5+ Dàn ý Diễn biến tâm trạng ông Hai (siêu hay)



Tổng hợp Dàn ý Diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện Làng hay nhất, ngắn gọn giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

5+ Dàn ý Diễn biến tâm trạng ông Hai (siêu hay)

Quảng cáo

Bài giảng: Làng - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Dàn ý Diễn biến tâm trạng ông Hai

Dàn ý Diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện Làng - mẫu 1

I. Mở bài

Giới thiệu tác giả Kim Lân và truyện ngắn Làng

    + Nhà văn Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ông vốn am hiểu và gắn bó sâu rộng với cuộc sống nông thôn, Làng là truyện ngắn xuất sắc của ông

Dẫn dắt nội dung nghị luận: diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng truyện ngắn xuất sắc Kim Lân

II. Thân bài

1. Khái quát về nhân vật và tình huống nảy sinh sự chuyển biến tâm trạng của ông Hai

- Nhân vật ông Hai người nông dân yêu, tự hào về làng, mọi niềm vui, nỗi buồn của ông đều xoanh quay chuyện làng chợ Dầu

    + Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng, khoe làng của mình với mọi người

Quảng cáo

- Nhân vật được đặt trong tình huống ngặt nghèo có tính thử thách để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tình yêu làng của mình: ở nơi tản cư, ông Hai nghe tin làng chợ Dầu theo giặc làm Việt gian

2. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai

- Khi đang vui mừng tin thắng trận ở khắp nơi thì ông Hai nghe tin dữ: làng chợ Dầu theo giặc làm Việt gian, ông bất ngờ, choáng váng ( Cổ ông nghẹn ắng lại như không thở được)

- Ông cố trấn tĩnh bản thân, ông hỏi lại như thể không tin vào những điêu vừa nghe thấy nhưng người phụ nữ tản cư khẳng định chắc chắn khiến ông Hai sững sờ, ngượng ngùng, xấu hổ ( ông cố làm ra vẻ bình thản, đánh trống lảng ra về)

    + Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân ông lão lặng đi tưởng như không thở được

- Về tới nhà ông tủi hổ, lo lắng khi thấy đàn con ( nước mắt lão cứ dàn ra, chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư?)

    + Niềm tin, sự ngờ vực giằng xé mạnh trong tâm trạng ông Hai

Quảng cáo

- Nghe thấy tiếng chửi bọn Việt gian “ông cúi gằm mặt xuống mà đi”, nỗi tủi hổ khiến ông không dám ló mặt ra ngoài

    + Lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, thấy đám đông tụ tập nhắc tới hai chữ Cam nhông,Việt gian ông lại chột dạ

→ Tác giả diễn đạt cụ thể nỗi lo lắng, sợ hãi tới mức ám ảnh thường xuyên của ông Hai, trong tâm trạng ông lúc nào cũng thường trực nỗi đau xót, tủi hổ trước tin làng mình theo giặc

- Tình yêu làng quê và tình yêu làng trong ông có cuộc xung đột lớn, gay gắt. Ông Hai dứt khoát chọn theo cách mạng “Làng yêu thì yêu thật, nhưng làng theo giặc thì phải thù”

    + Tình yêu nước rộng lớn bao trùm lên tình yêu làng, dù xác định như thế nhưng trong lòng ông vẫn chan chứa nỗi xót xa, tủi hổ

    + Ông Hai tiếp tục rơi vào bế tắc, tuyệt vọng khi mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi nơi khác

- Đoạn văn diễn tả cảm động, chân thật nõi đau sâu xa trong lòng và sự chân thành của nhân vật ông Hai

Quảng cáo

- Ông Hai chỉ biết tâm sự nỗi lòng mình với đứa con chưa hiểu sự đời. Lời nói của ông với con thực chất là lời nói để ông tỏ lòng mình: nỗi nhớ, tình yêu làng, sự thủy chung với kháng chiến, cách mạng

- Khi nghe tin cải chính, ông Hai như sống lại, mọi nỗi xót xa, tủi hờn, đau đớn tan biến, thay vào đó là niềm hân hoan, hạnh phúc hiện lên trên khuôn mặt, cử chỉ, điệu cười của ông (dẫn chứng trong văn bản)

3. Thành công nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật

- Đặt tâm trạng nhân vật vào tình huống thử thách để khai thác chiều sâu tâm trạng

- Thể hiện tâm trạng nhân vật tài tình, cụ thể qua non ngữ đối thoại, độc thoại, và độc thoại nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, cử chỉ

    + Ngôn ngữ đậm chất khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân, và thế giới tinh thần của người nông dân

III. Kết bài

Tâm trạng nhân vật ông Hai được thể hiện qua nhiều cung bậc tinh tế, chân thật, đa dạng: diễn tả đúng, gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật.

Ông Hai người yêu làng mạnh mẽ, say sưa, hãnh diện thành thói quen khoe làng, qua tình huống thử thách tình cảm đó càng trở nên sâu sắc hơn.

Chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc về người nông dân và thế giới tinh thần của họ.

Dàn ý Diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện Làng - mẫu 2

I/ Mở bài:

- Kim Lân là nhà văn chuyên viết về cuộc sống nông thôn.

- Một trong những tác phẩm của ông là truyện ngắn Làng với nhân vật chính là ông Hai – một người phải rời làng của mình để đến nơi tản cư.

II/ Thân bài:

- Luận cứ 1: tình yêu làng

+ Luận cứ 1: niềm tự hào, kiêu hãnh của ông hai về làng của mình

- Dù đã rời làng nhưng ông vẫn:

+ Nghĩ về làng của mình, nghĩ về những buổi làm việc cùng anh em

+ Lo lắng, nhớ đến làng: “Chao ôi! Ông lão nhớ cái làng này quá ”

- Luận cứ 2: tâm trạng của ông hai khi nghe tin làng chợ dầu đi theo giặc:

- Cổ ông nghẹn, giọng lạc hẳn đi.

- Lúc đầu ông không tin nên hỏi lại.

