giao thông,… Ông thường đến phòng thông tin nghe lỏm tin kháng chiến, vui mừng với những thắng lợi của quân và dân ta
* Ông Hai khi ở nơi tản cư
a. Ông Hai trước khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.
+ Vì kháng chiến, gia đình ông Hai phải đi tản cư: ông Hai hăng hái lao động cùng anh em giữ làng, miễn cưỡng đi cùng vợ.
+ Ở nơi tản cư: Ông buồn chán, nhớ làng quê, sinh ra lầm lì cáu gắt. Ông Hai tiếp tục khoe làng: đi đâu ông cũng kể về làng chợ Dầu của ông “một cách say mê và náo nức lạ thường”, khoe làng có phòng thông tin, con đường lát đá, nhà ngói san sát. Ông khoe cho thỏa cái miệng và nỗi nhớ trong lòng, hầu như không quan tâm người nghe có hưởng ứng câu chuyện của mình không.
→ Khoe làng là cách bản năng nhất thể hiện tình yêu, nỗi nhớ và niềm tự hào về quê hương của ông Hai.
+ Khi nghe tin thằng Tây bị đánh ruột gan ông múa cả lên.
b. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc:
+ Cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân,…
+ Ông cúi gằm mặt xuống mà đi
+ Về nhà, nằm vật ra giường
+ Ở nhà nơm nớp lo sợ
+ Tâm sự với con trai út
+ Một lòng với cách mạng
c. Tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính:
+ Mặt ông vui rạng rỡ
+ Mua quà cho con
+ Đi đâu cũng khoe nhà bị đốt (phi lý mà hợp lý)
3. Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật. Liên hệ mở rộng về tình yêu quê hương, đất nước
* Nghệ thuật:
+ Xây dựng tình huống truyện độc đáo
+ Miêu tả tâm lý nhân vật sâu sắc
+ Ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ nhiều
* Nội dung: Sự chuyển biến của người nông dân trong tình yêu quê hương, đất nước thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp
* Liên hệ mở rộng: Tác phẩm văn học (“Quê hương” – Tế Hanh…) hoặc thực tế cuộc sống
3. Kết bài:
+ Khái quát: Tình yêu nước không xa xôi, khó hiểu, mà nó đơn giản chỉ là yêu làng, yêu quê hương nơi ta sinh ra và lớn lên
+ Khẳng định tình yêu làng, yêu nước của ông Hai nói riêng của người nông dân nói chung
+ Liên hệ bản thân.
Dàn ý nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 6
1.Mở bài:
Kim Lân là nhà văn chuyên viết về đề tài nông thôn, về những người nông dân.
“Làng” là tác phẩm ca ngợi lòng yêu nước thống nhất cùng tình yêu làng quê và tinh thần cách mạng của những người dân quê hiền lành, chân chất.
Nhân vật ông Hai là người có tình yêu làng, lòng yêu nước tha thiết.
2.Thân bài:
a. Ông Hai khi ở nơi tản cư:
- Ông là một người vô cùng yêu làng của mình, luôn đau đáu trong lòng nỗi nhớ quê hương, làng xóm.
- Ông nhớ về những ngày “cùng làm việc với anh em” ở làng, ông khao khát được trở lại làng.
- Ở khu tản cư, ông luôn giữ thói quen đến phòng thông tin “nghe lỏm” thông tin về kháng chiến.
- Trên đường đi, gặp ai ông cũng “níu lại” cười cười rồi bảo “Nắng này là bỏ mẹ chúng nó”.
- Nghe tin về những thắng lợi kháng chiến, ông Hai vui mừng tới mức “ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!”.
- Ở nơi tản cư nhưng ông vẫn luôn hướng về cách mạng, hướng về quê hương.
b. Tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu của mình theo giặc.
- Đó là khi ông bắt gặp những người tản cư mới lên, mang theo những tin tức mới trong đó có tin về làng Chợ Dầu của ông.
- Khi nghe đến cái tên làng mình, ông Hai “lắp bắp hỏi: Nó…Nó vào làng Chợ Dầu hở bác?”
- Khi nghe tin làng mình theo giặc, ông Hai như chết đứng “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, “tưởng như đến không thở được”.
- Ông hỏi lại trong niềm băn khoăn, sợ hãi “Liệu có thật không hở bác?” nhưng nhận lại là sự khẳng định chắc nịch khiến ông Hai bỗng chốc sụp đổ, cảm giác tủi nhục lan dần trong tâm trí ông.
- Ông Hai yêu làng bao nhiêu thì giờ đây tủi nhục, đau xót bấy nhiêu, nó khiến ông phải “cúi gằm mặt xuống mà đi”.
- Ông Hai trở về nhà trong nỗi đau đớn, ông “nằm vật ra giường”, “nước mắt ông lão giàn ra”, ông tủi hổ vô cùng.
- Nhìn những đứa con, ông càng đau xót, tủi hổ hơn “chúng nó cũng là trẻ con của làng Việt gian đấy ư?”
- Bao nhiêu tâm tư giằng xé trong tâm trí ông, ông thương con và thương cho cả chính bản thân mình.
- Ông căm phẫn những kẻ phản đồ, “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước?”.
- Ông Hai không cam tâm, ông kiểm điểm lại từng người trong làng “Họ toàn là những người có tinh thần cơ mà”.
- Thế nhưng niềm hi vọng cuối cùng bị dập tắt, nỗi chua xót trào dâng trong tâm hồn ông “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!”.
- Đó là tiếng thét uất hận của một trái tim đau đớn, khi nghe tin cái làng mình yêu quý theo giặc.
- Nỗi đau, sự bứt rứt trong lòng khiến ông gắt gỏng với vợ mình, ông lo lắng, sợ mụ chủ nhà đuổi, sợ không còn chỗ dung thân,…
- Sau khi nghe tin dữ, ông Hai không còn hoạt bát như trước, ông lầm lũi “quanh quẩn trong nhà”, không ra ngoài cũng chẳng tâm sự cùng ai.
- Nghe những từ như “Tây, xe cam-nhông”,… là khiến cho ông sợ hãi, né tránh.
- Đến khi mụ chủ nhà có ý đuổi gia đình ông đi, ông đứng trước lựa chọn, “trở về làng” hay theo cách mạng, ông đã quả quyết, dứt khoát theo kháng chiến “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”.
c. Tâm trạng ông Hai khi nghe tin cải chính:
- Khuôn mặt ủ rũ của ông hôm nay trở nên “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”.
- Ông mua quà cho con, chạy sang nhà bác Thứ khoe với giọng bô bô “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn”.
- Niềm vui sướng, hả hê đến vô cùng dù rằng nhà ông bị đốt phá. Bởi đó là minh chứng cho việc làng ông không theo Việt gian và ông không trở thành một kẻ tội đồ của dân tộc.
- Sự mâu thuẫn rất đỗi hợp lí chứng minh cho ngòi bút xuất sắc của Kim Lân.
- Câu chuyện khép lại trong sự hân hoan, náo nức, vui sướng của ông Hai.
d. Đánh giá nội dung, nghệ thuật:
- Nội dung: Qua nhân vật ông Hai, ta cảm nhận được tình yêu quê hương thống nhất cùng tình yêu đất nước và tinh thần kháng chiến. Đó chính là tình yêu đất nước của những người nông dân trong thời kì kháng chiến cứu quốc.
- Nghệ thuật: Nghệ thuật xây dựng nhân vật vô cùng thành công:
- Đặt nhân vật vào tình huống cụ thể để làm nổi bật tính cách nhân vật.
- Miêu tả cụ thể vẻ mặt, cử chỉ, hành động,… khiến nhân vật hiện lên chân thực, đầy sức sống.
- Ngôn ngữ trong truyện mộc mạc, giản dị, là lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân.
3.Kết bài:
- Ông Hai là linh hồn của truyện ngắn “Làng”.
- Ông là đại diện cho những người nông dân đã góp phần vào chiến thắng của kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Dàn ý nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 7
I. Mở bài: Giới thiệu về truyện ngắn Làng và nhân vật ông Hai
Truyện ngắn Làng là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân
Ông Hai là nhân vật trung tâm của tác phẩm
II. Thân bài:
a. Ông Hai có tình yêu làng sâu sắc
- Hay khoe về làng bằng giọng điệu “say mê và náo nức lạ thường”.
- Tự hào về truyền thống kháng chiến, về vẻ đẹp của làng.
- Lúc nào cũng nhớ về làng “Chao ôi! Ông lão nhớ cái làng này quá”.
- Xa quê nhưng ông luôn nghe ngóng tin tức về làng
- Đau đớn, bế tắc khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.
b. Yêu nước, một lòng trung thành với cách mạng
- Ở nơi tản cư, ông thường xuyên đến phòng thông tin nghe ngóng tình hình cách mạng, khoái chí, tự hào trước những thành tích đấu tranh của nhân dân.
- Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc
- Đau khổ, bất bình khi làng theo giặc.
- Dù yêu làng nhưng làng theo giặc thì quyết đứng về phía cách mạng “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.
- Nghe tin cải chính: vui mừng, sung sướng; đi khoe với mọi người nhà mình bị giặc đốt, rằng làng chợ Dầu không theo giặc.
III. Kết bài: Cảm nghĩ chung:
- Ông Hai là có tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc
- Ông Hai là biểu tượng cho những người nông dân yêu nước trong kháng chiến.
Dàn ý nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 8
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát về tác giả Kim Lân (những nét chính về con người, cuộc đời, đặc điểm sáng tác,…)
Giới thiệu khái quát về truyện ngắn Làng (xuất xứ, những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật,…)
Nêu vấn đề nghị luận: phân tích nhân vật ông Hai
2. Thân bài
a. Tình huống truyện dẫn đến những thay đổi, chuyển biến tâm lí của nhân vật ông Hai.
Ông Hai là một người nông dân yêu làng, ở nơi tản cư mới, làng chính là niềm tự hào của ông
Một ngày ông nghe được tin dữ – làng Chợ Dầu theo giặc, làm Việt gian.
Chính hoàn cảnh có tính bước ngoặt ấy đã đẩy nhân vật ông Hai vào tình huống đầy thử thách và giúp ông bộc lộ tính cách, tâm trạng của mình.
b. Phân tích diễn biến tâm lí của nhân vật ông Hai
- Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc:
Từ chỗ đang vui vẻ, phấn khởi vì vừa nghe được tin chiến thắng, tiêu diệt được giặc ở nhiều nơi qua tờ báo thông tin thì niềm vui ấy bỗng chốc vụt tắt khi ông nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc từ những người dân tản cư
Trên đường về, cái nỗi tủi hổ, đau đớn của ông được thể hiện ở cái dáng vẻ “cúi gằm mặt xuống mà đi”
Khi về đến nhà:
Nhìn thấy đàn con mà lão thấy tủi thân, nghĩ đến sự xa lánh của mọi người với gia đình ông
Ông Hai thao thức, bồn chồn lo lắng không sao ngủ được “Ông Hai vẫn trằn trọc không sao ngủ được
Suốt mấy ngày sau, ông chẳng dám đi đâu, cứ quanh quẩn ở nhà.
Trong ông diễn ra một cuộc xung đột nội tâm gay gắt và để rồi, tình yêu nước đã lớn hơn tất cả để cuối cùng ông đi tới quyết định “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù ”
Ông tâm sự cùng con: những lời tâm sự cùng con của ông cho thấy ông là người có lòng yêu nước sâu sắc và luôn sục sôi tinh thần cách mạng.
- Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin cải chính – làng Chợ Dầu không theo giặc:
Ông Hai “đi mãi tới tận sẩm tối mới về. Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng vui tươi, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung đỏ, hấp háy,…”
Ông còn vội vàng chạy sang nhà bác Thứ khoe với bác cùng tất cả mọi người
3. Kết bài
Khái quát lại về nhân vật ông Hai, nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm và nêu suy nghĩ, cảm nhận của bản thân về nhân vật.
Dàn ý nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 9
1. Mở bài:
Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 – 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hóa xứ Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân. Đi khang chiến, ông thảo thiết muốn thể hiện tinh thần kháng chiến của người nông dân.
Truyện ngắn "Làng" được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp chí Văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng định vì nó thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của dân tộc, tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản chất truyền thống cùng những biến đổi mới trong tình cảm vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
2. Thân bài:
- Truyện ngắn "Làng" biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc, tình cảm quê hương đất nước. Với người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến, thì tình yêu làng xóm quê hương đã hoà nhập trong tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình cảm đó vừa có tính truyền thống vừa có chuyển biến mới.
- Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai. Ở ông Hai, tình cảm chung đó mang rõ màu sắc riêng, in ro cá tính chỉ riêng ông mới có.
+ Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thông trong ông Hai.
- Ông thường khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.
- Cái làng đó với người nông dân có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần.
- Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, về việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông.
+ Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những biến đổi mới trong tình cảm.
- Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bình luận, náo nức trước tin thắng lợi ở mọi nơi.
- Khi mới nghe tin xấu đó, ông sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể rành rành, không tin không được, ông xấu hổ lảng ra về.
- Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tụi hổ vì chúng nó "cũng bị người ta rẻ ruột, hắt hủi".
- Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cái tin nhục nhã ấy choáng hết tâm trí ông thành nỗi ám ảnh kinh hoàng. Ông luôn hoảng hốt giật mình. Không khí nặng nề bao trùm cả nhà.
+ Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc.
Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội tâm gay gắt: Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tụi hổ quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có tin đồn không đâu chứa chấp người làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói cứng như vậy nhưng thực lòng đau như cắt.
=> Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông chút nỗi lòng vào lời tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự nhuận mình trong những lúc thử thách căng thẳng này.
3. Kết bài
Nhìn vào ông Hai, chúng ta không chỉ thấy một người nông dân bình thường, mà còn thấy một tâm hồn đã được chạm đến bởi đất nước, bởi quê hương. Sự mở rộng và thống nhất của tình yêu quê hương trong tình yêu đất nước được tác giả thể hiện qua ông Hai, giúp cho độc giả hiểu rõ hơn về tinh thần cao quý của những người dân lao động trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp.
Truyện ngắn "Làng" của Kim Lân không chỉ là một câu chuyện, mà còn là một bức tranh sống động về tình yêu, lòng trung thành và sự hy sinh của người dân Việt Nam. Đó là một trong những thành công đáng quý của văn học thời kỳ kháng chiến, làm nổi bật tinh thần dân tộc và giá trị nhân văn cao cả.
Dàn ý nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 10
I. Mở bài:
Nhà văn Kim Lân và tác phẩm "Làng":
- Giới thiệu về nhà văn Kim Lân, một trong những nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam, với tác phẩm nổi tiếng "Làng".
- Tóm tắt về nội dung của truyện ngắn "Làng", nơi mà nhân vật chính ông Hai vừa là một phần của cuộc sống thường nhật vừa là biểu tượng của tình yêu và niềm tin vào quê hương, làng quê.
II. Thân bài:
a. Giới thiệu nhân vật ông Hai:
- Ông Hai là một người dân làng Chợ Dầu, một nông dân chất phác, sống gắn bó và yêu quý làng quê của mình.
- Phải rời xa làng theo lệnh của Ủy ban, ông Hai vẫn luôn giữ trong lòng tình yêu sâu đậm đối với làng quê.
b. Phân tích nhân vật ông Hai:
- Tâm trạng và hành động của ông Hai khi phải rời làng và khi nghe tin làng bị giặc tấn công.
- Sự thay đổi trong tâm trạng của ông Hai từ niềm vui đến nỗi buồn, lo âu và xót xa khi làng bị giặc tàn phá.
- Quyết tâm và lòng trung thành của ông Hai với cách mạng và làng quê.
c. Đánh giá chung:
- Ông Hai là biểu tượng của tầng lớp nông dân, đại diện cho tinh thần yêu nước, yêu làng, yêu quê hương.
- Tình yêu và niềm tin vào làng quê của ông Hai được thể hiện qua từng hành động và tâm trạng của mình.
- Nhân vật ông Hai được xây dựng giản dị, gần gũi nhưng vẫn toát lên một vẻ đẹp lãng mạn và sâu sắc.
III. Kết bài:
- Tóm tắt về vẻ đẹp của nhân vật ông Hai, về sự trung thành và lòng yêu quê hương, làng quê.
- Liên hệ mở rộng: Ông Hai không chỉ là một biểu tượng trong truyện "Làng" mà còn là biểu tượng của nền văn học Việt Nam, là nguồn cảm hứng cho thế hệ sau.
Dàn ý nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 11
I. Mở bài:
Kim Lân, một trong những nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam thế kỷ XX, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả qua tác phẩm "Làng". Truyện ngắn này không chỉ là một câu chuyện mà còn là biểu tượng của tinh thần yêu làng, yêu nước của nhân vật chính là ông Hai. Đặt ông Hai trong một bối cảnh đặc biệt, nhà văn Kim Lân muốn khẳng định tinh thần kháng chiến và sự ủng hộ cách mạng của người nông dân Việt Nam thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
II. Thân bài:
- Ông Hai khi còn ở làng:
+ Ông Hai là một lão nông hiền lành, chất phát, sinh sống tại làng chợ Dầu. Tình yêu của ông dành cho làng là không gì có thể sánh kịp.
+ Trước cách mạng, ông tự hào khoe làng giàu có và đẹp đẽ, mang trong mình tự hào về con đường phát triển của làng chợ Dầu. Sau cách mạng, ông thể hiện lòng yêu nước và yêu cách mạng thông qua việc tham gia các hoạt động và vui mừng với những thắng lợi của quân và dân ta.
- Ông Hai khi ở nơi tản cư:
+ Trước khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, ông Hai cảm thấy buồn chán và nhớ nhà, nhưng vẫn không quên khoe về làng chợ Dầu ở mọi nơi. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, ông trải qua những biến động cảm xúc từ sự shock đến sự lo lắng và tâm sự với gia đình.
+ Khi nghe tin cải chính, ông vui mừng và hào hứng khoe về làng chợ Dầu với mọi người, thể hiện sự trung thành và niềm tin vào cách mạng.
=> Đánh giá chung và liên hệ mở rộng:
- Nghệ thuật: Kim Lân đã xây dựng tình huống và miêu tả tâm lý nhân vật một cách sâu sắc và chân thực. Sử dụng ngôn ngữ mạch lạc và sinh động để tạo nên hình ảnh ông Hai và làng chợ Dầu.
- Nội dung: "Làng" không chỉ là câu chuyện về một người nông dân, mà còn là câu chuyện về tình yêu quê hương, đất nước trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
- Liên hệ mở rộng: Tình yêu quê hương, đất nước không chỉ xuất phát từ lòng của ông Hai mà còn là của hàng triệu người Việt Nam. Các tác phẩm văn học khác như "Quê hương" của Tế Hanh cũng thể hiện sự yêu nước mạnh mẽ.
III. Kết bài:
Tình yêu quê hương và đất nước là điểm nhấn chính trong tác phẩm "Làng". Qua nhân vật ông Hai, Kim Lân đã thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước của người nông dân Việt Nam. Đồng thời, tác phẩm cũng mở ra một góc nhìn mới về tình yêu và lòng trung thành của người dân Việt Nam trong cuộc sống và trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
Dàn ý nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 12
I. Mở bài:
Trong truyện ngắn "Làng", ta được giới thiệu với một nhân vật vô cùng đặc biệt - ông Hai, người nông dân hiền lành, chất phác, sống tại làng chợ Dầu. Ông Hai không chỉ là một nhân vật trong truyện, mà còn là biểu tượng của lòng yêu làng và trung thành với cách mạng.
II. Thân bài:
- Giới thiệu về ông Hai: Ông Hai là một người nông dân giản dị và trung thành, sinh sống tại làng chợ Dầu. Do hoàn cảnh, ông phải rời quê hương để đến một nơi tản cư khác. Tuy nhiên, dù xa cách, ông vẫn luôn giữ trong lòng mình tình yêu mãnh liệt đối với quê hương và làng chợ Dầu.
- Lòng yêu làng tha thiết:
+ Ở nơi tản cư: Ông luôn háo hức, say mê khi kể về làng chợ Dầu và những kỷ niệm đẹp của mình. Nghe tin về cuộc kháng chiến của làng, ông luôn nhớ về những ngày làm việc và giao lưu với anh em.
+ Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc: Ông bàng hoàng, đau đớn và không dám tin vào sự phản bội của làng. Nỗi đau và xấu hổ khi làng chợ Dầu bị mang tiếng việt gian đặt ra làm ông khổ sở và không thể ngủ yên.
+ Khi nghe tin cải chính: Ông vui mừng, hả hê khi nhận ra rằng làng chợ Dầu không hề phản bội cách mạng. Ông đính chính thông tin và khoe với mọi người về việc nhà mình bị đốt nhưng thực ra không hề có sự việc đó.
- Trung thành với cách mạng: Ông Hai là một người tin tưởng và trung thành với cách mạng, luôn sẵn sàng đứng về phía cách mạng dù làng chợ Dầu có bị nhiễm bởi sự phản bội. Ông hiểu rằng yêu làng không đồng nghĩa với việc chấp nhận sự phản bội, và ông quyết định đứng về phía đúng đắn.
III. Kết bài:
Nhân vật ông Hai trong truyện "Làng" không chỉ là một người nông dân đơn thuần mà còn là biểu tượng cho lòng yêu nước và trung thành với lý tưởng cách mạng. Ông Hai không chỉ là nhân vật trong câu chuyện, mà còn trở thành linh hồn của "Làng" và truyền tải trọn vẹn tư tưởng của nhà văn.
Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 1
Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc. Đó là người nông dân có tình yêu làng và yêu nước sâu sắc, hai tình yêu này hòa quyện với nhau tạo nên dấu ấn khó phai về nhân vật.
Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện ở mọi lúc, mọi nơi, nó ngấm vào máu thịt trong ông. Tình yêu ấy có thể chia làm ba chặng chính: tình yêu làng khi ông Hai ở làng tản cư; tình yêu làng, yêu nước khi ông Hai nghe tin làng mình theo Việt gian; tình yêu làng, yêu nước khi ông nghe tin cải chính.
Trước hết, tình yêu làng của ông Hai khi ở làng tản cư. Ở nơi tản cư, ông Hai nhớ làng da diết, tâm trí ông luôn hướng về những ngày hoạt động kháng chiến, những ngày đào ụ, xẻ hào để giữ làng cùng anh em, đồng đội. Giữa những thay đổi của hoàn cảnh hiện tại, phải tản cư đi nơi khác, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng mỗi khi nhớ về làng quê yêu dấu lại tiếp thêm cho ông động lực, làm dịu đi trong ông những tủi cực của một kẻ tha hương. Có thể thấy ở ông Hai, tình yêu làng gắn bó mật thiết, bền chặt với tình cảm kháng chiến. Nỗi nhớ ngập tràn và lòng khao khát, mong muốn trở lại làng để được tham gia kháng chiến dồn nén mạnh mẽ đến mức ông bật thành lời: Chao ôi ! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá !. Ông Hai hàng ngày đều đến phòng thông tin, một mặt để dõi theo từng bước đi của cuộc kháng chiến, nhưng sâu xa hơn, ông đến vì mong mỏi khoảnh khắc nào đó ông có thể nghe được tin tức về làng chợ Dầu. Khi nghe những thông tin quân ta thắng lòng ông phấn chấn, hỉ hả ruột gan ông lão như múa lên. Vui quá. Niềm vui đi liền với niềm tin vào một ngày cách mạng thắng lợi, ông sẽ được trở về ngôi làng yên bình của mình.