- Ông quá xấu hổ nên đã chép miệng, đánh trống lảng: "Hà, nắng gớm, về nào… " rồi cúi mặt mà đi.

- Khi về nhà, ông nằm vật ra giường. Tối hôm đó thì trằn trọc không ngủ được.

- Ông nhìn đám trẻ ngây thơ mà bị mang tiếng việt gian rồi khóc.

- Ông điểm lại mọi người trong làng nhưng thấy ai cũng có tinh thần cả nên ông vẫn không tin lại có ai làm điều nhục nhã ấy.

- Lo sợ sẽ bị bà chủ nhà đuổi vì ông biết rằng nơi đây ai cũng khinh bỉ và không chứa chấp việt gian.

III/ Kết bài:

- Ông hai là một người rất rất yêu làng và yêu nước của mình.

- Hai điều trên đã được tác giả làm rõ qua cách xây dựng nhiều tình huống truyện khác nhau, miêu tả tâm lí nhân vật qua những cuộc đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng.

Dàn ý Diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện Làng - mẫu 3

1. Mở bài

Giới thiệu về truyện ngắn Làng và nhân vật ông Hai:

Truyện ngắn Làng là tác phẩm tiêu biểu viết về người nông dân, nông thôn.

Diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc đến khi nghe tin cải chính thể hiện rõ nét hình ảnh người nông dân yêu nước Việt Nam xưa.

2. Thân bài

* Trước khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc:

Nhớ làng, lúc nào cũng nghĩ về làng “Chao ôi! Ông lão nhớ cái làng này quá”.

Tự hào, kiêu hãnh về làng: Thường xuyên khoe làng với mọi người.

Thường xuyên nghe ngóng tin tức về làng.

* Tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc:

Không tin vào những điều mình nghe thấy.

Cổ ông nghẹn lại, giọng lạc hẳn đi.

Xấu hổ, cố tình đánh trống lảng rồi cúi mặt mà đi về.

Nằm vật ra giường, đau khổ nghĩ về việc làng Chợ Dầu theo giặc.

Ông khóc khi thấy những đứa con tội nghiệp bị mang tiếng Việt gian.

Một lòng trung thành với cách mạng “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù".

* Tâm trạng ông Hai khi nghe tin cải chính:

Vui sướng, hạnh phúc.

Đi khoe với mọi người tin cải chính, khoe ngôi nhà bị bọn Tây đốt.

3. Kết bài

Cảm nhận về nhân vật ông Hai:

Ông Hai là người nông dân yêu nước.

Tình yêu nước được bộc lộ qua những diễn biến tâm lí, qua những độc thoại nội tâm.

Dàn ý Diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện Làng - mẫu 4

1. Mở Bài

- Giới thiệu tác giả: Kim Lân là một trong những cây bút hiện thực tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, có sở trường về truyện ngắn, ông am hiểu về đời sống sinh hoạt của người nông dân và được mệnh danh là người "một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy nông thôn".

- Giới thiệu tác phẩm: Truyện "Làng" được viết trong thời kì đẩu của cuộc kháng chiến chổng Pháp, đăng lẩn đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948; là một trong những truyện ngắn thành công nhất của Kim Lân.

- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Truyện xây d ựng thành công nhân vật ông Hai, một nông dân cẩn cù, chất phác, có lòng yêu làng, yêu nước thủy chung, son sắt - điểu đó thể hiện rõ nét nhất qua diễn biến tâm trạng nhân vật từ khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc đến khi tin được cải chính.

2. Thân Bài

* Tóm tắt tác phẩm và nêu tình huống truyện

- Truyện kể về ông Hai - người nông dân yêu làng tha thiết nhưng phải đi tản cư. Ngày ngày ông đều chăm chỉ nghe đọc báo trên đài phát thanh để nắm bắt thông tin về làng của mình. Nhưng thật không may, ông phải đối diện với thông tin làng mình theo giặc nên vô cùng đau khổ, tủi nhục, xấu hổ, sợ hãi.

* Diễn biến tâm trạng của ông Hai * Khi nghe tin làng mình theo giặc:

- Cổ ông nghẹn, da mặt tê rân rân, giọng lạc hẳn đi.

- Lúc đầu ông không tin nên hỏi lại.

- Ông quá xấu hổ nên đã chép miệng, đánh trống lảng: "Hà, nắng gớm, về nào..." rổi cúi mặt mà đi.

- Khi về nhà, ông nằm vật ra giường. Tối hôm đó ông trằn trọc không ngủ được.

- Ông nhìn đám trẻ ngây thơ mà bị mang tiếng Việt gian rổi khóc.

- Ông điểm lại mọi người trong làng nhưng thấy ai cũng có tinh thẩn cả nên

- Ông vẫn không tin lại có ai làm điểu nhục nhã ấy.

- Lo sợ sẽ bị bà chủ nhà sẽ đuổi vì ông biết rằng nơi đây ai cũng khinh bỉ và không chứa chấp Việt gian.

- Đấu tranh tư tưởng: đi đâu hay về làng? Rồi chính ông kiên quyết không về "làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rỗi thì phải thù".

- Ông đối thoại với đứa con trai út, cũng là nói với chính mình: "Cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ông. Anh em đồng chí soi xét cho bố con ông" quyết tâm đến cùng "ủng hộ cụ Hồ Chí Minh".

=> Với ông Hai, tin làng Chợ Dầu theo giặc là một cú "sốc" lớn. Niềm tự hào về làng của ông sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quý nhất nay đả quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như đã chết đi rồi.

* Khi nghe tin làng được cải chính:

- Mặt ông vui tươi, rạng rỡ hẳn lên.

-Về nhà, ông chia quà cho lũ trẻ xong liền chạy khắp xóm để loan tin.

- Ông qua nhà bác Thứ và kể chuyện về làng của mình, tự hào khoe "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác Thứ ạ! Đốt nhẵn!".

- Định nuôi lợn để ăn mừng.

- Ông nh được hồi sinh: lại nhanh nhẹn, sôi nổi, thích nói chuyện với mọi người xung quanh.

=> Ông Hai như người chết đi được sống lại, sung sướng, hạnh phúc vô bờ.

* Nhận xét

- Nhân vật ông Hai đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả bởi tình yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng nồng nàn, thấm thiết. Những tình cảm ấy hài hòa, thống nhất, hòa quyện vào nhau, thật cảm động. Điểu này cho thấy những chuyển biến mới trong nhận thức và tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.

- Nghệ thuật:

+ Lối kể chuyện giản dị, tự nhiên, ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ.

+ Tạo dựng tình huống đặc sắc; ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo.

+ Kết hợp hài hòa ngôn ngữ độc thoại, đối thoại.

+ Hình ảnh, chi tiết giàu sức gợi.

3. Kết Bài

Qua việc thể hiện tình yêu làng, yêu nước của ông Hai nhà văn Kim Lân đã mang một thông điệp ý nghĩa: tình yêu Tổ quốc chẳng đến từ đâu xa xôi, nó bát nguồn từ những tình cảm gần gũi, bình dị, thân thương nhất.

Dàn ý Diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện Làng - mẫu 5

1. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Kim Lân, tác phẩm "Làng".
- Dẫn dắt vấn đề: Diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc.

2. Thân bài:

a. Hoàn cảnh

- Ông Hai là người nông dân yêu làng, ông luôn tự hào về ngôi làng Chợ Dầu của mình.
- Trong kháng chiến, ông phải tản cư đi nơi khác nhưng lúc nào cũng nghe ngóng tin tức về làng.

b. Diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc

* Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc:
- Nghe tin làng theo giặc, ông như điếng người.
- Cúi gằm mặt xuống mà đi, cảm tưởng như đang mất một thứ gì rất quý giá mà bấy lâu mình hằng trân trọng, gìn giữ.
- Nằm vật ra giường, nước mắt cứ giàn ra.

* Mấy ngày hôm sau:
- Ông không dám nhắc tới câu chuyện phản bội của làng, không dám bước ra ngoài.
- Chỉ nghe một tiếng xì xầm, xôn xao đâu đây ông cũng ngỡ là người ta đang bàn về "chuyện ấy"- chuyện cái làng theo giặc.
- Lo lắng khi người chủ có ý định đuổi ra khỏi nhà.
- Đau khổ, dằn vặt khi phải lựa chọn theo làng hay theo cách mạng.
- Lựa chọn đứng về phía cách mạng "Làng yêu thì yêu thật, nhưng làng theo giặc thì phải thù"

* Khi trò chuyện với thằng con út:
- Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má.
- Ông nói thủ thỉ: "Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ."
=> Những diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đã thể hiện được tình yêu làng tha thiết.

c. Nghệ thuật
+ Biện pháp đối thoại, độc thoại nội tâm.
+ Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ.
+ Khắc hoạ diễn biến tâm lí nhân vật đặc sắc.

3.Kết bài

Khẳng định lại vẻ đẹp nhân vật và tình cảm của tác giả.

Dàn ý Diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện Làng - mẫu 6

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Kim Lân, truyện ngắn Làng và nhân vật ông Hai.

2. Thân bài

a. Khái quát về hoàn cảnh của nhân vật ông Hai

Nghe theo chính sách của Đảng, gia đình tôi phải đi tản cư.

Ở nơi ở mới, ông tích cực tăng gia sản xuất nhưng luôn nhớ về ngôi làng của mình, không biết làng đã thay đổi ra sao.

Luôn nhớ về những kỉ niệm lúc còn ở làng.

Chán ngán nơi ở hiện tại và luôn mong được quay trở về làng.

Trước khi nghe tin làng theo giặc: Náo nức nghe ngóng thông tin của cuộc kháng chiến.

b. Khi nghe tin làng theo giặc

Khi có người nhắc đến làng mình thì giật bắn người.

Khi nghe tin làng mình theo giặc: cổ nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân, lặng người đi, tưởng như không thể thở được, không tin vào những gì đã nghe.

Cố gắng lảng tránh tin đồn đó: đau đớn đến uất nghẹn, trả tiền nước, đứng dậy chèm chẹp miệng, cố cười nói to và đi về.

Nghe tiếng người khác chửi làng Việt gian theo giặc mà tưởng chửi mình, chỉ biết cúi gằm mặt xuống mà đi, về đến nhà nằm vật ra giường, nhìn lũ con tủi thân nước mắt ông cứ giàn ra.

Cảm thấy tủi nhục, không dám đối mặt với người khác. Sợ bị đuổi phải quay lại làng nhưng lại kiên quyết không về cái làng theo giặc ấy.

Suốt mấy ngày chỉ ở nhà, khi nghe ai nhắc đến Việt gian hoặc chuyện đó thì giật mình, tủi nhục.

Sau khi biết làng mình không theo giặc thì vui vẻ trở lại, đi khoe khắp nơi về quá trình đánh giặc của làng mình như thể mình vừa trực tiếp tham gia chiến đấu với giọng đầy tự hào.

3. Kết bài

Khái quát lại nhân vật ông Hai và nội dung, nghệ thuật của câu chuyện.

Diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện Làng - mẫu 1

Kim Lân là một nhà văn có sở trường về truyện ngắn. Các tác phẩm của ông thường viết về cảnh ngộ của người nông dân và cuộc sống sinh hoạt của làng quê. "Làng" là một tác phẩm tiêu biểu của ông viết về đề tài đó. Truyện được sáng tác năm 1948 thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong truyện ngắn "Làng", nhà văn Kim Lân đã thể hiện một cách sinh động và tinh tế diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến khi tin đó được cải chính.

Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, ông Hai đau đớn tủi hổ vô cùng. Tác giả đã diễn tả rất cụ thể diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trước cái tin dữ đó. Thoạt đầu, nghe được tin đột ngột từ người đàn bà tản cư nói ra, ông Hai bàng hoàng đến sững sờ. "Cổ họng ông nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như không thở được". "Ông sinh ra nghi ngờ, cố chưa tin vào cái tin ấy. Nhưng những người tản cư đã kể rành rọt quá làm ông không thể không tin". Từ lúc ấy, tâm trạng ông Hai bị ám ảnh, ray rứt với mặc cảm là kẻ phản bội. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông cúi gằm mặt xuống mà đi.

Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, tủi thân khi nhìn đàn con. "Nước mắt ông lão cứ dàn ra". "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?" Ông giận lây và trách cứ những người trong làng phản bội. Tủi thân, ông Hai thương con, thương dân làng chợ Dầu, thương thân mình phải mang tiếng là dân làng Việt gian.

Suốt mấy ngày hôm sau, ông Hai không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn ở xó nhà, nghe ngóng tình tình bên ngoài. Ông sống trong tâm trạng nơm nớp lo sợ, xấu hổ và nhục nhã. Cứ thoáng nghe thấy Tây, Việt gian, cam-nhông là ông lại "lủi ra một góc nhà nín thít".

Ông Hai tiếp tục bị đẩy vào một tình huống thử thách căng thẳng, quyết liệt khi nghe tin mụ chủ nhà sẽ đuổi hết người làng chợ Dầu ở nơi tản cư. Ông cảm nhận được hết nỗi nhục nhã, lo sợ vì tuyệt đường sinh sống: "Biết đi đâu bây giờ". Bị đẩy vào đường cùng, tâm trạng ông Hai vô cùng bế tắc, mâu thuẫn nội tâm được đẩy đến đỉnh điểm. Ông nghĩ hay là quay về làng nhưng lại hiểu rõ thế là phản bội cách mạng, phản bội Cụ Hồ. Thế rồi ông đã dứt khoát theo cách của ông: "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Rõ ràng, tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ được tình cảm với làng. Vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ.

Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào những lời tâm sự với đứa con út. Qua lời tâm sự với con, chúng ta thấy rõ một tình cảm sâu nặng và bền chặt với cái làng chợ Dầu, một tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng của con người ông Hai. Tình cảm đó là sâu nặng và thiêng liêng.

Khi nghe tin làng chợ Dầu không theo giặc, ông Hai sung sướng vô cùng. Cái nét mặt buồn thiu hàng ngày bỗng vui tươi, rạng rỡ hẳn lên. Ông còn thay đổi thái độ với các con: Mua bánh rán về chia cho các con. Sau đó ông chạy đi báo cho mọi người biết cái tin Tây nó đốt nhà mình rồi. Nhà bị giặc đốt mà ông không buồn không tiếc, lại lấy đó là niềm tự hào bởi đây là bằng chứng duy nhất chứng minh lòng trung thành của gia đình ông, của làng ông với kháng chiến. Tình yêu làng của ông Hai luôn gắn chặt với lòng yêu nước. Ông biết đặt tình yêu nước lên trên tình cảm cá nhân của mình. Phải chăng đó là nét đẹp trong con người ông Hai nói riêng và những người nông dân Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Nhân vật ông Hai được khắc họa nhờ những yếu tố nghệ thuật đặc sắc. Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến khi tin đó được cải chính được miêu tả một cách cụ thể, gợi cảm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ. Ngôn ngữ nhân vật ông Hai mang đậm tính khởi ngữ, là lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân, bộc lộ rõ tâm trạng và thái độ của nhân vật. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, sinh động.

Tóm lại, truyện ngắn "Làng" của nhà văn Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến khi tin đó được cải chính. Qua diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai, ta thấy được một tình yêu làng yêu nước tha thiết gắn với tinh thần kháng chiến của nhân vật ông Hai. Ông Hai chính là hình ảnh tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện Làng - mẫu 2

Tình yêu làng xóm quê hương là một phẩm chất truyền thống của người dân Việt Nam đã được thể hiện rõ trong các tác phẩm văn học. Trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân, nhân vật Ông Hai vừa có lòng yêu làng tha thiết như truyền thống vốn có của người dân Việt Nam lại vừa có những nét mới mẻ đáp ứng không khí sôi nổi, quyết tâm của cuộc kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ.

Cũng như bao người nông dân khác, sống êm ả sau luỹ tre làng, ông Hai yêu làng Chợ Dầu của mình với một tình yêu thật đặc biệt. Tình cảm đó trong ông biểu hiện bằng tính hay khoe về cái hay, cái giỏi của làng quê mình, cứ như không đâu bằng được như vậy. Ông khoe làng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Ông nói về sự giàu có, trù phú của làng mình với một niềm say mê và náo nức lạ thường: “Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển…”. Ông kể về cái làng của ông như một người nông dân tự hào về những thửa ruộng xanh ngút ngàn do chính tay mình cày cấy, như một trọc phú khoe về cơ ngơi giàu có của mình, ông tự hào khoe về làng mình như khoe của cải quý giá của cá nhân mình vậy. Thật là một tình cảm chân tình, mộc mạc nhưng đáng trân trọng vô cùng. Tất cả những điều đáng kiêu hãnh đó đã chứng tỏ rằng người dân làng ông đều là những con người cần cù trong lao động, có ý thức đóng góp cho quê hương mình ngày càng giàu đẹp. Những phẩm chất đáng quý đó không chỉ của riêng người nông dân làng Chợ Dầu mà còn là của những người dân Việt Nam trên muôn ngàn làng quê khác.

Sau Cách mạng, khi đã được giác ngộ ý thức giai cấp, tình yêu làng của ông Hai có những biến chuyển sâu sắc. Nếu trước kia ông coi cái “sinh phần của cụ Thượng” là niềm hãnh diện trước con mắt ngạc nhiên của dân làng khác thì bây giờ ông đâm ra căm thù nó vì “cái lăng ấy nó làm khổ ông, nó còn làm khổ bao nhiêu người trong làng này nữa”. Ông còn biết tham gia tự vệ để chiến đấu chống Pháp bảo vệ làng quê, và còn làm nhiều việc khác để phục vụ cho kháng chiến. Lúc này, ông kể về làng một cách hả hê, nào là làng có nhà thông tin, chòi phát thanh cao lớn nhất vùng, rồi những buổi tập dân quân tự vệ có cả phụ lão tham gia, khoe những đường hào, những ụ… Tuy chỉ là cách nghĩ, cách nói của người nông dân hồn nhiên, chất phác, nhưng ông vẫn luôn luôn tâm niệm: bảo vệ làng tức là đi theo kháng chiến.