Tình yêu làng còn được thể hiện một cách sâu sắc khi ông nghe tin làng theo Tây. Trong lúc ông Hai đang sống trong cảm xúc vui sướng thì tim ông như vỡ vụn khi nghe tin cả làng chợ Dầu Việt gian theo Tây. Chính trong hoàn cảnh thử thách éo le này tình yêu làng mà cao hơn là tình yêu nước trong ông được bộc lộ một cách sâu sắc. Ông vô cùng bàng hoàng, bất ngờ, nỗi xúc động tột cùng dâng trào, gương mặt cố tỏ ra bình tĩnh nhưng không thể nào nén lại nỗi đau đang lan dần trên khuôn mặt ông: cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, lặng đi, tưởng như không thở được …. Đó quả thực là một tin trời giáng đối với ông Hai, ông không thể tin và không muốn tin đó là sự thật. Nhưng lời của người đàn bà quả quyết quá, bằng cớ rõ ràng quá khiến ông đành phải tin cái sự thật khủng khiếp ấy. Những lời nói của những người tản cứ như con dao cứ vào trái tim ông. Ông cúi gằm mặt mà đi, đau đớn, tủi nhục đến tốt cùng. Danh dự, lòng tự trong mà lớn hơn là điều gì đó vô cùng thiêng liêng trong lòng ông đã sụp đổ.
Về đến nhà, ông nằm vật ra đường, nhìn những đứa con ông lại càng thương chúng hơn: chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư, uất hận ông rít lên trong đau đớn chúng bay miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này, ông căm ghét, khinh bỉ đến tột cùng. Trò chuyện với vợ trong gian nhà nhỏ, thái độ của ông vừa bực bội, vừa đau đớn, đâm ra ông gắt gỏng vô cớ với vợ. Những ngày này ông chỉ ở nhà, không dám đi đâu. Trong hoàn cảnh đó ông và cả gia đình còn bị mụ chủ nhà khó tính đuổi khéo đi. Điều đó làm ông Hai trở nên bế tắc tuyệt vọng hơn bao giờ hết. Chính giây phút tuyệt vọng đấy ông đã nghĩ hay là về làng. Nhưng lập tức trong ông diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt: về làng tức là rời bỏ kháng chiến, đầu hàng Tây,… Đến đây tình cảm cách mạng và lòng yêu nước đã thực sự hòa quyện trong ông. Tình yêu làng của ông giờ đây gắn liền với tình yêu nước, với kháng chiến và được thể hiện rõ nét trong cuộc đối thoại với đứa con út. Lời khẳng định dứt khoát, kiên định: Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm, là tiếng lòng trung thành với Bác Hồ, với Đảng và với đất nước. Hơn hết, dù đau đớn nhưng ông vẫn tin rằng anh em đồng chí biết cho bố con ông, cụ Hồ trên đầu, trên cổ soi xét cho bố con ông. Sự trung thành của ông với lãnh tụ, với kháng chiến cũng là lòng trung thành của triệu người dân Việt Nam với Đảng với cách mạng.
Tình yêu làng của ông Hai một lần nữa được thể hiện rõ nét trong đoạn cuối tác phẩm khi ông Hai nghe tin cải chính, làng chợ Dầu không theo Tây. Mới đến ngõ, chưa vào nhà ông đã bô bô, rồi lật đật chạy sang nhà bác Thứ, đi hết nơi này đến nơi khác để khoe, vừa đi ông vừa múa lên. Niềm vui ấy đến mức dù nhà mình bị đốt cháy ông cũng chẳng hề lưu tâm. Chi tiết này khiến người đọc càng cảm động hơn, trân trọng hơn tình yêu làng, yêu tổ quốc, yếu kháng chiến của ông Hai.
Nhân vật ông Hai được khắc họa chủ yếu qua ngôn ngữ và diễn biến tâm trạng. Ngôn ngữ nhân vật giản dị, chân thật, giàu cảm xúc. Diễn biến tâm trạng được bộc lộ trực tiếp qua những cảm xúc, suy nghĩ và thông qua cả cử chỉ, điệu bộ, dáng vẻ. Đồng thời quá trình vận động tâm lí cũng hết sức hợp lí từ nhớ nhung, mong mỏi đến bất ngờ, bàng hoàng, chìm trong tủi nhục, đau khổ và cuối cùng là niềm vui mừng vỡ òa, hạnh phúc tột cùng.
Bằng lối văn chân thực, giàu cảm xúc Kim Lân đã thành công trong việc xây dựng nhân vật ông Hai. Nhân vật mang trong mình tình yêu làng, yêu nước nồng nàn, tha thiết. Lòng yêu nước bao trùm và chi phối tình yêu làng – đây là bước chuyển biến mới trong tư tưởng nhận thức của những người nông dân sau cách mạng.
Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 2
Hình ảnh người nông dân từ lâu đã đi vào nền văn học dân tộc, nó trở thành đề tài, khơi nguồn cảm hứng cho biết bao nhiêu người nghệ sĩ. Nếu như trước cách mạng tháng tám, ta bắt gặp hình ảnh chị Dậu quẩn quanh trong cái đói, cái nghèo qua truyện ngắn "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố; hình ảnh Chí Phèo tha hóa, biến chất từ người lương thiện trở thành thằng côn đồ, lưu manh, con quỷ dữ của làng Vũ Đại trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao ... thì sau cách mạng, nhà văn Kim Lân cũng góp một hình ảnh người nông dân vào trong đề tài ấy với thiên truyện ngắn mang tên: "Làng" (1948). Thế nhưng, Kim Lân không khai thác cái nghèo, cái đói, sự tha hóa về nhân tính, nhân hình của họ giống như các nhà văn trước đó, mà ông lại đi vào diễn tả sự hòa quyện giữa tình yêu làng và tình yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân. Điều đó, được Kim Lân thể hiện rất thành công qua hình tượng nhân vật ông Hai, để rồi từ đó ông Hai trở thành bức tượng đài biểu tượng cho người nông dân trong thời đại mới – thời đại cách mạng và kháng chiến.
Trước hết, ông Hai hiện lên là một người nông dân yêu nước, yêu làng, luôn tự hào về quê hương, bản quán, nơi chôn rau cắt rốn của mình.Tình cảm đó, được thể hiện ở cái tính thích khoe về làng, hãnh diện về làng của ông. Đi đến đâu, ông cũng khoe với mọi người, làng ông giàu đẹp, làng ông có truyền thống cách mạng. Vì thế, mỗi lần kể về làng, ông kể với một thái độ say mê, khuôn mặt biến chuyển, đôi mắt thì háo hức, ông có thể nói với bất cứ ai về cái đề tài vô tận đó. Kể cả khi ông nói, người nghe có muốn nghe hay không, ông cũng mặc kệ, bất chấp cứ say sưa mà nói. Vậy mà giờ đây, ông Hai lại phải xa quê, xa làng, đưa cả gia đình đi tản cứ theo lệnh. "Ông nằm vật trên giường, bắt tay lên trán nghĩ ngợi vẩn vơ. Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến cái ngày làm việc cùng anh em...", ông nhớ tới cái ngày tháng cùng bạn bè, anh em trong làng, trong xóm đào hào, đắp ụ, công việc bộn bề, mải mê làm, ông "chẳng còn kịp nghĩ gì đến vợ con nhà cửa nữa"... Và đằng sau cái nỗi nhớ ấy, người đọc thấy được sự gắn bó thiết tha cùng tình cảm yêu mến chân thành của ông Hai với xóm, với làng. Tình cảm ấy, thật khiến chúng ta nhớ tới câu ca dao xưa:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Và, ở ông Hai cũng vậy, tất cả mọi thứ gắn liền với làng Chợ Dầu, ông đều khắc ghi, đều nhớ ở trong tận đáy lòng: "Chao ôi! Ông lão nhớ lang, nhớ cái làng quá". Và càng nhớ, ông lại càng muốn tìm hiểu, muốn nghe ngóng về tình hình của làng. Vì vậy, ngày nào cũng thế, ở nơi tản cứ, cứ mỗi sáng việc làm đầu tiên là ông vào phòng thông tin mà nghe, mà đọc báo, hi vọng sẽ biết chút ít về làng, về kháng chiến. Cho nên khi biết được toàn những tin tốt lành về cách mạng, "ruột gan ông cứ múa cả lên, vui quá!"... Như vậy, đến đây chúng ta thấy được nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng của nhân vật ông Hai và ông luôn dõi theo từng bước đi của cách mạng, của kháng chiến. Đó là nét tâm lí điển hình, thường thấy và vốn có của người nông dân đối với làng quê, đất nước, niềm mong mỏi được trở về làng, trở về nơi quê cha đất tổ cũng đồng nghĩa với niềm mong mỏi tổ quốc sạch bóng ngoại xâm.
Nhưng có một sự kiện bất ngờ đã xảy ra với ông, từ phòng thông tin bước ra đang rất phấn khởi, náo nức vì những tin vui của kháng chiến, gặp người tản cư, nghe họ nhắc tới tên làng, ông Hai quay phát lại, lắp bắp hỏi, hi vọng được nghe những tin tốt lành về làng, nào ngờ lại hay tin: cả làng chợ Dầu theo giặc. Trước tin dữ ấy, ông Hai sững sờ chết lặng “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thở được”. Từ niềm vui, niềm tin hi vọng, ông Hai rơi xuống vực thẳm đau buồn, xót xa, tuyệt vọng. Ông cố gắng trấn tĩnh bản thân và tìm cách lảng ra về, muốn che giấu đi tâm trạng ấy nhưng nỗi tủi hổ, bẽ bàng, lo lắng khiến ông “cúi gằm mặt mà đi”, còn văng vẳng tiếng chửi “giống Việt gian bán nước”.
Khi về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, rồi tủi thân khi nhìn đàn con nhỏ: “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Những dòng độc thoại nội tâm trong ông thể hiện nỗi day dứt, đau đớn: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?...”. Ông căm giận lũ người theo giặc, phản bội làng nước, ông lão nắm chặt hai tay mà rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Nhưng sau đó, ông lại cảm thấy “ngờ ngợ” như lời của mình không được đúng lắm. Niềm tin và nỗi thất vọng đang giằng xé trong ông. “Ông kiểm điểm từng người trong óc” thấy họ đều là những người có tinh thần kháng chiến, một sống một chết với giặc, có đời nào lại can tâm làm điều nhục nhã ấy được. Trong hoàn cảnh giặc giã thì tinh thần yêu nước, tinh thần kháng chiến là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao đẹp; còn phản bội là điều xấu xa ô nhục nhất. Vì thế từ khi nghe tin làng mình theo giặc, nó đã trở thành nỗi ám ảnh, day dứt trong tâm trí của ông, khiến ông ba bốn hôm nay không dam bước chân ra đến ngoài. Suốt ngày chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng binh tình. “Một đám đông túm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng nói xa xa ông cũng chột dạ”, lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý , đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”; cứ thoáng nghe những tiếng Tây, cam nhông , Việt gian là ông lại lủi thủi ra một góc nhà nín thít… “Thôi lại chuyện ấy rồi!”. Ông luôn thu mình lại, cảm thấy xấu hổ, đau xót và dường như cảm thấy chính mình cũng có tội vậy. Ông rời vào tình trạng tuyệt vọng khi mà bà chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi vì “nghe nói, bảo có lệnh đuổi hết những người làng chợ Dầu khỏi vùng này, không cho ở nữa”. Ông Hai không biết đi đâu, cũng không thể quay lại trở về làng vì về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, “về làng tức là chụy quay lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Trong ông Hai diễn ra cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt và dứt khoát lựa chọn theo cách của mình “Làng thì yêu thật những làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Tình yêu nước đã bao trùm lên tình yêu làng. Song ông không thể vứt bỏ tình yêu làng nên ông Hai càng đau xót, tủi hổ. Trong tâm trạng bị dồn nén, không biết giải tỏa như thế nào, ông Hai chỉ còn biết trút lòng mình với đứa con nhỏ. Cuộc đối thoại giữa ông và đứa con trai đã bộc lộ thật cảm động tấm lòng gắn bó sâu sắc với làng quê, với đất nước và với kháng chiến của ông Hai. Ông nói với con mà như tự nói với chính mình, tự mình oan, tự chiêu tuyết cho mình. Đoạn thoại, vừa chất chứa nỗi đau đớn, xót xa, lại vừa thể hiện tấm lòng thủy chung, son sắt với kháng chiến, với cách mạng, với cụ Hồ.