Khi phải xa làng đi tản cư ông lão cũng nghĩ rằng: “Tản cư cũng là kháng chiến”. Xa làng khi nghe tin giặc đánh Chợ Dầu, ông đã hỏi ngay: “Ta giết bao nhiêu thằng ?”. Câu hỏi đó chứng tỏ quyết tâm chống giặc, góp một mặt trận nhỏ cho chiến trường chung của cả nước. Lòng yêu làng, nhớ làng chuyển thành sự quan tâm tới chiến sự, tới chính phủ của Cụ Hồ. Đó là biểu hiện cao đẹp về lòng yêu nước của những người dân quê Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược giành độc lập, tự do cho dân tộc.

Đến đây ta thấy rằng tình cảm làng xóm quê hương đầy tính truyền thống của người dân quê Việt Nam từ bao đời nay đã mang những nét mới của thời đại. Ông Hai khoe làng trong cuộc kháng chiến chống Pháp của đất nước chính là ông đã đặt làng trong phong trào cách mạng chung. Đó là cơ sở để ông Hai tự hào về sự hòa nhập cuộc chiến đấu bảo vệ làng, không theo địch của làng Chợ Dầu với cuộc kháng chiến vĩ đại của cả nước. Đây là điều mới mà cách mạng đã đem lại cho ông. Nét đẹp này đã tạo nên bản lĩnh vững vàng để nhân vật có thể trải qua nhiều bão tố và những trắc trở ở đời mà vẫn vững vàng, kiên định.

Thử thách đầu tiên xảy ra trong một hoàn cảnh đặc biệt. Đó là khi tin làng Chợ Dầu theo giặc – tuy mới chỉ phong thanh từ miệng mấy người dân tản cư cũng đủ khiến ông vô cùng bàng hoàng, đau xót. Hàng loạt diễn biến tâm trạng giằng xé tâm can ông. “Da mặt ông tê rân rân”, “cổ nghẹn ắng hẳn lại” chứng tỏ rằng ông đang đi tới cực điểm của sự đau khổ và mất hết niềm tin. Nhớ làng, mong được trở về làng đến khắc khoải, đau đớn vậy mà lúc này người nông dân chân chất này đã phải thốt ra những lời đau xót: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Từ trong tâm thức, ông Hai đã không cho phép dân làng đi ngược với lí tưởng của nhân dân, đất nước, đi ngược với cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc.

Mặc dù dằn lòng lại nhưng suy nghĩ, tình cảm đối với làng Chợ Dầu như ngấm vào máu thịt của ông vậy. Ông hổi con quê ở đâu cốt để con nhắc đến làng chợ Dầu của ông. Ông thủ thỉ tâm sự rồi khóc với đứa con bé bỏng cũng chính là để khẳng định lại lòng trung thành tuyệt đối của mình đối với Cách mạng, với Cụ Hồ. Mỗi việc ông làm, mỗi lời ông nói, mỗi biểu hiện dù nhỏ nhất trong tâm trạng ông lúc này đều chứng tỏ tình yêu làng xóm quê hương của người nông dân này đã có những chuyển biến sâu sắc về nhận thức cách mạng, nhận thức giai cấp.

Lần thử thách thứ hai là khi nghe tin cải chính về làng Chợ Dầu, ông như được hồi sinh, sung sướng như trẻ con, bô bô đi khoe khắp nơi. Những mất mát do giặc gây ra với ông và làng Chợ Dầu được ông mang đi khoe như những bằng chứng về lòng trung thành của mỗi người nông dân làng ông sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Người ta vẫn quan niệm nông dân là những người có đặc tính tư hữu, nhưng ở đây, khói lửa của cuộc chiến, sinh mệnh của đất nước đã khiến họ sẵn sàng hi sinh tất cả cho cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc. Họ sẵn sàng nhường cơm sẻ áo cho nhau, sẵn sàng cống hiến công sức, tài sản, thậm chí cả xương máu cho thắng lợi cuối cùng của đất nước.

Ông Hai là nhân vật điển hình cho người nông dân Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám, có lòng yêu làng tha thiết, hoà vào tình yêu nước thiêng liêng, sâu sắc. Họ sẵn sàng hi sinh tất cả, kể cả ngôi nhà, hay cả làng quê yêu dấu, tổ ấm tâm linh của mình cho kháng chiến.

Truyện ngắn Làng đã thể hiện cách nhìn mới mẻ, đúng đắn của nhà văn Kim Lân về người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì và anh dũng, ớ đó, lịch sử hào hùng của đất nước đã lay động trái tim chân thật của mỗi người, khiến cho những phẩm chất đáng quý trong tâm hồn họ trở nên tốt đẹp hơn, cao quý và sâu sắc hơn.

Diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện Làng - mẫu 3

Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là một tác phẩm đặc sắc thể hiện tình yêu của người nông dân đối với quê hương, đất nước mình trong kháng chiến chống Pháp một cách cảm động. Làm nên thành công của tác phẩm không thể không nhắc đến nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn. Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai trong tác phẩm khi nghe tin làng Dầu của mình theo giặc được thể hiện một cách sinh động đã thể hiện điều đó.

"Làng” ra đời năm 1948. Tác phẩm lấy bối cảnh là cuộc tản cư kháng chiến của nhân dân. Ông Hai là nhân vật chính của tác phẩm, có lẽ phần vì tuổi cao, phần vì chân ông vẫn bị thương “đi tập tễnh” nên ông được vận động tản cư kháng chiến cùng gia đình. Nhưng trong thâm tâm, ông rất muốn ở lại làng để cùng anh em chiến đấu. Và chính ở nơi tản cư, ông đã bộc lộ sâu sắc tình yêu cái làng của mình.

Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Ngày ngày, ông sang nhà hàng xóm chơi hoặc đi nghe tin, đi nói chuyện,... Đến đâu ông cũng khoe về cái làng của mình. Trước Cách mạng tháng Tám, ông khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông: "Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi.". Và mặc dù chẳng họ hàng gì như­ng ông cứ gọi viên tổng đốc là "cụ tôi" một cách rất hả hê! Sau Cách mạng, "người ta không còn thấy ông đả động gì đến cái lăng ấy nữa", vì ông nhận thức được nó làm khổ mình, làm khổ mọi người, là kẻ thù cùa cả làng: Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó. [...] Cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy". Bây giờ ông khoe làng ông khởi nghĩa, khoe ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn trong bóng tối", rồi những buổi tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thông hào cùa làng ông,... Cũng vì yêu làng quá như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra hay bực bội, "ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm". Ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày làm việc cùng với anh em: "Sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra.[…] Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên.". Lúc này, niềm vui của ông chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng Chợ Dầu của ông đánh Tây.

Thế mà, đùng một cái ông nghe được cái tin làng Chợ Dầu của ông theo Tây làm Việt gian. Càng yêu làng, hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiên sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.

Ông lão đang náo nức, "ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá! vì những tin kháng chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng người: "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, dường như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ [...] giọng lạc hẳn đi", "Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão như vừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm.

Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc động: "Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra... Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu...". Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở. "Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước...”. Cả nhà ông Hai sống trong bầu không khí ảm đạm: "Gian nhà lặng đi, hiu hắt, ánh lửa vàng nhờ nhờ, ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở cùa ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà." Ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là "chuyện ấy".

Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, "không dám bước chân ra đến ngoài" vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là người của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng. Ông Hai phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất: Thật là tuyệt đường sinh sống! [...] đâu đâu có người Chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách của Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu".

Từ chỗ yêu tha thiết cái làng cùa mình, ông Hai đâm ra thù làng: "Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ…Và "Nước mắt ông giàn ra". Ông lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. Bao nỗi niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứa con thơ dại:

    Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?

    Là con thầy mấy lị con u.

    Thế nhà con ở đâu?

    Nhà ta ở làng Chợ Dầu.

    Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?

    Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:

    Có.

    Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:

    À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?

    Thằng bè giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:

    Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!

    Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:

    Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.

Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy danh dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một lòng với kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ như minh oan cho ông, chân thành và thiêng liêng như lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông:

    Anh em đồng chí biết cho bố con ông

    Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.

Cái lòng bố con ông là như thể đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.

Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong người nông dân chân lấm tay bùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích nói về làng bất kể người nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điểm tâm lí vì cộng đồng, vui cái vui của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những diễn biến của trạng thái tâm lí hết sức đặc trưng của một người nông dân tủi nhục, đau đớn vì cái tin làng mình phản bội. Nếu như trong biến cố ấy tâm trạng của ông Hai đau đớn, tủi cực bao nhiêu thì khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng Chợ Dầu của ông không hề theo giặc, sự vui sướng càng tưng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ông Hai như người vừa được hồi sinh. Một lần nữa, những thay đổi của trạng thái tâm lí lại được khắc hoạ sinh động, tài tình: "Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lèn. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy...". Ông khoe khắp nơi: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! [...] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.", "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn.[...] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!". Đáng lẽ ra ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đang tràn ngập trong niềm vui vì thoát khỏi cái ách người làng Việt gian”. Cái tin ấy xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại được sống như một người yêu nước, lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của mình, ... Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này cũng là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.

Người đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình như thế. Mặt khác, cũng như các nhân vật quần chúng (chị cho con bú loan tin làng Chợ Dầu theo giặc), bà chủ nhà, ... cái khó quên ở nhân vật này còn là nét cá thể hoá rất đậm về ngôn ngữ. Lúc ông hai nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểm ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ: "Nắng này là bỏ mẹ chúng nó", "không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy", "thì vẫn”, "có bao giờ dám đơn sai", ... Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá hưng phấn của ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngôn ngữ của người nông dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng từ ngữ chưa hiểu hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phần nào cũng nhờ vào đặc điểm ngôn ngữ này.

Xây dựng thành công diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai là thành công lớn nhất của truyện ngắn Làng. Điều đó đã thể hiện được tài năng cùa nhà văn Kim Lân trong việc khám phá chiều sâu tâm lí nhân vật. Và hơn hết, điểu đó đã xây dựng trong lòng độc giả một chân dung sống động, chân thực về một tấm lòng yêu quê hương, đất nước thiết tha cảm động của người nông dân Việt Nam chất phác, thật thà.

Diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện Làng - mẫu 4

Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn về nông thôn và cuộc sống của những người nông dân. Truyện ngắn 'Làng' được ông viết năm 1984 thời kì đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong truyện ngắn này, ông đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai - một con người giàu lòng yêu làng, yêu nước tha thiết, chính vì vậy khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc ông cảm thấy rất đau khổ, nhục nhã.

Ngôi làng đối với mỗi người nông dân rất quan trọng. Nó là ngôi nhà chung cho cộng đồng, họ mạc. Đời này qua đời khác, người nông dân gắn bó với cái làng như máu thịt, ruột rà. Nó là nhà cửa, đất đai, là tổ tiên, là hiện thân cho đất nước đối với họ. Vốn là một người có tình yêu làng, yêu nước sâu sắc, ông Hai không muốn đi tản cư bởi ông nghĩ: "Mình sinh ra ở đây từ bé, giờ gặp lúc hữu sự mà bỏ đi thì còn ra gì nữa" Nhưng khi nghe các chiến sỹ cán bộ giảng giải, ông hiểu rằng "đi kháng chiến cũng là kháng chiến" nên ông mới đồng ý.

Những ngày đầu ở nơi tản cư, do mới lên lạ đất, lạ người lại không có việc gì để làm nên ông nhớ làng da diết, cháy bỏng, ông nhớ những ngày làm việc cùng với anh em, ông cảm thấy như mình được trẻ ra. Hơn thế nữa, gia đình ông lại ở nhờ nhà của một mụ xấu tính nên ông phải sống trong tâm trạng ngột ngạt, khó chịu. Lúc này, niềm vui của ông chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe cái làng chợ Dầu của ông đánh Tây. Hôm nay, ở phòng thông tin ông nghe được rất nhiều tin chiến thắng từ trẻ con đến người phụ nữ; điều này "làm ruột gan ông cứ múa cả lên, vui quá". Đang tràn ngập trong niềm vui và sự sung sướng, ông Hai có cảm giác cảnh vật bên đường như đẹp hơn rất nhiều.

Cũng trên đoạn đường trở về, trong tâm trạng vui vẻ ấy, nhà văn Kim Lân đã khéo léo đan cài vào đó một kịch tính thứ hai - một biến cố bất ngờ xảy ra. Ông gặp những người đàn bà tản cư từ Gia Lâm lên, khi gặp họ, ông tưởng mình sẽ nghe được nhiều tin vui hơn nữa nhưng thật bất ngờ, ông Hai nhận được tin cả làng chợ Dầu làm việt gian theo Tây. Cái tin ấy là một tin chết người, nó chẳng những làm mất hết niềm tin, sụp đổ niềm tự hào về làng của ông mà còn khiến ông tủi khổ, nhục nhã vì đã khoe bao điều hay về nó. Vừa nghe như vậy, ông Hai thấy cổ họng mình nghẹn đắng lại, da mặt tê rần rật, ông lặng đi tưởng chừng như không thở được; ông đang ở trong một trạng thái bất ngờ, đột ngột và vô vùng xấu hổ.

Ông vờ lảng sang chuyện khác để trốn những người đàn bà kia nhưng lời nói của họ như những nhát dao chém vào người ông đau đớn. Trên đường trở về ông chỉ dám cúi gằm mặt xuống đất không dám ngẩng mặt nhìn ai. Vừa về đến nhà, ông nằm vật ra giường, nước mắt trào ra, ông tức giận chửi bọn Việt gian làng Dầu bán nước nhưng ông lại thấy những lời chửi của mình thật vô lí. Ông kiểm đếm từng người trong óc nhưng không tìm được ai có thể phản bội, họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Nhưng thằng chánh Bệu thì đích thị là người làng ông rồi khiến ông có tâm trạng bối rối, phân vân, nửa tin nửa ngờ. Chỉ bằng một đoạn văn ngắn, tác giả đã cụ thể hoá sững sờ, ngạc nhiên cao độ đến bốc lửa, nghẹn ngào đau đớn, tức giận khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc. Qua đây, một lần nữa, nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của ông Hai trong biến cố này.

Cả nhà ông Hai những ngày sau đó, sống trong bầu không khí ảm đạm, nặng nề, đầy lo lắng. Họ nghĩ đến sự ghẻ lạnh, tẩy chay của mọi người và đặc biệt lo lắng khi không biết sẽ phải làm thế nào. Ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phải bội là "chuyện ấy", Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, trốn biệt ở nhà, không dám bước chân ra ngoài vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông đi, chỉ vì họ là người làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng, khó khăn nhất: "Thật là tuyệt đường sinh sống", đâu đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Trong tình cảnh ấy ông Hai đã nghĩ hay là quay về làng nhưng rồi ông đã dứt khoát "về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, chịu đầu hàng Tây là cam chịu kiếp sống nô lệ, cô độc" nên ông đã quyết định "làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù". Đến đây, tình yêu làng của ông Hai đã hoà quyện vào tình yêu nước. Tình cảm cách mạng khi bị đặt vào tình huống thử thách gay cấn buộc phải lựa chọn giữa làng và nước, ông Hai đã chấp nhận hi sinh tình cảm làng vì có một tình cảm thiêng liêng, lớn hơn - đó là tình cảm dành cho kháng chiến, cho cụ Hồ. Trong tâm trạng bế tắc và tuyệt vọng ông Hai chỉ còn biết chút nỗi lòng của mình qua lời nói thủ thỉ, tâm sự với đứa con út của mình. Thực chất, những lời tâm sự với con chính là lời giãi bày của ông .

Mặc dù đã vơi đi nỗi nặng nề trong lòng phần nào nhưng ông vẫn chưa vơi đi phần nào nỗi tuyệt vọng, bế tắc trong lòng ông, vì thế nhất quyết phải có một sự cởi nút ở mức độ cao hơn. Nhà văn Kim Lân đã cho xã hội một nhân vật mới: Ông chủ tịch xã đã lên tận khu tản cư cải chính lại tin đồn đó, sự cải chính tin đồn đó thật quan trọng, đúng lúc, nó xoá đi sự tuyệt vọng trong lòng người dân chợ Dầu. Nó đã đem lại niềm vui sướng cho ông Hai vì vậy nhà mình bị Tây đốt sạch nhưng ông vẫn mang tin này đi khoe khắp nơi với thái độ sung sướng, hớn hở không một chút nuối tiếc. Ông cố gắng khoe để thật nhiều người biết như một bằng chứng khẳng định làng chợ Dầu của ông trung thành với kháng chiến. Hành động của ông Hai thật vô lí nhưng đặt trong mạch tâm lí, nó có giá trị đề cao tinh thần hi sinh của ông vì cách mạng, vì kháng chiến. Qua đó, ông tự nhủ lòng mình yêu làng, yêu nước hơn và trung thành với cách mạng.

Xây dựng thành công diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai là thành công lớn nhất của truyện ngắn "Làng". Điều đó đã thể hiện được tài năng của nhà văn Kim Lân trong việc khám phá chiều sâu tâm lí nhân vật. Và hơn hết, điều đó đã xây dựng trong lòng độc giả một chân dung sống động, cảm động của người nông dân Việt Nam chất phác, thật thà.

Diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện Làng - mẫu 5

Kim Lân là một nhà văn hiện thực tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam. Ông có một tình cảm mãnh liệt dành cho những người nông dân nghèo, vì vậy mà các tác phẩm của ông thương viết về đề tài người nông dân, nông thôn. "Làng" được Kim Lân "thai nghén" và cho ra đời năm 1948. Nhân vật chính trong tác phẩm là ông Hai, người nông dân có tình yêu làng tha thiết. Những diễn biến tâm trạng của ông khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó phai về người nông dân chân chất, yêu nước, yêu làng sâu sắc, tha thiết.

Ông Hai là người nông dân yêu làng, ông luôn tự hào và hãnh diện về ngôi làng Chợ Dầu của mình. Ở nơi tản cư, đi đâu ông Hai cũng "khoe" về làng mình, về truyền thống đấu tranh anh dũng, hào hùng của làng. Ông khoe làng mình đứng lên khởi nghĩa, tham gia những buổi tập chiến, nhập phong trào, ông khoe cả những ụ, những hào giao thông của làng,...Ông yêu cái làng hơn tất thảy những gì ông có, bởi thế mà ngày tản cư ông đâu nỡ chịu đi, đến khi bắt buộc phải rời xa thì ông càng tủi cực, buồn khổ: "ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm". Đến nơi tản cư, ông càng nhớ làng da diết, ông nhớ những tháng ngày cùng anh em làm việc, bảo vệ, dựng xây quê hương "Ô, sao mà độ ấy vui thế". Để khỏa lấp nỗi nhớ làng, hàng ngày ông chăm chỉ đi nghe những tin tức thời sự, tin tức kháng chiến, xem nó như một món ăn tinh thần không thể thiếu.

Nhưng rồi, như một tiếng sét giữa trời quang, ông Hai nghe được từ người tản cư về việc làng Chợ Dầu theo giặc. Còn gì đau đớn hơn điều ấy, khi niềm tin về ngôi làng mà bấy lâu ông yêu thương tha thiết như vụn vỡ. Càng yêu, càng hãnh diện về làng thì ông Hai càng đau khổ, bàng hoàng khi nghe tin làng mình theo giặc "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được". Sự thay đổi trên nét mặt, hành động đã cho thấy được nội tâm đầy đau đớn của ông. Trên đường về nhà, ông Hai "cúi gằm mặt xuống mà đi", cảm tưởng như đang mất một thứ gì rất quý giá mà bấy lâu mình hằng trân trọng, gìn giữ.

Về đến nhà, sự ê chề, tủi hổ trào dâng trong lòng ông "nước mắt ông cứ giàn ra", ông thương xót, lo lắng cho đàn con "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy". Bằng cảm quan tinh tế, Kim Lân đã vẽ nên rõ nét tâm trạng của nhân vật qua sự xếp đặt ngôn từ có ý đồ để khắc họa sống động những dòng cảm xúc phức tạp của ông Hai. Trong người nông dân tội nghiệp ấy chỉ còn những nhục nhã, mặc cảm khi nghĩ chính mình là một tội đồ của đất nước, của cách mạng "Cực nhục chưa, cả làng Việt gian...Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước". Chính những suy nghĩ ấy đã hành hạ lão khổ sở đến tột cùng. Những ngày sau đó, cả gia đình ông Hai sống trong sự ảm đạm, thê lương, cả vợ và các con lão cũng đều cảm nhận được sự thay đổi ấy: "Gian nhà lặng đi...Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà ."

Cũng từ hôm đó, ông Hai lúc nào cũng mang trong mình nỗi bất an, tủi nhục ê chề. Ông không dám nhắc tới câu chuyện phản bội của làng. Thậm chí, ông xấu hổ tuyệt giao với những người hàng xóm xung quanh mình "không dám bước chân ra đến ngoài". Chỉ nghe một tiếng xì xầm, xôn xao đâu đây ông cũng ngỡ là người ta đang bàn về "chuyện ấy"- chuyện cái làng theo giặc. Chuyện mà vợ chồng ông Hai lo lắng nữa là bà chủ nhà biết tin, sẽ đuổi cả gia đình đi, rồi con cái họ sẽ đi về đâu, sống như thế nào. Khi chuyện đến tai chủ nhà, bà chủ đến bóng gió đuổi gia đình lão, ông Hai phải đối mặt với khó khăn "Thật là tuyệt đường sinh sống... đâu đâu có người Chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi". Nỗi đau đã nhức nhối, nỗi lo lắng lại càng tột cùng, thật là khổ càng thêm khổ, tủi càng thêm tủi.

Dù yêu làng bao nhiêu, nhưng làng theo giặc thì ông Hai không thể nào làm ngơ mà bảo vệ cái sai của làng "Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ...". Câu nói chưa dứt hẳn, nước mắt ông đã "giàn ra". Bật ra những lời ấy trong nỗi niềm khôn tả, hẳn ông đã rất đau, một nỗi đau khi phải đứng giữa hai lựa chọn: ngôi làng ông hết mực trân quý hay cách mạng cụ Hồ. Để khuây khỏa cho những nghĩ suy của mình, ông tâm sự với đứa con thơ dại. Lời nói của đứa con thơ "Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm" cũng chính là những lời từ đáy lòng người nông dân yêu làng, yêu nước, lời của một người trung thành với cách mạng, với cụ Hồ, tình cảm ấy, tấm lòng ấy thật đáng trân trọng biết bao. Những diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đã thể hiện được tình cảm chân thành của một người yêu nước. Qua đó bộc lộ tình cảm, sự tin yêu của tác giả dành cho những người nông dân Việt, họ tuy nghèo nhưng giàu tình cảm, yêu quê hương, đất nước và trung thành tuyệt đối với cách mạng.

Bằng việc sử dụng các biện pháp đối thoại, độc thoại nội tâm, ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ và đặc biệt là ngòi bút tài hoa trong khắc hoạ diễn biến tâm lí nhân vật, Kim Lân đã dựng nên một ông Hai đầy chân thực với những phẩm chất tốt đẹp, đáng trân trọng . Đó là một chân dung sống động về người nông dân chất phác, thật thà, yêu quê hương đất nước thiết tha, cảm động.

Bài giảng: Làng - Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)

Xem thêm các bài văn mẫu phân tích, dàn ý truyện ngắn Làng lớp 9 hay khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, KHÓA HỌC DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


lang.jsp


Tài liệu giáo viên