Có lẽ, nếu không nhận được tin cải chính thì cả đời ông Hai sẽ chết dần, chết mòn trong nỗi đau đớn, tủi hổ, bẽ bàng về cái làng của mình mất. Những sau đó, chính quyền làng ông đã lên cải chính cái tin làng chợ Dầu theo giặc. Nhận được tin, ông Hai như sống lại, niềm vui tràn ngập trong ông: quần áo chỉnh tề, mặt tươi vui, rạng rỡ hẳn lên, mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy, nói bô bô, mua quà cho các con…. Đặc biệt là hành động ông chạy đi khoe với tất cả mọi người cái tin vui ấy. Niềm vui sướng, hạnh phúc dâng trào khiến ông cứ múa tay lên mà khoe. Và lạ thay, câu đầu tiên ông khoe không phải là việc làng ông không theo giặc mà là “Tây nó đốt nhà tôi rồi… đốt nhẵn!”. Với người nông dân, căn nhà là cả cơ nghiệp của họ mà cả đời họ làm lụng vất vả mới có được. Nhưng ông Hai không hề tiếc căn nhà của mình bởi nó là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc và trên hết là nó như là sự “đóng góp” của gia đình ông với kháng chiến. Điều đó, một lần nữa càng khẳng định rõ ràng hơn tình yêu làng, tình yêu nước và sự trung thành với kháng chiến ở ông Hai.
Đến đây, chúng ta thấy được sức sáng tạo độc đáo của Kim Lân trong nghệ thuật tạo tình huống, thực sự gay cấn, kịch tính với những thử thách của nội tâm nhân vật, từ đó bộc lộ chiều sâu đời sống bên trong, tình cảm, tư tưởng của nhân vật. Tác giả đã miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế, rất cụ thể, gợi cảm qua thế giới nội tâm với các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ. Đặc biệt, nhà văn đã diễn tả rất đúng, rất ấn tượng về sự ám ảnh day dứt trong tâm trạng nhân vật. Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc con người và những nét tâm lí vôn có của người nông dân Việt Nam sau lũy tre làng.
Qủa đúng như nhà văn Ra – xun Gam – za – tôp đã từng nói: "Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương, chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người"; có nghĩa là con người có thể rời xa quê hương về mặt khoảng không vũ trụ, địa lí nhưng trong sâu thẳm trái tim, tâm hồn mỗi người, quê hương vẫn luôn tồn tại. Điều đó thật đúng với nhân vật ông Hai, một người nông dân xa làng đi tản cư nhưng luôn đau đáu một nỗi nhớ làng, yêu nước. Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấy được tài năng khắc họa hình tượng nhân vật của nhà văn Kim Lân, thật độc đáo, thật sống động, mang đậm yếu tố thời đại kháng chiến cách mạng: lòng yêu làng, yêu nước, trung thành với kháng chiến, với dân tộc. Ông Hai trở thành bức tượng bài bất tử, biểu tượng cho người nông dân Việt Nam trong cuộc trường kì của cách mạng dân tộc.
Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 3
Tình yêu quê hương, đất nước là một chủ đề lớn của văn học dân tộc. Đọc mỗi câu thơ, bài văn ta không khỏi bồi hồi, xúc động trước tình cảm mà tác giả biểu lộ với nơi mình được sinh ra: “Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ/ Màu nước xanh cá bạc chiếc buồm vôi/ Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi/ Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá” (Tế Hanh). Nằm trong chuỗi đề tài lớn ấy, ta không thể không nhớ đến một ông Hai với lòng yêu nước nồng nàn và tình yêu làng tha thiết trong tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân.
Cuộc kháng chiến diễn ra ngày một ác liệt, ông Hai sinh sống ở làng chợ Dầu phải tản cư đi nơi khác. Trong những ngày rời xa ngôi làng yêu dấu lòng ông không ngừng thổn thức nhớ về quê hương. Ông chăm chú lắng nghe từng tin về kháng chiến, về làng. Và đỉnh điểm của tình yêu đó chính là khi ông nghe tin làng chợ Dầu theo giặc. Ông Hai bị đặt trong tình thế phải lựa chọn giữa làng và nước. Cuối cùng ông Hai đã chọn tình yêu nước, bởi làng đã theo giặc thì phải thù. Như vậy, tiếp tục khai thác về lòng yêu nước, nhưng bằng ngòi bút tinh tế Kim Lân đã phát hiện ra nét mới trong tình yêu nước của người nông dân.
Trong những ngày phải sinh sống ở làng tản cư, ông Hai không ngừng nhớ thương về ngôi làng. Làm sao không nhớ cho được nơi chôn rau cắt rốn của mình, đúng như nhà thơ Đỗ Trung Quân đã từng viết:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
Ông Hai cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Mặc dù cuộc sống lao động vất vả, nhưng trong những phút rảnh rỗi ông vẫn mường tượng nhớ về những công việc mình đã làm với các đồng chí, đồng đội: đào, cuốc, đắp ụ, xẻ hào,… Mỗi lần hồi tưởng làm ông lại có động lực hơn, lòng yêu nước lại mạnh mẽ hơn. Ngày nào ông cũng nghe ngóng tin tức, bụng ông như múa lên mỗi lần nghe được một tin thắng trận của ta. Những hành động đôi khi có phần trẻ con, nhưng đó chính là biểu hiện chân thực nhất của lòng yêu nước nồng nàn trong ông và cũng như của tất cả những người Việt Nam khác.
Nhưng mọi chuyện đối với ông lại không hề suôn sẻ, những ngày tháng ở làng tản cư, khi lòng nhớ làng lúc nào cũng sục sôi thì bỗng ông nhận được tin dữ ấy là làng mình theo giặc. Cái tin đó chẳng khác gì gáo nước lạnh đổ thẳng vào lòng nhiệt thành và trái tim yêu làng cháy bỏng của ông. Bàng hoàng và sững sờ, “cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân”. Làm sao ông có thể không bàng hoàng cho được, cái tin đó quá đỗi bất ngờ và ngoài sức tưởng tượng của ông. Như để xác minh lại thông tin, ông Hai còn cố gắng hỏi lại người đàn bà: “Liệu có thật không hở bác”. Giọng nói run run, nghẹn ứ và sau khi nghe lời xác nhận, ông lặng lẽ vươn vai, rồi hắng giọng về. Câu nói đưa đẩy ấy chất chứa bao tâm tư, bao nỗi lòng trong ông. Trên đường về ông chẳng dám nhìn ai, cứ thế cúi gằm mặt mà đi.
Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy cha có vẻ khác cũng vội lảng đi. Như để kiểm chứng lại lần cuối, ông Hai kiểm điểm trong đầu từng người trong làng, ông hoang mang lo lắng. Đây chính là biểu hiện của lòng yêu nước nồng nàn và sự trung thành với cách mạng nơi ông. Không chỉ vậy, cái tin làng theo giặc cứ đeo bám, ám ảnh ông khiến ông không dám tiếp xúc với mọi người, nỗi nhục nhã, xấu hổ trào dâng trong lòng. Ông Hai đã đồng nhất danh dự của làng với danh dự của chính mình, khiến cho cái tin làng theo giặc cũng như chính ông đang theo giặc. Bởi vậy nỗi đau đớn, tủi hổ lại càng chồng chất lên gấp bội.
Tin làng chợ Dầu theo giặc lan nhanh khắp mọi nơi, gia đình ông phải đối mặt với một nguy cơ mới chính là bị mụ chủ nhà đuổi đi. Sự việc ấy, không chỉ ảnh hưởng đến bản thân ông mà còn ảnh hưởng đến gia đình ông cũng như rất nhiều người sống ở làng chợ Dầu khác. Đêm đó trong ông Hai đã diễn ra cuộc đấu tranh nội tâm vô cùng quyết liệt, đi hay ở. Và cuối cùng ông quyết định không về làng, bởi về làng là theo giặc, là phản bội lại cách mạng và Bác Hồ, “làng yêu thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Bản chất của ông Hai là người yêu làng tha thiết, nhưng cao hơn cả ông là người yêu nước, tình yêu nước là tình cảm bao trùm tình yêu làng.
Với ngòi bút phân tích tâm lí vô cùng xuất sắc, cùng với đó là nghệ thuật kể chuyện tài tình, Kim Lân đã liên tục tạo ra những bước ngoặt tâm lí, để câu chuyện hấp dẫn, sinh động, hơn hết là để thấy được vẻ đẹp của nhân vật chính – ông Hai. Những ngày ông Hai nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đớn đau, tủi nhục bao nhiêu thì ngày nghe tin cải chính lòng ông vui sướng, trẻ lại bấy nhiêu. Lúc bấy giờ ông Hai chẳng khác gì một đứa trẻ con, ông đi khoe ở khắp nơi, làng bị Tây đốt nhẵn với giọng hồ hởi, sung sướng. Tài sản, nhà cửa đối với ông lúc này đâu còn nghĩa lí, cao hơn đó chính là danh dự của ông, danh dự của làng đã được khôi phục. Bản chất hồn nhiên, chất phác của người nông dân lúc này được thể hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
Kim Lân không sáng tác nhiều, nhưng chỉ với tác phẩm này cùng nhân vật ông Hai đã cho thấy ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy. Ông Hai hiện lên là người yêu làng, yêu nước tha thiết, sâu nặng, tình yêu đó gắn liền với danh dự và mạng sống của ông. Chỉ với lớp ngôn từ chân thành, giản dị, nhưng cũng đủ để Kim Lân cho người đọc thấy một vẻ đẹp rất khác của lòng yêu nước ở những người nông dân chất phác, lương thiện.
Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 4
Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám, Ngô Tất Tố mang tới một chị Dậu với sức sống mãnh liệt của người nông dân, Nam Cao mang tới một Lão Hạc đầy lòng tự trọng và tình yêu thương con vô bờ bến,… thì sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Lân – nhà văn nông dân – mang tới cho bạn đọc hình ảnh người nông dân thời kì đổi mới. Đó chính là nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết.
Sinh ra và lớn lên nơi làng quê Việt Nam, giữa những người nông dân chất phác, nhà văn Kim Lân đã sớm gắn bó và am hiểu sâu sắc về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài này. Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi người dân miền Bắc được lệnh tản cư, ông lại một lần nữa khắc họa hình ảnh người nông dân trong truyện ngắn “Làng”, không phải trong những vấn đề thường nhật, mà về tình yêu làng quê và đất nước của những con người chân lấm tay bùn ấy. Tác phẩm được đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, đánh dấu bước chuyển biến tích cực trong hình tượng người nông dân và nhân thức của họ, đặc biệt qua nhân vật ông Hai.
Nét tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết đối với làng ông. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí. Ở đó chứa đựng cuộc sống của họ, tất cả những gì gần gũi và thân thuộc với họ. Làng chính là quê hương, là cuộc đời họ. Ông Hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với tất cả niềm hãnh diện. “Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động.” Tình yêu làng đã biến ông Hai thành một con người hoàn toàn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù túng trong căn bếp tản cư. Một nguồn sinh lực mới như dồi dào trong ông lúc đó. Tối này đến tối khác, ông nói đi nói lại về cái làng của ông.
Kim Lân điểm nhịp câu chuyện bằng những lời trách móc ông hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng kỳ thực là để cho ta thấy rằng ông Hai không thực sự cần bác Thứ nghe, ông nói cho chính mình, nói để cho sướng miệng và cũng để thỏa nỗi nhớ làng. “Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. […] Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.” Những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản. Chỉ cần được ở lại làng, cùng chiến đấu với anh em thì như có một luồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian khổ, khó nhọc, nguy hiểm đến bao nhiêu ông cũng chịu được. Hình ảnh đó hoàn toàn trái ngược với ông Hai lúc nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì trong căn bếp tản cư. Thế nhưng đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức tươi vui và đầy tự hào đến nỗi mỗi khi nhớ lại, trong ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi : “Ông Hai nhớ cái làng, nhớ cái làng quá.” Với ông, ngôi làng của ông vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và đẹp đẽ. Nay ở trong căn bếp tản cư chật hẹp, cái làng ấy lại càng đẹp hơn, trở thành một niềm mong ước, khao khát mãnh liệt. Điều đó hoàn toàn không phải phóng đại. Tâm sự của ông Hai là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hào chân chính.
Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện nổi bật và đậm nét nhất khi ông nghe tin làng ông theo Tây. Như sét đánh ngang tai, ông từ chối tin vào điều đó. “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ.” Nếu như tin dữ ấy là cái làng đẹp đẽ của ông bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn của ông bị cướp mất thì có lẽ ông cũng không đau khổ bằng tin làng mình theo Tây. Tội nghiệp ông lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải “cúi gằm mặt đi thẳng”, “nước mắt ông cứ dàn ra”. Giá ông không quá yêu làng, không quá tự hào về làng thì ông đã không thấy tủi nhục đến thế. Mấy chữ “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây” như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào về cái làng mà ông yêu vô cùng. Tất cả những gì ông trân trọng giữ gìn trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành.
Ông không chấp nhận được sự thật ấy và đấu tranh nội tâm dữ dội. Lúc đầu là nghi ngại (“Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được ?“), nhưng sau đó là đau đớn khi được biết những bằng chứng rõ ràng (“Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi“). Phải thừa nhận cái tin đó, không thể nào tả được nỗi đau của ông lúc ấy. “Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian !” Có lẽ trong đời mình, ông Hai chưa từng chịu đựng hay thậm chí tưởng tượng được một nỗi đau, nỗi nhục như thế. Những tiếng ấy như thốt lên từ trái tim bị tổn thương, từ niềm tự hào bị chà đạp của ông, khiến người đọc cũng như cảm nhận được nỗi xót xa, tủi nhục của ông lúc ấy. Mà ông Hai đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng, mà ông còn đau cho những người đồng hương, đồng cảnh ngộ. “Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa ?” Có thể những con người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi đau, nỗi nhục quá lớn này, tình yêu làng trỗi lên thật mạnh mẽ và đánh thức tình đồng hương trong ông. Kim Lân đã rất tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi liên tiếp trong nghệ thuật độc thoại nội tâm để lột tả sự đau khổ, xót xa, uất ức mà ông Hai phải chịu đựng. Lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó lớn lao hơn, là lòng tự trọng, là danh dự.
Không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất tuyệt về làng mình bao nhiêu thì bây giờ ông xấu hổ, trốn tránh bất nhiêu. Cái tin đồn quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình luôn đè nặng lên tâm trí ông. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít.
Thôi lại chuyện ấy rồi !” Lẽ thường tình, khi người ta suy nghĩ quá nhiều về một điều gì đó, lúc nào ta cũng có cảm tưởng những người khác cũng như vậy. Thế thì nỗi ám ảnh và lo sợ của ông Hai phải lớn đến chừng nào để ông bị dằn vặt tới vậy ! Lòng yêu làng của ông phải lớn biết chừng nào ! Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể và sâu sắc tâm trạng nặng nề ấy, vì bản thân tác giả cũng từng gặp hoàn cảnh tương tự. Ông Hai đã trải qua những giờ phút không thể đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy để đuổi khéo. Người đọc như cảm nhận được từng lời từng chữ của mụ như xoáy sâu vào tình yêu làng vốn đã quá tổn thương của ông. Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ hơn.
Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Ông luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào về những chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá !” Nhưng đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới bộc lộ rõ rệt. Dù bị tin đồn làng mình theo Tây dồn vào “tuyệt đường sinh sống”, ông vẫn nhất quyết không trở về làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn giản, bộc trực kia. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ.” Nhớ lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định rõ ràng, đúng đắn. Là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng ông Hai có nhân thức cách mạng rõ ràng : “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.” Nhận thức rất mới này là một nét đặc biệt trong tính cách của ông Hai, đánh dấu sự thay đổi của người nông dân sau Cách mạng Tháng Tám.
Ông luôn luôn muốn được giãi bày nỗi lòng ấy của mình. Tuy nói chuyện với đứa con, nhưng thực chất ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong lòng ông mà không nói ra được. “Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.” Ông Hai nói với đứa con như thể nói với anh em đồng chí, để minh oan cho tấm lòng thành thật của mình, để nỗi khổ tâm trong lòng như vơi đi được đôi phần. Lòng yêu nước của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và cảm động. Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn quái ác về làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây, ông Hai nói riêng hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu làng, trong ông còn có một tình yêu lớn gấp nhiều lần – lòng yêu nước.
Đến khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới được vẽ lên hoàn chỉnh. Ông Hai như sống lại. “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên.” Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được thể hiện một cách chân thực, cảm động. Nguồn sinh lực ngày nào lại trở về trong ông. Ông Hai lại là ông Hai xưa. Ông lại nói về làng mình, về “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn !” Niềm vui sướng của ông được thể hiện thật hồn nhiên, chân thật và rất mãnh liệt. Có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. Nhưng với ông Hai, điều đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh của làng được rửa. Vì sự mất mát ấy cũng là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu mà ông hằng yêu và xứng đáng với tình yêu ấy : làng Chợ Dầu kháng chiến. Tình yêu làng là cơ sở, là biểu hiện hùng hồn nhất của tình yêu nước trong ông Hai. Quả đúng như nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng nói : “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê làm nên lòng yêu tổ quốc.” Nếu so với lão Hạc của Nam Cao hay chị Dậu của Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám – những người nông dân cả cuộc đời đầu tắt mặt tối trong ruộng vườn thì nhân vật ông Hai đã có nhận thức rõ ràng về cách mạng, về kháng chiến. Ông đã nhận ra rằng: Đất nước còn thì làng còn, đất nước mất thì làng cũng mất. Đây không chỉ là sự thay đổi trong suy nghĩ người nông dân, mà còn là suy nghĩ của mỗi người dân Việt Nam thời điểm đó. Họ sẵn sàng hy sinh những cái riêng, những cái nhỏ vì sự nghiệp chung, vì cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Họ không hề quên đi cội nguồn của mình mà gìn giữ nơi ấy ở trong tim, biến thành động lực chiến đấu để giải phóng đất nước, giải phóng quê hương.
Truyện ngắn “Làng” đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai, đặc biệt qua tình huống làng Chợ Dầu bị đồn là theo Tây. Nguyễn Minh Châu từng nói : “Tình huống là một loại sự kiện đặc biệt của đời sống, được sáng tạo ra theo hướng lạ hóa. Tại đó, vẻ đẹp nhân vật hiên ra sắc nét, ý nghĩa tư tưởng phát lộ toàn diện.” Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống truyện có tính căng thẳng để thử thách nhân vật. Nó đã cho ta thấy chiều sâu của nhân vật ông Hai, những nét tính cách, những chuyển biến trong nhận thức và tính cảm của ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết. Nhà văn cũng vô cùng thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khi thì miêu tả cử chỉ hành động, khi thì độc thoại nội tâm, độc thoại, đối thoại để lột tả tính cách nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện rất linh hoạt, tự nhiên, lúc dềnh dàng, lúc đột ngột tùy theo diễn biến. Bên cạnh đó, tác giả vốn am hiểu cuộc sống nông thôn nên ngôn ngữ của ông Hai là khẩu ngữ, rất bình dị và gần gũi, đậm chất nông dân. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân quả thực rất xứng đáng là một cây bút “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.
Nguyễn Đình Thi từng viết rằng: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh.” Truyện ngắn “Làng” đã được viết nên từ những điều nhà văn từng trải nghiệm, khắc họa một cách chân thực nhất những tháng ngày đi tản cư của nhân dân miền Bắc trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như những chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của họ.. Thông qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lí, ngôn ngữ nhân vật, Kim Lân đã mang đến cho bạn đọc nhân vật ông Hai với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha.
Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 5
Kim Lân là nhà văn rất am hiểu cuộc sống của người nông dân ở nông thôn miền Bắc. Tất cả các truyện của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Truyện "Làng" được Kim Lân sáng tác trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Nhân vật chính là ông Hai người làng chợ Dầu. Tác giả đã miêu tả khá thành công diễn biến tâm trạng của ông khi nghe tin đồn làng ông theo giặc. Qua đó, tác giả muốn ca ngợi tinh thần yêu nước của ông nói riêng và của người dân Việt Nam nói chung.
Ông Hai là người rất tự hào về cái làng chợ Dầu của mình. Khi phải di tản cư ông cứ nhắc đi nhắc lại với những người chung quanh cái không khí cách mạng của làng ông: "Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai...". Cứ như vậy, suốt cả buổi tối, ông lão ngồi vén quần lên tận bẹn mà nói liên miên về cái làng của ông. Ông nói cho sướng miệng và để cho đỡ nhớ làng chứ không chú ý người khác có nghe không ? Sau những giây phút làm việc mệt nhọc, nằm gác tay lên trán, ông lại nghĩ về làng. Ông cứ muốn về làng, muốn được "cùng mọi người đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá...". Vì quá yêu, quá tự hào về cái làng của ông mà ông "nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân", "chết lặng đi tưởng như không thở được" khi nghe tin cả làng mình theo Việt gian! Lúc đầu ông không thể tin, ông hỏi đi, hỏi lại "giọng ông như lạc hẳn": "Liệu có thật không hở bác. Khi có người quả quyết vì ra ở dưới ấy lên và nói chắc như đinh đóng cột ở làng ông "Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi"..., thì ông Hai không thể nghe thêm được nữa. Ông đánh trống lảng rồi đi thẳng. Văng vẳng bên tai ông tiếng người đàn bà cho con bú: "Cha mẹ tiên sư chúng nó ! Đói khổ ăn cắp, ăn trộm bắt được người ta còn thương. Còn giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát !". Những lời nói ấy như những nhát dao chém vào ông, tim ông se thắt lại. Bao nhiêu câu hỏi giằng xé trong ông. Tức quá, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này !"... Rồi ông nghĩ lại "chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được, ông kiểm điểm từng người trong óc. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả. Trong ông đang diễn ra sự giằng xé, nửa tin, nửa ngờ.
Đêm đó, ông Hai không sao ngủ được, "ông hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài". Khi mụ chủ nhà nói xa nói gần không chứa chấp người làng làm Việt gian, ông lão ngồi lặng đi. Bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn nối tiếp bời bời trong đầu ông, ông định quay về làng. Vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức ông phản đối ngay: "Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó Theo Tây cả rồi, về làng tức từ bỏ kháng chiến". Nghĩ vậy nước mắt ông giàn dụa. Nhớ lại thuở xưa - thuở cuộc đời đen tối, lầm than, ông "rợn cả người"... Chỉ chừng ấy chi tiết. Kim Lân đã cho người đọc hiểu tình cảm của ông Hai đối với Cách mạng, đối với đất nước như thế nào. Nếu không yêu nước, không tin tưởng vào Cách mạng làm sao ông uất nghẹn, đau khổ đến như thế. Và cũng chính điều đó mà ông đã mừng rơn lên khi biết đích xác những lời kia chỉ là sự đồn đại láo toét. Ông đi tìm bác Thứ để thanh minh: "Chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo ! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả " Ông cứ lặp đi lặp lại câu "láo hết, toàn là sai sự mục đích cả", ông Hai còn múa tay lên mà khoe tin ấy với mọi nguời... Và tối hôm ấy, ông lại sang bên nhà bác Thứ, lại ngồi trên chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ông... Kim Lân đã chọn được một tình huống khá độc đáo. Cách thể hiện lòng yêu nước của nhà văn cũng có nét riêng không giống với bất cứ nhà văn nào cùng thời.
Có thể nói "Làng" là một truyện ngắn khá hay. Thành công lớn nhất về mặt nghệ thuật là khả năng miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Đoạn ông Hai nghe tin đồn làng ông làm Việt gian đã thể hiện tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của Kim Lân. Thông qua nhân vật ông Hai, tác giả muốn ca ngợi tình yêu quê hương, tình yêu đất nước, sự giác ngộ cách mạng của những người nông dân hiền lành, chất phác. Chính tình yêu quê hương đất nước, ý thức giác ngộ cách mạng ấy mà họ một lòng theo Đảng, theo Cách mạng, đứng lên giành quyền sống, giữ vững nền dộc lập tự chủ của dân tộc trước mọi gian nan, thử thách.
Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 6
Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng quan niệm: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Văn chương lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Nhà văn chân chính, dù viết về điều gì và thể hiện như thế nào trong tác phẩm thì điểm xuất phát và đích đến cuối cùng vẫn là cõi nhân sinh, mục tiêu cao cả nhất của nhà văn vẫn là viết “một áng văn trung thực và giản dị về con người” (Chữ dùng của Hemingway). Với mỗi một tác phẩm, người đọc lại có dịp chiêm nghiêm về những con người khác nhau. Trong tác phẩm “Làng”, nhà văn Kim Lân đã tạc nên những trang viết neo đậu mãi trong tâm hồn chúng ta về nhân vật ông Hai - một trái tim yêu làng tha thiết, một linh hồn yêu nước nồng nàn.
Kim Lân là một trong số những cây bút truyện ngắn dù để lại một số lượng tác phẩm không nhiều nhưng sáng tác nào của ông cũng vững vàng nơi lòng người và thách thức quy luật băng hoại của thời gian. Nguyên Hồng từng nhận xét: Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn. Bằng giọng văn chân thực, giản dị, từng trang viết của Kim Lân đong đầy bóng dáng làng quê và con người Việt Nam. Truyện “Làng” được sáng tác trong những năm đầu của kháng chiến chống Pháp, lần đầu ra mắt bạn đọc trên “Tạp chí Văn nghệ” năm 1948. Lấy bối cảnh cuộc tản cư trong những năm đầu kháng chiến, tác phẩm xoay quanh những chuyển biến trong tâm trạng của nhân vật ông Hai. Ông không thuộc hạng cùng đinh nghèo khổ như anh Pha, chị Dậu, cũng chẳng thuộc hàng vai vế có “miếng” có “tiếng” trong làng. Ông chỉ là một người nông dân nồng hậu, chất phác, hay làm và chịu khó. Từ con người của làng quê, ông trở thành con người của kháng chiến, của sự nghiệp chung.
Ấn tượng đầu tiên mà ông Hai để lại cho người đọc chính là cái tính khoe làng của ông. Dường như hình ảnh ngôi làng luôn thường trực trong tâm trí của lão nông ấy để khi nói về nơi nuôi dưỡng mình, chốn quê thân thuộc “hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động”. Đặc biệt, ông Hai khoe làng một cách nhiệt thành. Ông không cần người khác phải chú ý lắng nghe, cũng không quan tâm họ có nghe hay không, ông chỉ nói để thỏa niềm tự hào, nỗi nhớ da diết của mình đối với làng. Rồi qua từng thời kì khác nhau, lời kể, lời khoe của ông cũng thay đổi. Duy chỉ có tình yêu làng của ông vẫn thế, cứ mãi vẹn nguyên, vẹn toàn, không hề đổi thay và cũng chẳng hề lay chuyển.
Xa rời quê hương, sống nhờ nơi đất khách quê người, lòng ông đau đáu nhớ quê, nhớ làng. Ông hoài niệm về những năm tháng được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá… Ông Hai cảm thấy lúc ấy mình trẻ trung hẳn ra, “cũng hát hỏng, bông phèng”. Càng nghĩ tưởng, nỗi nhớ cứ như những đợt sóng lòng dồn dập, vỗ nhẹ vào trái tim ông phát ra những thanh âm chan chứa bao nỗi triền miên về những ngày quá khứ: “Chao ôi, ông lão nhớ làng. Nhớ cái làng quá!”. Đằng sau nỗi nhớ ấy là khao khát được trở về, là tình yêu xóm làng chân thành, bất diệt. Tình cảm ấy bao giờ cũng thiêng liêng, cũng dạt dào và tha thiết. Vì nhớ, vì yêu nên ông Hai vẫn thường xuyên vào phòng thông tin nghe tình hình, tin tức kháng chiến. Dọc đường đi, gặp ai quen ông lão cũng níu lại, cười cười, ông vui cả với cái nắng chang chang bởi Tây nó ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù. Ông phấn khởi trước những thắng lợi của kháng chiến. Ruột gan ông lão như múa cả lên vì nghe được bao nhiêu tin hay, đáng mừng và đáng khâm phục về những chiến công của làng. Quả đúng như Raxun Gamzatov từng nói: “Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương, chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người”.
Trong lúc tâm trạng đang phấn khởi vì những tin tức kháng chiến vừa nghe được, ông Hai gặp gỡ những người dưới xuôi lên và nghe được cái tin làng Chợ Dầu theo giặc từ một người đàn bà tản cư. “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, thế giới nội tâm của nhân vật được miêu tả đầy chân thực qua nét mặt và cử chỉ. Ông lão bàng hoàng và sững sờ vô cùng, dường như có một bàn tay vô hình đang bóp nghẹt trái tim ông. Lúc đầu ông không thể tiếp nhận được, ông cứ hỏi đi, hỏi lại như thể ông đang hi vọng cái tin dữ kia chỉ là do miệng đời đàm tiếu, giọng ông như lạc hẳn: “Liệu có thật không hở bác. Hay là chỉ lại…”. Đối diện với những lời nói chắc như đinh đóng cột rằng làng ông “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”, bao nhiêu niềm tin, bao nhiêu niềm tự hào về ngôi làng mà ông luôn khoe khoang với mọi người bỗng chốc sụp đổ. Là người làng Chợ Dầu, ông đâu còn can đảm để ở lại mà nghe những lời bàn tán bủa vây mình. Ông vội vàng ra về cùng câu nói tưởng chừng như chỉ bâng quơ thốt lên nhưng nó lại chính là cái cớ ông bám lấy để rời khỏi đây: ”Hà, nắng gớm, về nào”. Mảnh độc thoại ấy sao mà cay đắng, xót xa như một sự trốn chạy thực tại tàn nhẫn, không muốn ai phát hiện ra mình là người làng Chợ Dầu. Nếu trên đường đi tới phòng thông tin ông hiên ngang bao nhiêu thì giờ ông lại “cúi gằm mặt mà đi”. Bởi cõi lòng ông Hai giờ đây tựa như vỡ tan thành từng mảnh, trái tim ông rỉ máu, đâu đây như thể một nỗi chua xót, ô nhục và tủi thân.
Mang trong mình cả một khoảng trời giông bão, cả một mối tơ lòng hỗn độn, ông Hai lê từng bước về nhà rồi lại “nằm vật ra giường” chẳng còn tâm sức để làm gì cả. Nhìn lũ trẻ mà cảm xúc dâng trào “nước mắt ông lão giàn ra”. Biết bao câu hỏi cứ đua nhau xô đẩy, giằng xé trong đầu ông: "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Nghệ thuật độc thoại nội tâm đã khắc họa thành công nỗi lòng của ông lão nông dân ấy. Ông Hai xót thương cho số phận của chính mình và đám trẻ non nớt mới mấy tuổi đầu. Bởi gia đình ông là người làng Chợ Dầu nên đè nặng trên những đôi vai hao gầy và yếu ớt là bản án mang tên “cái giống Việt gian bán nước”. Ông Hai căm phẫn lũ tội đồ phản nước theo giặc. Tất cả như dồn nén trong từng con chữ đanh thép: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Ông kiểm điểm lại từng người anh em đã cùng nhau đồng cam cộng khổ thuở trước, từng người con của làng Chợ Dầu. Trong trí óc của ông, họ đều là những người sung sức, tràn đầy tinh thần yêu nước nồng nàn. Giờ phút ấy, ông Hai vẫn cố bám víu chút giọt nắng “niềm tin” giữa cơn đại hồng thủy dữ dội. “Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì?”. Những dòng suy nghĩ đó cứ ồ ạt kéo đến đâm vào trái tim ông, phũ phàng dập tắt ngọn lửa niềm tin.
Ông Hai bất lực chấp nhận cái tin dữ ấy, nỗi đau xâm chiếm linh hồn, một nỗi đau không lời nào tả xiết. “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian”. Đó là tiếng nói thốt lên từ một trái tim bị tổn thương, từ một cõi lòng suy sụp tột cùng, từ niềm tự hào bị vùi dập tả tơi. Ông đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng mà ông còn đau cho những người đồng hương cùng cảnh ngộ: "Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cớ sự này chưa?”. Nỗi bứt rứt trong tâm can của ông bị dồn nén quá nhiều nên sinh gắt gỏng khi nói chuyện với bà Hải. Ông Hai không muốn nghe ai nhắc đến chuyện tồi tệ đó, không muốn ai xát muối vào vết thương trong lòng ông. Bủa vây ông là nỗi lo trăm bề “trằn trọc đến không ngủ được”, là tiếng thở dài bất lực làm sao. Nỗi lo ấy hành hạ cả tinh thần lẫn thể xác khiến “chân tay nhũn ra, tưởng chừng như không cất lên được” hay “trống ngực ông lão đập thình thịch”. Như một điều tất lẽ dĩ ngẫu, dân ta từ Nam ra Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi đều ghét cay ghét đắng, ghê tởm và thù hằn bọn Việt gian bán nước nên ông càng lo sợ mụ chủ nhà đuổi gia đình ông đi, dồn gia đình ông vào thế cùng cực, tuyệt đường đất sinh nhai.
Từ khi nghe tin làng theo giặc, ông Hai như người mất hồn. Ông ăn không ngon, ngủ không yên. Ông cảm thấy như mình cũng là kẻ có tội, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ trong nỗi ám ảnh, tủi nhục ê chề. Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, “không bước chân ra đến ngoài”. Ông rất sợ ai đó nhắc đến những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… Ông né tránh tất cả những gì liên quan đến cái tin dữ dội kia và gọi chuyện phản bội tồi tệ đó là “chuyện ấy”. Bởi chính ông chẳng dám và cũng chẳng đủ sức để nhìn thẳng vào thực tế đầy phũ phàng và đau đớn. Ngẫm kĩ, đối với một lão nông dân chất phác, chân lấm tay bùn luôn tự hào và yêu làng tha thiết thì cái tin làng theo giặc quả là một cú trời giáng chí mạng, là nỗi uất ức, nhục nhã tột cùng. Với ông Hai, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn mà còn là một thứ gì đó lớn lao hơn, là lòng tự tôn, là danh dự. Ông và cái làng ấy đã trở thành máu thịt, ông và làng là một, danh dự của làng cũng là danh dự của ông.
Từ lúc mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi, ông Hai thực sự rơi vào bế tắc. Chính trong lúc đau đớn tuyệt vọng ấy đã đẩy ông vào tình thế là phải lựa chọn: làng Chợ Dầu hay Tổ quốc? Ông đã thoáng nghĩ đến việc “Hay là quay về làng?” để gia đình ông có chỗ dung thân. Thuở trước, làng Chợ Dầu của ông đáng yêu, đáng tự hào lắm. Nhưng giờ đây chỉ nghĩ đến nó là lòng ông đắng ngắt, đau nhói từng hồi. Mới hôm nào về làng là khao khát, là mong ước cháy bỏng của ông thế mà bây giờ ông thấy rợn cả người và phải dập tắt ngay cái ý nghĩ đen tối đó. Bởi làng giờ đã nối gót theo Tây, “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”, là cam chịu trở về với kiếp sống lầm than, kiếp sống của những kẻ nô lệ. Dòng máu Việt Nam anh hùng vẫn đang không ngừng luân chuyển, đi qua mọi ngõ ngách trong trái tim ông. Tận sâu nơi cõi lòng người nông dân ấy, ngọn lửa của tình yêu nước cao cả vẫn đang rạo rực, vẫn hướng về cuộc kháng chiến nên ông đã quyết định một cách đau đớn nhưng dứt khoát :”Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đứng trước sự lựa chọn khó khăn, quyết định của ông Hai đã khẳng định tình cảm rạch ròi của người nông dân, tình yêu nước rộng lớn, mạnh mẽ và thiêng liêng bao trùm lên tình cảm làng quê.
Trong tâm trạng tồi tệ bị dồn nén lâu ngày, ông Hai chỉ còn biết thả trôi nỗi lòng của mình vào những lời thủ thỉ, tâm sự với thằng con út. Chỉ khi tâm sự cùng con ông mới dám giãi bày hết thảy những rợn sóng rầu rầu đang âm ỉ trong lòng. Ông hỏi con về làng, để thỏa nỗi nhớ làng, để khắc sâu tình cảm cội nguồn nơi con. Ông muốn con ghi nhớ “Nhà ta ở làng Chợ Dầu” cũng như muốn chính mình không được quên Chợ Dầu là quê hương, là gốc gác. Phải chăng chính ông vẫn còn yêu làng tha thiết, tình cảm ấy vẫn mãi ngự trị trong trái tim ông. Ông hỏi con về Cụ Hồ - biểu tượng của cách mạng để chứng minh cho tấm lòng yêu nước, tấm lòng thủy chung với kháng chiến đã bám chặt vào mạch huyết. Đồng thời, ông cũng muốn truyền cho con, cho thế hệ sau tình cảm cao đẹp, thiêng liêng, nhân bản nhất của con người: Tình yêu làng và yêu nước. Cuộc đối thoại giữa hai bố con chỉ xoay quanh chuyện làng và chuyện nước. Ông nói với con, nhưng thực chất là lời tự vấn để vơi bớt nỗi lòng, để minh oan cho tấm lòng trong sạch của mình, mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”. Ta chợt nhớ đến câu thơ của Trần Đăng Khoa trong trường ca “Khúc hát người anh hùng”:
“Người ta trong lúc hiểm nghèo
Hoặc vằng vặc sáng hoặc heo hút tàn.”
Ông Hai đã ngời sáng với những nét đẹp trong tâm hồn người nông dân, nét đẹp chung hòa giữa tình yêu làng và lòng yêu nước.
Bước qua biết bao ngưỡng cửa cảm xúc buồn vui lẫn lộn, từ hi vọng đến tuyệt vọng, từ hãnh diện tự hào đến khổ đau tủi nhục, đêm đen đã qua, nhường chỗ cho những rạng đông phía cuối chân trời. Cái tin làng cải chính đã đến với ông Hai. Ông như được hồi sinh một lần nữa, rũ sạch được hết thảy sự dằn vặt, nhục nhã, đau khổ bấy lâu, “cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Ông trở lại với “thói quen” cũ của mình, lật đật đi khoe khoang khắp nơi rằng: "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính… cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả”. Sách “Bình giảng văn học 9" có viết: "Có lẽ chưa có ai trên đời lại đi khoe cái sự “Tây nó đốt nhà tôi rồi. Đốt nhẵn” một cách hả hê sung sướng thật sự như ông". Đối với người nông dân, ngôi nhà là tài sản lớn lao, là biết bao tháng ngày cày cuốc mà nên, là nơi chan chứa bao hồi ức vui buồn. Vậy vì cớ gì mà ông Hai lại lấy làm vui mừng trước sự mất mát của ngôi nhà? Bởi quân Tây đốt nhà ông nghĩa là làng ông không hề theo giặc mà vẫn một lòng yêu nước nồng nàn, ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Cụ Hồ. Ông đã có thể thoát khỏi cái danh “người làng Việt gian”, được sống như một người yêu nước, lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của mình. Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp tình hợp lý, đó chính là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật. Ông Hai còn dự định nuôi lợn ăn mừng, niềm vui sướng tưởng như vỡ òa, như những thanh âm vang vọng cả phần kết truyện. Không khó để nhận ra với những người nông dân thật thà, chất phác, họ thà hi sinh thửa ruộng, mảnh vườn hay gian nhà chứ nhất định không để cho danh dự và tự tôn của mình, của làng và của Tổ quốc bị vấy bẩn.
Với thứ hương thơm tỏa ra từ đóa hoa mang tên “nghệ thuật” của thiên truyện, với ánh chiếu của ngòi bút đa tài, Kim Lân đã khiến người đọc phải nguyện ý thả hồn vào trang viết, phải dùng trái tim để cảm nhận nét đẹp của từng con chữ. Xây dựng tình huống truyện độc đáo là một trong những yếu tố góp phần đem lại sự thành công cho tác phẩm “Làng”, giúp nhà văn khắc họa rõ nét phẩm chất, tính cách, khả năng ứng xử của nhân vật đồng thời bộc lộ sâu sắc khuynh hướng tư tưởng của mình. Bên cạnh đó, việc miêu tả chân thực, cụ thể nét mặt, giọng nói, cử chỉ, hành động cũng góp phần xây dựng thành công chân dung nhân vật ông Hai. Kim Lân đã thật tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi nối tiếp nhau trong nghệ thuật độc thoại nội tâm như xé đôi lòng người để đặc tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự nơm nớp lo sợ, nỗi đau xót, xấu hổ, nhục nhã. Ngôn ngữ trong truyện mang tính khẩu ngữ, là những lời ăn tiếng nói hằng ngày, giản dị, chân chất của người nông dân Bắc Bộ. Tóm lại, thi pháp truyện ngắn bao gồm các yếu tố như nhân vật, ngôn ngữ, tình huống truyện… Và “Làng” thành công trên mọi phương diện ấy. Kim Lân không nói nhiều, tả nhiều nhưng cũng đủ cho ta thấy những bước ngoặc trong diễn biến tâm lí của ông Hai.
Nhà văn Nguyễn Khải từng khẳng định: “[…] Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung”. Linh hồn ta phiêu lưu nơi gánh sách của Kim Lân, cõi lòng ta say đắm trong hơi thở bất diệt của thiên truyện “Làng”, nhịp đập của người thưởng văn hòa cùng nhịp đập của lão Hai, từ ấy ta tìm ra “thanh nam châm” của văn chương dưới một danh xưng khác là “Lòng yêu quê hương và tình yêu Tổ quốc”. “Nét thần” của tác phẩm là mạch tình cảm hòa quyện, thống nhất trong trái tim người nông dân, tựa như “tòa thành” hiên ngang, sừng sững và bất diệt đến nỗi chẳng có súng đạn nào có thể công phá, chẳng có ngọn lửa tàn ác nào có thể thiêu rụi. Tình cảm dành cho quê hương, đất nước đã nghiễm nhiên trở thành nguồn “thần hứng” của biết bao thi phẩm. Ví như “Sao chiến thắng” của Chế Lan Viên:
“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”
(Tác giả: Gia Mẫn)
Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 7
Nhà văn Kim Lân là một người rất am hiểu về cuộc sống của người nông dân ở miền Bắc Việt Nam. Truyện ngắn “Làng” của ông được sáng tác vào thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, nhân vật chính là ông Hai người làng chợ Dầu. Tác giả đã miêu tả rất thành công diễn biến tâm trạng của ông khi nghe tin đồn làng ông theo giặc qua đó đã ca ngợi tinh thần yêu nước của ông nói riêng và người dân Việt Nam nói chung.
Ông Hai là một người rất tự hào về ngôi làng chợ Dầu của mình, khi phải đi tản cư ông luôn nhắc đi nhắc lại với mọi người về không khí cách mạng của làng ông: “Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai…”. Ông cứ nói cho sướng miệng và vơi đi nỗi nhớ làng chứ cũng không quan tâm tới người ta có nghe hay không. Vì quá yêu và tự hào về làng nne ông đã “nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, “chết lặng đi tưởng như không thở được” khi nghe tin cả làng của mình theo Việt gian.
Lúc đầu ông còn không thể tin, hỏi đi hỏi lại, cho tới khi có người khẳng định và chắc như đinh đóng cột rằng có người ở đấy nói lên thì ông không còn nói thêm được một lời nào nữa. Ông lẳng lặng đi mà bên tai cứ văng vẳng câu nói của người đàn bà: “Cha mẹ tiên sư chúng nó! Đói khổ ăn cắp, ăn trộm người ta còn thương. Còn giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!”. Những lời nói ấy như dao cứa vào tim ông, khi ấy trong ông đang giằng xé, nửa tin nửa ngờ. Rồi đêm đó ông không ngủ được, bao nhiêu là ý nghĩ đen tối, ghê rợn nối tiếp nhau hiện ra trong đầu ông, ông định quay về làng nhưng vừa chớm nghĩ ông đã lập tức phản đối mình “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi, về làng tức từ bỏ kháng chiến”. Rồi ông cứ nghĩ mà nước mắt dàn dụa, nhớ về những thuở xưa khi mà cuộc đời đen tối, lầm than,… làm cho ông “rợn cả người”.
Chỉ bằng những chi tiết ấy nhưng tác giả đã cho người đọc thấy được tình cảm và lòng trung thành của ông Hai đối với Cách mạng và đất nước nước sâu sắc nhường nào. Nếu không vì lòng yêu nước, tin tưởng vào Cách mạng thì làm sao ông lại uất nghẹn và đau khổ đến mức ấy. Chính những niềm tin của ông đã khiến cho ông có thể được vui mừng khi biết đích xác những lời kai chỉ là đồn đại. Rồi ông đi gặp bác Thứ để thanh minh cho làng của mình, ông cứ lặp đi lặp lại câu nói “Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”, ông còn múa tay lên mà khoe tin ấy với mọi người.
Có thể nói truyện ngắn “Làng” là một tác phẩm khá hay, với thành công lớn nhất là khả năng miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân. Thông qua nhân vật này, tác giả đã ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước và sự giác ngộ cách mạng của những người nông dân hiền lành chất phác. Chính tình yêu ấy cùng với ý thức giác ngộ cách mạng mà họ đã đứng lên giành quyền sống, giữ vững được nền độc lập tự chủ của dân tộc.
Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 8
Kim Lân là một nhà văn gắn bó máu thịt với những người nông dân nghèo, những kiếp người chịu nhiều khốn khổ bần cùng. Ông cũng là một văn nhân có trái tim yêu nước son sắt, một tấm lòng thiết tha với dân tộc. Bởi vậy mà những sáng tác của ông thường viết về những người nông dân có lòng yêu nước, yêu cách mạng sâu sắc. Nói đến các sáng tác của Kim Lân ta không thể không kể đến truyện ngắn “Làng”. Tác phẩm đã khắc họa sinh động chân dung nhân vật ông Hai - một người nông dân chân chính với tình yêu làng, yêu quê hương tha thiết và sự gắn bó máu thịt với bộ đội cụ Hồ. Điều đó được thể hiện một cách rõ nét nhất qua đoạn trích kể cuộc trò chuyện giữa ông Hai với đứa con út.
Truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân được viết năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Truyện thành công không chỉ bởi tài năng viết truyện của Kim Lân mà còn do sự am hiểu người nông dân cùng thời kì lịch sử lúc bấy giờ. Nhà văn đã có lần tâm sự: "Cái không khí ngày đầu kháng chiến ở nông thôn, tôi đã vào làng. Lúc ấy Tây còn đóng ở cầu Đuống, tôi về làng chơi mấy lần chứng kiến tận mắt thế nào là làng chiến đấu”. Truyện hấp dẫn bạn đọc ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong những tình huống đặc biệt cùng với cách viết đơn giản ngôn ngữ mộc mạc dân dã.
Ở phần đầu của tác phẩm, người đọc đã được chứng kiến một ông Hai rất yêu và tự hào về làng của mình. Đi đâu ông cũng khoe về làng thế nên khi nghe tin làng theo giặc ông vô cùng bàng hoàng sửng sốt. Ông không tin đó là sự thật nhưng khi buộc phải tin ông đã vô cùng đau khổ, tủi nhục đến mức phải đi đến quyết định thù làng. Và để củng cố thêm niềm tin cho quyết định của mình, ông đã tìm đến thằng con út để trò chuyện.
Sẽ có không ít người đọc thắc mắc rằng tại sao ông Hai lại chọn trò chuyện với đứa con út - một đứa trẻ chưa hiểu chuyện gì, chưa biết gì về kháng chiến, về cách mạng. Trò chuyện với đứa con còn bé là cái cách để ông trải lòng mình, để tự minh oan cho mình và cũng là để ông có thêm niềm tin vào những điều mà ông đã chọn lựa. Xây dựng chi tiết này cho thấy Kim Lân thực sự rất am hiểu tâm lí của con người, nhất là người nông dân trong kháng chiến.
Mặc dù cái làng mà ông rất mực tin yêu đã theo giặc, dù cho làng đã phản bội ông đến mức ông phải thù làng thế nhưng khi nói chuyện với con ông vẫn hỏi: "Thế nhà con ở đâu? Thế con có thích về làng chợ Dầu không?”. Câu hỏi có vẻ ngô nghê mà ông biết trước được câu trả lời của con nhưng dường như ông vẫn muốn nghe. Hỏi con như vậy là ông vẫn muốn con nhớ về cội nguồn, gốc gác của mình, muốn con hiểu rằng Chợ Dầu chính là quê hương của con, là nơi con được sinh ra và lớn lên, được yêu thương và che chở.
Điều đó có nghĩa là dù đã thù làng nhưng trong sâu thẳm tâm hồn người nông dân chất phác ấy vẫn dành cho làng một tình yêu tha thiết, mãnh liệt. Câu hỏi của ông với con cũng là cái cách ông kiểm tra tình cảm của mình. Nghe câu trả lời của con chắc ông vui lắm, vui vì dường như nó đã trùng với suy nghĩ của ông. Như vậy có thể khẳng định tình yêu với làng chợ Dầu trong chưa chết hẳn, chỉ có điều giờ đây đó là một tình yêu đau đớn, một bi kịch.
Ông Hai yêu làng ai cũng phải thừa nhận nhưng hơn cả ở nhân vật này là tình yêu đất nước và niềm tin dành cho kháng chiến. Điều đó cũng được bộc lộ một cách rõ nét trong cuộc trò chuyện của ông với con. Ông hỏi con tiếp: “Thế con ủng hộ ai?”. Câu trả lời của đứa con: "Ủng hộ Hồ Chí Minh Muôn năm” dường như đã hoàn toàn trùng khít với suy nghĩ và tình cảm của ông. Ông hãnh diện vì điều đó, ông tự hào về điều đó, ông hạnh phúc vô cùng. Nghe con nói vậy, nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ “Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ”.
Ông khóc vì hạnh phúc, khóc vì con còn rất nhỏ nhưng đã có tinh thần kháng chiến, đã có niềm tin bất diệt vào cách mạng, vào cụ Hồ. Ông lặp lại câu nói của con nhưng thực chất là để nói rõ lòng mình. Ông tin kháng chiến, tin cách mạng, ông sẵn sàng hi sinh tình cảm riêng của mình vì tình cảm cao đẹp đó. Đến đây ta không chỉ trân trọng tình cảm của ông đối với làng quê đối với đất nước mà ta còn vui sướng tự hào về truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, tự hào về dòng máu yêu nước luôn chảy trong trái tim mỗi con người Việt Nam, trong dòng máu của ông và trong dòng máu đứa con ông. Mấy hôm nay ru rú ở xó nhà, những lúc buồn khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lại thủ thỉ với con như vậy. Ông nói như để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa. “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Mỗi lần nói ra được đôi câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vơi đi được đôi phần. Tình yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng nơi ông thật sâu sắc, mãnh liệt!
Nhà văn Kim Lân đã tạo dựng một tình huống thử thách tâm lí nhân vật rất đặc sắc, qua đó, tính cách, phẩm chất của nhân vật nổi lên thật rõ ràng. Lối kể chuyện giản dị tự nhiên, gần gũi, ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo, sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm đã góp phần tạo nên một hình tượng chân thực và đẹp đẽ về người nông dân Việt Nam. Đoạn trích đã cho ta thấy sự phát triển trong nhận thức của người nông dân Việt Nam: tình yêu làng là cơ sở của tình yêu nước, yêu cách mạng song tình yêu nước vẫn bao trùm lên tất cả và là định hướng hành động cho họ.
Có thể nói rằng truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm vô cùng đặc sắc. Tác phẩm và đặc biệt là đoạn trích kể lại cuộc trò chuyện giữa ông Hai với con trai út đã khơi gợi trong lòng người đọc không ít những tình cảm đẹp. Nó khiến ta càng thêm cảm phục trước tài năng kể chuyện của nhà văn Kim Lân, càng thêm trân trọng và yêu mến những người nông dân Việt Nam trong kháng chiến.
Từ cuộc trò chuyện của ông Hai với con, tác phẩm đã đem đến cho người đọc những bài học vô cùng sâu sắc. Đó là bài học về tình yêu quê hương, về niềm tin, về lòng yêu nước. Và có lẽ chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.
Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện Làng - mẫu 9
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông có sự am hiểu và gắn bó sâu sắc với cuộc sống nông thôn và hầu như chỉ viết về đề tài sinh hoạt ở làng quê cùng cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn “Làng” một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của đời văn Kim Lân nói riêng và của nền văn học kháng chiến chống Pháp nói chung - sáng tác đầu kháng chiến, được in năm 1948. Truyện đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai với tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến hài hòa, nồng thắm. Điều đó được đặc biệt thể hiện trong đoạn đối thoại của ông Hai với con trai mình - thằng cu Húc.
Khi kháng chiến chống Pháp nổ ra, ông Hai muốn ở lại làng để tham gia kháng chiến nhưng vì hoàn cảnh gia đình buộc ông phải rời làng đi tản cư, lòng ông luôn day dứt nỗi nhớ làng. Nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống có ý nghĩa: là một nông dân suốt đời sống ở quê hương, gắn bó máu thịt với từng con đường, nếp nhà, thửa ruộng và biết bao nhiêu người ruột thịt, xóm giềng. Vậy mà vì giặc ngoại xâm, ông phải rời xa quê hương đi tản cư, sống nhờ nơi đất khách. Do đó, lòng ông luôn đau đáu nỗi nhớ quê. Ban ngày lo sản xuất, ổn định cuộc sống, nhưng buổi tối lại sang hàng xóm giãi bày nỗi nhớ của mình. Nỗi nhớ của ông đều bắt nguồn từ những kỉ niệm trong cuộc sống hàng ngày.
Thế rồi, đột ngột ông nghe tin dữ làng Dầu theo giặc, giữa lúc tâm trạng của ông đang phấn chấn vì nghe những tin thắng trận. Tâm trạng ông trở nên đau đớn, nặng nề, tủi hổ tràn ngập. Trước ông Hai hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì nay lại đau đớn, nhục nhã bấy nhiêu. Tình huống này buộc ông Hai phải lựa chọn giữa tình yêu làng và tình yêu nước. Cao trào tâm trạng của nhân vật cũng là lúc bộc lộ một cách sâu sắc, cảm động nhất tình cảm chân thành, thiêng liêng của ông Hai với quê hương, đất nước, cách mạng. Đó là cảnh ông Hai trò chuyện với đứa con.
Trong tâm trạng bị dồn nén bế tắc, ông Hai chỉ còn biết trút nỗi lòng mình vào những lời thủ thỉ, tâm sự với đứa con nhỏ. Ông lựa chọn cách nói chuyện với đứa con út, vì nó nhỏ tuổi, ngây thơ, dễ nói chuyện, dễ bày tỏ. Đây là một đoạn đối thoại mà như độc thoại rất cảm động, bộc lộ tấm lòng gắn bó sâu sắc, bền chặt với quê hương, đất nước, với kháng chiến của ông Hai. Nói với con mà thực chất ông đang tự nhủ với lòng mình, tự giãi bày, tự minh oan. Ông khẳng định vói con: “Nhà ta ở làng Chợ Dầu”. Ông muốn con ghi nhớ Chợ Dầu là quê hương, là gốc gác, không được phép quên. Đây cũng chính là tình cảm gắn bó máu thịt của ông Hai và của hàng triệu người Việt Nam. Ông lựa chọn: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tình yêu nước và nhiệt tình ủng hộ kháng chiến của ông Hai. Lựa chọn ấy khiến ông vững vàng hơn và tin rằng đồng bào, đồng chí sẽ hiểu cho ông, cụ Hồ sẽ soi xét cho ông.
Ông muốn khắc sâu tình yêu chợ Dầu vào trái tim bé bỏng của thằng cu Húc và đứa con đã nói hộ lòng ông nỗi nhớ làng. Lời tâm sự của ông như một lời thề, một lời nguyện làm vơi bớt phần nào nỗi khổ tâm trong ông Hai. Tình yêu làng, tình yêu nước của ông thật bền chặt, thiêng liêng. Dẫu cả làng theo giặc ông vẫn một lòng theo kháng chiến.
Với lối kể chuyện giản dị, tự nhiên, ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ, ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo kết hợp hài hòa ngôn ngữ độc thoại, đối thoại, tác phẩm đã khắc họa hình tượng nhân vật ông Hai tiêu biểu cho tầng lớp nông dân thời kì kháng chiến chống Pháp. Qua nhân vật ông Hai trong tác phẩm nói chung và trong cuộc trò chuyện với thằng cu Húc nói riêng, tác giả muốn biểu đạt một cách thấm thía, xúc động tình yêu làng, yêu nước sâu sắc của người nông dân trong kháng chiến chống Pháp. Tác giả viết bằng trái tim, tình cảm của mình nên dễ tìm được sự đồng cảm từ người đọc.
Bài giảng: Làng - Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)
Xem thêm các bài văn mẫu phân tích, dàn ý truyện ngắn Làng lớp 9 hay khác:
Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn tự sự
- Mục lục Văn nghị luận xã hội
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 1
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 2
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9 và Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều