20+ Phân tích khổ 3 Bếp lửa (hay, ngắn gọn)
Phân tích khổ 3 Bếp lửa hay, chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh lớp 9 trên cả nước giúp học sinh lớp 9 có thêm tài liệu tham khảo từ đó biết cách viết văn dễ dàng hơn.
- Dàn ý Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa
- Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 1)
- Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 2)
- Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 3)
- Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 4)
- Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 5)
- Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 6)
- Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 7)
- Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 8)
- Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 9)
- Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (các mẫu khác)
20+ Phân tích khổ 3 Bếp lửa (hay, ngắn gọn)
Dàn ý Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa
1. Mở bài
Giới thiệu chung về tác giả Bằng Việt.
Giới thiệu về bài thơ Bếp lửa và khổ 3 bài thơ.
2. Thân bài
- Khơi nguồn nỗi nhớ:
"Tám năm": khoảng thời gian tuổi thơ sống bên bà
"Tú hú kêu": âm thanh gợi nhớ về những kí ức bên bà.
- Những kỉ niệm tuổi thơ cùng bà:
Bà kể cháu nghe những câu chuyện ngày Huế.
Bà thay cha mẹ chăm sóc, bảo ban cháu học hành.
Bà dạy cho cháu từng con chữ, chỉ cho cháu từng việc làm nhỏ, cách đối nhân xử thế hàng ngày.
=> Kỉ niệm ngọt ngào về tình bà cháu.
- Tình cảm của cháu dành cho bà:
"Thương bà khó nhọc": thấu hiểu được những vất vả của bà, dành tình yêu thương của mình cho bà.
Thương bà cô đơn tác giả buông lời trách nhẹ nhàng chim tu hú, sao cứ bay mãi trên cánh đồng xa, chẳng đến cùng cho bà đỡ buồn thương, hiu quạnh.
3. Kết bài
Khẳng định giá trị của khổ thơ thứ ba nói riêng và bài thơ nói chung.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 1)
Bằng Việt là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với giọng văn tự sự, trữ tình riêng biệt, ông đã có những tập thơ để lại dấu ấn trong lòng người đọc như Hương cây – Bếp lửa, Những gương mặt những khoảng trời, Đất sau mưa… Bài thơ “Bếp lửa”, trích từ tập thơ Hương cây – Bếp lửa, là một trong những sáng tác xuất sắc nhất của nhà thơ khi khắc họa lại những ký ức về người bà ở quê nhà trong những năm tháng tác giả xa quê hương. Bếp lửa là những kỷ niệm khó phai về hình ảnh người bà trong trí tưởng tượng của nhà thơ, mỗi khi nhắc đến bếp lửa, hình ảnh người bà tần tảo lại ùa về trong ký ức.
Thuở ấy, tuổi thơ của cháu gắn gắn liền với 8 năm kháng chiến chống Pháp đầy tủi cực.
"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế"
Cháu cùng bà trải qua bao năm tháng, cùng bà sống bên cánh đồng quê hương, cùng bà nhen nhóm yêu thương mỗi ngày bên bếp lửa thân thuộc. "Tám năm"- khoảng thời gian đủ dài để cháu khắc cốt ghi tâm những lời bà dạy, những câu chuyện kể của bà về ngày ở Huế, về những kỉ niệm xưa. Tiếng tu hú vang vọng trong bài thơ như gọi quá khứ trở về, khơi dậy những câu chuyện xưa. Những vần thơ lúc này đây chứa chan những yêu thương, thấm đẫm nỗi niềm xúc động:
"Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!"
Có những khi “Giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi” trong khi mẹ và cha bận công tác xa, đứa cháu ngây thơ chỉ biết sống trong vòng tay cưu mang, đùm bọc của bà. “Bà bảo cháu nghe” từng câu chuyện quê hương, “bà dạy cháu làm” từng công việc trong nhà, “bà chăm cháu học” mỗi đêm trong làng vắng tiếng bom thù. Tất cả những nhỏ nhặt, tủn mủn trong cuộc sống đều đặt lên đôi vai của người bà tần tảo khiến bà phải kiên cường mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Có lẽ phải xa cha mẹ từ bé, sống bên bà bao năm mà tình cảm của cháu dành cho bà luôn lớn lao như thế. Cháu luôn trân trọng công dạy dỗ của bà, những ngày bà dạy cháu làm, bà ân cần chỉ cháu học. Cả những lần bà dặn cháu viết thư đừng kể ra những khó nhọc nơi quê nhà khiến ba mẹ phải để tâm lo lắng. Bà vẫn vậy, luôn lắng lo cho con cho cháu, dẫu có vất vả, có nhọc nhằn vẫn chẳng lời kêu than, trách oan. Hình ảnh tú hú vẫn kêu xa trên những cánh đồng, lại chẳng thế đến cùng bà phải chăng chính là hình ảnh của cháu lúc này, nỗi nhớ bà đã diết, tiếng gọi bà vọng về nhưng chẳng thể trở về bên bà, chỉ có thể gửi gắm nỗi nhớ qua từng lời thơ.
Hình ảnh bà bao giờ cũng ấm áp yêu thương và tình cảm hai bà cháu bao giờ cũng thắm thiết sâu nặng không dễ gì quên. Bằng lời thơ nhẹ nhàng, tâm tình, hình ảnh giàu giá trị biểu tượng cùng lối viết kết hợp giữa tự sự, trữ tình và biểu cảm, tác giả đã sáng tạo nên một bài thơ đầy xúc cảm. Đọc bài thơ, em mới thêm hiểu cảm giác của những người con xa quê mồng ngóng ngày sum họp, thêm trân trọng những khoảnh khắc lao động, sum vầy bên gia đình mình, thêm yêu quê hương, đất nước, nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn mình qua bao khoảnh khắc thời gian.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 2)
Mỗi chúng ta, ai mà chẳng lưu giữ trong tim mình những âm thanh, cảnh sắc quê nhà, những kỷ niệm cảm động, mái tóc bạc phơ, đôi mắt hiền từ của ông bà, người đã sinh ra cha mẹ ta? Bài thơ của Bằng Việt chẳng khác nào lời ru của mẹ, chuyện kể của bà...
Bằng Việt là nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Anh làm thơ từ thời là học sinh, sinh viên. Bài thơ "Bếp lửa” viết năm 1963, khi anh đang học đại học ở nước ngoài. Đây là bài thơ tiêu biểu nhất của anh - một hồn thơ tài hoa và nồng hậu nghĩa tình. Bài thơ có đoạn:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa.
... Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Đoạn thơ đầy xúc động nhắc lại những kỉ niệm êm đềm, sâu sắc một thời gian khổ “tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”. Ngọn lửa ấy được nhóm lên bằng bàn tay của hai bà cháu, vì cuộc sống cơm áo cực nhọc đời thường. Ngọn lửa ấy, bếp lửa ấy là của tình yêu thương “ấp iu nồng đượm” mà bà đã sưởi ấm tâm hồn đứa cháu ngây thơ từ những ngày xửa ngày xưa, khi cháu vừa “lên bốn tuổi”. Tiếng kêu tha thiết của chim tu hú trên những cánh đồng xa gợi nhớ gợi thương, làm nhà thơ bồi hồi sống lại những kỉ niệm sâu sắc thời thơ bé, bâng khuâng nhớ lại những chuyện kể của bà. “Tám năm ròng”... - một thời gian khổ đã qua, nhưng cháu làm sao quên được? Cháu hồi tưởng, cháu hỏi bà hay tự hỏi mình?
... Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Hình ảnh ngọn lửa và âm thanh tiếng kêu chim tu hú có một sức mạnh biểu cảm vang xa, tạo nên những liên tưởng nghĩa tình thấm thía.
Sáu câu thơ tiếp theo với những chi tiết cụ thể và cảm động, Bằng Việt đã vẽ lên hình ảnh của bà, người bà đáng kính đáng yêu, suốt những năm dài khó nhọc đã chăm sóc, dạy dỗ cháu nên người:
Mẹ cùng cha bận công tác không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học...
Câu thơ gồm hai vế tiểu đối cân xứng, nhịp thơ êm ái hài hòa. Từ “bà”, từ “cháu” được nhắc lại nhiều lần “Cháu ở cùng bà... bà bảo... bà dạy... bà chăm cháu học”, âm điệu quấn quýt như sự gắn bó giữa hai tâm hồn bà - cháu trong tình yêu thương. Cháu lớn khôn, trưởng thành trong đôi bàn tay nâng niu, trong tấm lòng yêu thương vô hạn của bà. Bà đã thức khuya dậy sớm “nhóm lửa” làm cho tâm hồn thơ bé của cháu sống trong cảnh xa mẹ cha trở nên ấm áp. Ngọn lửa mà bà đã nhóm lên từ “bếp lửa” ấy đã sưởi ấm và soi sáng cuộc đời đi lên phía trước của cháu.
Mang nặng công ơn của bà, trong đáy tâm hồn cháu - nhà thơ - hình ảnh của bà hiện lên, chẳng bao giờ mờ phai. Tiếng kêu của con chim tu hú với hình ảnh của bà kết hợp hài hòa, được diễn tả dưới hình thức nghệ thuật cảm thán và câu hỏi tu từ đã khắc sâu nỗi nhớ thương da diết, một nỗi bồn chồn trong tâm tưởng và kí ức:
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa.
Âm điệu của vần thơ nhẹ nhàng, tha thiết, sâu lắng gợi lên những rung cảm man mác, bâng khuâng. Tiếng chim tu hú như vọng vào năm tháng, bồi hồi...
Hình ảnh “Bếp lửa” gắn liền với mái nhà êm ấm, cũng như âm thanh của tiếng chim tu hú gắn liền với cánh đồng. Bằng Việt đã khéo lựa chọn hai hình ảnh ấy để nói lên lòng kính yêu, sự thương nhớ và biết ơn bà, với tình yêu quê hương. Bếp lửa và tiếng chim trở thành biểu tượng mang vẻ đẹp nhân văn của một tình quê nồng hậu, về kỷ niệm tuổi thơ ngọt ngào.
Mỗi chúng ta, ai mà chẳng lưu giữ trong tim mình những âm thanh, cảnh sắc quê nhà, những kỷ niệm cảm động, mái tóc bạc phơ, đôi mắt hiền từ của ông bà, người đã sinh ra cha mẹ ta? Bài thơ của Bằng Việt chẳng khác nào lời ru của mẹ, chuyện kể của bà... từ những năm tháng tuổi thơ vọng về. Những tình cảm đẹp ấy được diễn tả rất thơ...
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 3)
Nhắc đến Bằng Việt, không ai là không nhắc đến Bếp lửa. Bếp lửa như một thứ gì đó âm ỉ nhưng không bao giờ tắt vì nó là tất cả những gì nhà thơ có của một thời tuổi thơ của mình. Bằng Việt sáng tác ra bài thơ Bếp lửa trong những tháng năm xa nhà, ở một đất nước xa xôi, nơi mà con người ta cảm thấy cô đơn và dễ hoài niệm. Ông đã có những kỷ niệm với biết bao nhiêu gian khổ cùng người bà yêu dấu của mình, những kỷ niệm đã đi cùng ông cho đến cả cuộc đời sau này.
Con người ta có xa nhà, có cô đơn mới chợt nhớ về những người thân thương, nơi mà những con người đó mang đến cho ta những kỷ niệm đáng giá. Và với Bằng Việt cũng vậy, những năm tháng chiến tranh đã cho ông có được những kỷ niệm khắc cốt ghi tâm với người bà, ông lớn lên từ những câu chuyện bà kể, những việc bà dạy và cả những bài học bà chỉ.
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Âm thanh của tiếng chim tu hú quen thuộc ở chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, réo rắc cuộn xoáy vào trong lòng của người con xa xứ. Âm thanh của tú hú kêu được tái hiện trong những cung bậc và cảnh huống khác nhau: khi thì từ cánh đồng xa vọng lại (Tu hú kêu trên những cánh đồng xa) gợi lên một không gian rộng lớn, mênh mông và vắng lặng; khi thì lại rộn lên khắc khoải, da diết khiến lòng người trỗi lại những hoài niệm xa xăm (Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà/ Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế); khi thì lại gióng giả, kêu hoài đến khô khan, lạnh vắng trên những cánh đồng xa xôi, heo hút (Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa)... Tiếng chim tu hú trở thành điệp khúc chủ âm của những dòng hoài niệm hồi tám tuổi, có tác dụng khắc họa không gian sống vắng lặng, heo hút, mênh mông; lại vừa gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn trống trải đến da diết, rợn ngợp. Tuy nhiên, tuổi thơ của người cháu vẫn thấm đẫm tình cảm yêu thương, đùm bọc cưu mang của người bà yêu quý. “Mẹ và cha công tác bận không về” và hai bà cháu nương tựa vào nhau. Bên bếp lửa, bà kể chuyện cho cháu nghe, bà bảo ban, dạy dỗ và chăm cháu học. Các động từ: “bà bảo, bà dạy, bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc và thấm thía tình yêu thương bao la, chăm chút của người bà dành cho người cháu.
Vì thế, bà trở thành ngọn nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao quý của tình cha, nghĩa mẹ, công thầy trong những chuyến đi xa bận công tác của bố mẹ. Cho nên, người cháu luôn ghi lòng tạc dạ đức công ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 4)
Hai giờ sáng, đang mơ màng trong giấc ngủ với giấc mơ nhớ về Quảng Ninh yêu dấu thì bạn cùng phòng ngủ mê nói thành lời khiến tôi tỉnh dậy, không ngủ được nữa. Nằm suy nghĩ về giấc mơ của mình, tôi men theo kí ức nhớ về bà ngoại của tôi - người bà hằng đêm vẫn ru tôi ngủ đã mất cách đây chục năm. Tôi nhớ bà và trong chốc lát, đôi mắt ướt nhòe vì chỉ được gặp bà qua bức ảnh thờ. Cứ mơ hồ suy nghĩ, tôi nhận ra có người cũng yêu bà như mình, cũng có thể đồng cảm, đó chính là nhà thơ Bằng Việt. Trong tác phẩm “Bếp lửa”, tác giả Bằng Việt cũng đã viết dòng hoài niệm đẹp đẽ của người cháu về tuổi thơ sống bên bà:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi!Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Với những ai yêu thích Bằng Việt thì khi nhắc đến ông, người ta sẽ nghĩ ngay đến những trang thơ có giọng điệu tâm tình, mượt mà, trong trẻo, tinh tế, vừa sâu lắng vừa mang tính triết luận, suy tư. Với sở trường khai thác sức biểu cảm của những kỉ niệm, kí ức và ước mơ tuổi trẻ, Bằng Việt đã thành công ở rất nhiều tác phẩm, ghi dấu ấn khó phai trên thi đàn Việt Nam và trong lòng bạn đọc. Bài thơ “Bếp lửa” là sáng tác đầu tay của ông đã thổi một nguồn sống mới, đánh thức những năm tháng tuổi thơ trong lòng hàng triệu độc giả. Khi du học ở Liên Xô, ông từng tâm sự rằng: “Những năm đầu theo học Luật tại đây tôi nhớ nhà kinh khủng. Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mờ mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các vòm cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi sớm dậy đi học, tôi hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình ảnh bà nội lụi cụi dậy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai củ sắn cho cả nhà.” Và cứ thế, từng dòng “Bếp lửa” được cất lên. Đây là thi phẩm đầy xúc động gợi lại những kỉ niệm về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà, với gia đình, với quê hương, đất nước.
Chỉ ngắn gọn với mười một câu thơ nhưng Bằng Việt đã khái quát được những kỉ niệm đẹp đẽ cháu ở bên bà khi bé. Đoạn thơ đầy xúc động nhắc lại những kỉ niệm êm đềm, sâu sắc một thời gian khổ “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”. Tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, nuôi dưỡng tâm hồn từ tấm lòng của bà. Tám năm- một quãng thời gian không dài nhưng cũng chẳng ngắn đủ cho cháu cảm nhận được tình yêu thương của bà dành cho cháu. Một cuộc sống đầy ắp khó khăn, khổ cực nhưng đầy tình yêu thương từ bà. Bà biết không, đó chính là cuộc sống cháu mong muốn bởi cháu được ở với bà, chơi với bà, tâm sự với bà. Người bà vẫn cứ như vậy, vẫn cứ tần tảo, cứ trở đi trở lại trong văn học Việt Nam. Trong tác phẩm “Đò lèn”, nhà thơ Nguyễn Duy cũng miêu tả hình ảnh người bà lam lũ, vất vả, chịu thương chịu khó:
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
Bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan
Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững đêm hàn.”
Trong suốt quãng thời gian sống với bà, tu hú chính là nhân chứng chứng kiến những kỉ niệm của bà và cháu. Tiếng chim tu hú từ xa xăm vẳng lại có thể nghe thấy được, chứng tỏ âm thanh đó đã bay qua những không gian mênh mông, vắng lặng. Âm thanh ấy không làm cho cảnh vật vui lên mà càng gợi lên cảm giác vắng vẻ, quạnh hiu. Tác giả như tách khỏi dòng hồi tưởng, như đang trò chuyện cùng bà: Bà còn nhớ không bà? Bởi chỉ có hai bà cháu mới hiểu hết ý nghĩa của âm thanh ấy. Tiếng chim tu hú phải da diết, khắc khoải lắm, nên cháu khó quên và bồi hồi xúc động khi nhớ lại. Có lẽ khi tiếng chim tu hú từ xa vọng lại, hai bà cháu mới cảm nhận rõ rệt nhất sự thiếu vắng trong ngôi nhà của mình. Đứa trẻ nào không khao khát tiếng nói của cha, hơi ấm của mẹ? Người bà nào chẳng ước mong tuổi già có con cháu quây quần bên cạnh? Vì hoàn cảnh chiến đấu, bố mẹ công tác xa không về, bà nuôi cháu trong trống vắng, quạnh hiu. Nhà thơ Anh Thơ cũng từng đồng điệu với những cảm xúc ấy:
“Con đi dài thương nhớ
Mười năm chưa về quê
Tu hú ơi tu hú
Kêu chi hoài vườn xanh?”
Nỗi lòng của chim tu hú “kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” đâu có khác gì với nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Tiếng chim ấy khiến lòng người như trỗi dậy bao hoài niệm, nhớ mong da diết, âm vang trong tim người đọc. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình thủ thỉ, chậm rãi đầy nhung nhớ đã đưa ta về với tuổi thơ sống bên bà và đầy ắp tình bà cháu của tác giả.
Khi kháng chiến bùng nổ, bố và mẹ đều không có ở bên, Bằng Việt đã vẽ lên hình ảnh của bà, người bà đáng kính, đáng yêu suốt những năm dài khó nhọc đã chăm sóc, dạy dỗ cháu nên người:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.”
Câu thơ gồm hai vế tiểu đối cân xứng với nhịp thơ êm ái, hài hòa. “bà”, “cháu” được nhắc lại nhiều lần “Cháu ở cùng bà…bà bảo…bà dạy..bà chăm cháu học”, âm điệu quấn quýt như sự gắn bó giữa hai tâm hồn bà - cháu trong tình yêu thương. Cháu lớn khôn trong vòng tay yêu thương, chăm sóc, che chở của bà. Bà là người đã nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu nên người. Bà không chỉ là bà mà như một người bố, người mẹ, người bạn tri âm tri kỉ, là chỗ dựa vững chắc để cháu chia sẻ, tâm sự, để cháu tựa vào mỗi khi mệt mỏi. Một loạt các từ ngữ “bà bảo”, "bà dạy”, “bà chăm” vừa diễn tả một cách sâu sắc tình thương bao la, sự chăm chút của bà dành cho cháu, vừa thể hiện lòng biết ơn của cháu với bà. Bà là chỗ dựa, bao bọc, chở che cho cháu suốt đời. Bà đã thức khuya dậy sớm “nhóm lửa” làm cho tâm hồn thơ bé của cháu sống trong cảnh xa mẹ cha trở nên ấm áp. Ngọn lửa mà bà đã nhóm lên từ “bếp lửa” ấy đã sưởi ấm và soi sáng cuộc đời đi lên phía trước của cháu. Không chỉ vậy, bà còn “Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”. Bà kể những câu chuyện đó để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc.
Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên. Nguyễn Duy khi miêu tả về bà cũng đã viết:
“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư- thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương thầm.”
Bằng Việt cũng như Nguyễn Duy đều tôn trọng, yêu quý người bà tần tảo, luôn hiếu thảo, ngoan ngoãn biết vâng lời bà. Tình yêu thương ấm áp, sâu lắng của bà cứ vấn vương trong tâm trí cháu cho đến tận bây giờ khi đã xa bà. Tình yêu và kính trọng bà của tác giả được thể hiện thật chân thành và sâu sắc: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc, chở che dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ - kỉ niệm gắn bó với tiếng chim tu hú.
Mang nặng công ơn của bà, trong đáy lòng cháu - nhà thơ - hình ảnh của bà hiện lên chẳng bao giờ mờ phai. Tiếng kêu của con chim tu hú với hình ảnh của bà kết hợp hài hòa, được diễn tả dưới hình thức nghệ thuật cảm thán và câu hỏi tu từ đã khắc sâu nỗi nhớ thương da diết, nỗi bồn chồn trong tâm tưởng và kí ức:
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
“Tu hú ơi!Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa.”
Âm điệu của vần thơ nhẹ nhàng, tha thiết, sâu lắng, gợi lên những rung cảm man mác, bâng khuâng. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong. Phải chăng đó là tiếng đồng vọng của trời đất để an ủi, chia sẻ với cuộc đời lam lũ của bà? Hình ảnh chim tu hú có sự tương đồng với cảnh ngộ của cháu: xa người thân côi cút nhưng cháu cũng vẫn may mắn hơn tu hú bởi tu hú mãi đơn côi vì thiêu bà còn cháu có bà để chở che, đùm bọc. Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà/Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” mới thấm thía, xót xa làm sao!. Nó diễn tả nỗi lòng da diết của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà. Những câu thơ giống như lời đối thoại tâm tình của và bà trò chuyện trong tâm tưởng. Tất cả như lời giãi bày, tâm sự của cháu dành cho bà. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến bài thơ như phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích.
Bằng thể thơ tám chữ có giọng điệu phù hợp với cảm xúc và suy ngẫm cùng với những hình ảnh quen thuộc: hình ảnh bếp lửa, tiếng chim tu hú,…vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang khả năng liên tưởng và biện pháp tu từ đạt hiệu quả cao: liệt kê, câu cảm thán, câu hỏi tu từ, cảm xúc bộc lộ trực tiếp, ẩn dụ,... kết hợp biểu cảm, tự sự, tác giả Bằng Việt đã viết lên đoạn thơ thể hiện cảm xúc của cháu về những năm tháng tuổi thơ. Đồng thời, đoạn trích chứa đựng tư tưởng cao đẹp: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
Gấp lại trang sách, ta không thể nào quên được hình ảnh người bà cùng tiếng chim tu hú và mùi khói buổi chiều quê. Đoạn trích của Bằng Việt chẳng khác nào lời ru của mẹ, chuyện kể của bà,..từ những năm tháng tuổi thơ vọng về. Những tình cảm ấy được diễn tả rất chân thực qua từng lời kể của nhà thơ. Và quay trở lại với mình, với tình cảm dành cho bà, tôi cũng sẽ chẳng thể nào quên được những ngày tháng chơi đùa bên bà dưới hiên nhà. Bà ơi! Bà mãi là người cháu yêu quý nhất, cháu sẽ mãi mãi không bao giờ quên bà. Chúng ta được sống trong một gia đình đầy đủ thì hãy tận hưởng và tận hiếu với ông bà, cha mẹ để sau này không hối tiếc, không hối hận vì những gì đã qua các bạn nhé.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 5)
Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông. Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô.
Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà. Lớn lên từ những câu chuyện bà kể, từ những việc bà dạy cháu, từ những bài học của bà, mọi thứ như đang ở ngay trước mắt.
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và của tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả. Tiếng “tu hú” lúc mơ màng, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương. Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:
“Mẹ cùng cha bận công tác không về
...............
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ. Cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người.
Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,… Thi sĩ bỗng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời.
Qua đoạn thơ này ta thấy hiện lên một căn nhà quạnh quẽ giữa đồng, chỉ hẩm hút có một già một trẻ. Đứa trẻ thì “ăn chưa no, lo chưa tới”, còn bà thì ốm yếu hom hem. Bà phải xoay sở nuôi thân mình và nuôi cả cháu. Vậy mà bà còn “bảo cháu làm, chăm cháu học” bên cạnh cái bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa ở đây không ghi dấu đắng cay nữa mà đó là hình ảnh của một căn nhà ấm áp, nương náu để hai bà cháu sinh sống.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 6)
Bằng Việt là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Các tác phẩm của ông thường viết về những tình cảm tốt đẹp như tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước bằng những lời thơ trong trẻo, mượt mà, gợi nhớ, gợi thương. Bếp lửa là bài thơ cảm động viết về tình bà cháu. Tình cảm ấy được gợi lên qua những kỉ niệm tuổi thơ của người cháu khi sống cùng bà, khổ thơ thứ ba, tác giả đã tái hiện lại dòng kí ức đầy đẹp đẽ ấy.
Ở một đất nước xa xôi, tuy rộng lớn mà cô đơn, nỗi nhớ nhà như chực chờ dâng trào trong tâm khảm, kí ức tuổi thơ trở thành nguồn sống nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ:
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Giọng thơ thủ thỉ, kết hợp với lối kể tả vừa ngọt ngào vừa dạt dào xúc cảm, kỉ niệm đã qua lâu rồi mà ngỡ như mới ngày hôm qua. Tám năm cùng bà nhóm lửa, cùng bà chia sẻ những ngọt bùi, đắng cay, san sẻ niềm vui nhỏ bé và cả những khổ cực của hoàn cảnh. Cuộc sống gian khó, cơ cực là thế nhưng cháu vẫn lớn lên từng ngày trong sự yêu thương, cưu mang, đùm bọc của bà, mới đây thôi cháu vừa lên bốn mà nay đã lên tám trở thành một cậu bé con hiểu chuyện và thương bà. Tám năm kháng chiến cũng là tám năm đất nước khó khăn, cuộc sống hai bà cháu cũng vậy. Tuy khó khăn nhưng ấm áp vị yêu thương của tình bà cháu.
Nếu trong hồi ức khi lên bốn, tác giả nhớ về mùi khói với vị cay nồng nơi sống mũi thì năm lên tám là kí ức đẹp đẽ về thanh âm của tiếng chim tu hú "Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà". Đó là những ngày hè đượm nắng, tiếng tu hú vang xa trên cánh đồng quê hương. Tiếng tu hú gọi hè về, gọi cả kí ức của một tuổi thơ ấm áp trong lòng tác giả "Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế". Nỗi nhớ quê hương, nhớ bà, nhớ bếp lửa thổn thức từng lời thơ.
Tác giả thấy lòng mình "tha thiết" khi nghe tiếng chim tu hú dậy bên lòng, lòng càng da diết hơn khi nhớ về người bà yêu thương, tần tảo một đời của mình. Ngược dòng thời gian, tác giả đắm mình trong những kí ức tuổi thơ, nhớ về bếp lửa, về bà, về tiếng chim tú hú. Trong dòng hồi tưởng ấy, tác giả đã nhớ về bà mà thủ thỉ tâm sự như có bà đang bên cạnh: "Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà". Bà còn nhớ năm nào bên bếp lửa, bà kể cho cháu nghe những câu chuyện về Huế, về các anh bộ đội cụ Hồ thật thà, chịu khó mà đầy gan dạ, dũng cảm. Bà có còn nhớ những tháng ngày bà thay cha mẹ chăm sóc, bảo ban cháu, dạy cho cháu từng con chữ, chỉ cho cháu từng việc làm nhỏ hay cách đối nhân xử thế hàng ngày? Lời hỏi thân thương ấy cũng là lời khẳng định tình cảm người cháu dành cho bà, dù thời gian có trôi đi bao lâu nữa thì những hình ảnh, kí ức bên bà vẫn còn in mãi trong trái tim cháu, suốt một đời cháu sẽ mang theo trong hành trang lớn lên và trưởng thành của mình.
"Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc".
Bà là người nuôi dưỡng, bảo ban cháu, bà chính là mẹ, là cha cũng là người thầy bên cháu trong những buổi học đầu tiên. Càng nghĩ về bà, tác giả càng không cầm lòng đọc, tiếng "thương bà" cất lên trong nỗi nhớ, bên hình ảnh bếp lửa gần gũi mà thân thương. Thương bà một đời khó nhọc, nuôi con, chăm cháu, bên mái nhà tranh xiêu vẹo, bà trở thành điểm tựa vững chắc để cháu được bình an, lớn lên và trưởng thành hơn mỗi ngày.
"Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?"
Thương bà cô đơn, hiu quạnh tác giả buông lời trách nhẹ nhàng chim tu hú, sao cứ bay mãi trên cánh đồng xa, chẳng đến cùng cho bà đỡ buồn thương, hiu quạnh. Phải chăng, trong lời trách móc ấy, tác giả còn tự trách chính bản thân mình lúc này đây chẳng thể về bên bà, cùng bà hỏi han, tâm sự. Vì cuộc sống, vì lí tưởng cháu đành xa bà, khoảng cách xa đằng đẵng, nỗi nhớ bà lại ngày một dài thêm.
Khổ thơ khép lại bằng một câu hỏi tu từ. Trong tâm trí của người cháu xa quê ấy có lẽ đang tìm về những kí ức yêu thương cho thỏa nỗi nhớ nhung bà. Giọng thơ chầm chậm, da diết, bộc lộ nỗi khắc khoải của niềm nhớ, niềm thương. Tự nhiên như thế, đoạn thơ đã gieo vào lòng người đọc bao nỗi niềm khó tả, bao nỗi nhớ của một khung trời tươi đẹp về một kí ức tuổi thơ có bà.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 7)
Mỗi người sinh ra ai cũng có cho mình những kỷ niệm về một thời tuổi thơ. Vui có buồn có, sướng vui có thì khó nhọc cũng có. Nhà thơ Bằng Việt cũng vậy, với riêng ông, cả một thời tuổi thơ là những gì cả cuộc đời sau đó ông đã không thể nào quên, những kỷ niệm bên người bà dấu yêu, và đó là lý do mà bài thơ Bếp lửa ra đời. ”Bếp lửa” không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người... "Bếp lửa” hay cùng chính là bà đang bên cháu, hình ảnh bà đang hiện về lung linh qua ánh lửa.
Ở một đất nước xa xôi, cô quạnh, bao nhiêu ký ức về người bà một đời khắc khổ nuôi ông lớn khôn hiện hữu về như mới ngày hôm qua:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
........
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Giọng thơ thủ thỉ như kể một câu chuyện cổ tích. Đó là những năm tháng của cuộc sống gian khổ, cơ cực mà đứa cháu lớn lên trong sự che chở, đùm bọc, cưu mang của người bà. Tám năm. Tám năm kháng chiến. Tám năm khó khăn. Tám năm trời dài đằng đẵng với bao kỷ niệm buồn vui bên bà, bên bếp lửa.
Nếu trong hồi ức lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất là mùi khói thì ở đây, ấn tượng ấy là tiếng chim tu hú. Tiếng chim tu hú vang lên vừa gợi lại trong tâm hồn tác giả bao kỉ niệm khó quên, vừa dấy lên nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ bà, nhớ bếp lửa.
Tiếng chim tu hú gợi về những buổi mai, hai bà cháu cùng nhau nhóm lửa giữa không gian mênh mông, cô quạnh. Tiếng chim lúc mơ hồ, vang vọng từ “những cánh đồng xa”, lúc lại gần gũi, xót xa, nghe “sao mà tha thiết thế”. Tiếng chim tu hú như giục giã, khắc khoải điều gì da diết lắm khiến cho lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong. Tiếng chim tu hú chính là hình ảnh của quê hương, nơi đó có người bà dù khó nhọc nhưng giàu tình yêu thương con cháu.
Nhà thơ đang kể chợt quay sang trò chuyện với bà, tưởng như bà đang ngồi đối diện “bà còn nhớ không bà”. Bà có nhớ những câu chuyện bà vẫn thường kể, những câu chuyện cổ tích hằng đêm, dưới ánh trăng sáng, cháu ngồi trong lòng bà, đu đưa trên chiếc võng, vừa nghe bà kể vừa mân mê những sợi tóc bạc của bà hay những câu chuyện về các anh bộ đội cụ Hồ dũng cảm, xả thân vì nước, vì dân? Bà có nhớ những việc làm tận tụy đầy yêu thương của bà dành cho cháu, nhất là trong những buổi chiều hai bà cháu ngồi nhóm bếp? Làm sao cháu có thể quên được hồi ấy:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
Tình thương của bà là sự bảo ban, chăm sóc không khác gì công ơn sinh thành và nuôi dưỡng. Đối với tác giả, bà chính là mẹ, là cha, là người thầy dạy dỗ cháu nên người. Bà là người chăm chút cho cháu từ cái ăn, cái mặc đến việc học hành. Bà dạy cháu những bài học quý giá về đạo làm người, dạy cho cháu niềm tự hào về dân tộc ta, một dân tộc bất khuất, kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục để bảo vệ quê hương Việt Nam. Đối với cháu, bà và tình yêu thương sâu lắng của bà dành cho cháu sẽ luôn là một chỗ dựa tinh thần vững chắc, là điểm tựa của tâm hồn cháu mỗi khi cháu gặp thất bại, khó khăn.
Đến tận bây giờ, dù đang du học nơi xứ người, đang đứng dưới trời tiết giá lạnh, cháu vẫn cảm nhận được cái ấm áp của tình yêu thương, của sự vỗ về, chăm sóc của bà. Càng nghĩ về bà, cháu lại càng thương bà hơn. Thương bà ở một mình dưới túp lều tranh xiêu vẹo, thương bà mỗi ngày một mình nhóm lửa, lòng luôn cầu mong đứa cháu được bình an. Từ tình yêu thương sâu sắc của mình dành cho bà, tác giả quay sang khẽ trách con chim tu hú:
“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Tác giả đang trách chim tu hú mãi bay xa ngoài các cánh đồng, không đến ở cùng với bà đỡ cô quạnh, đỡ buồn tủi hay tác giả đang trách sự vô tâm, bất lực của chính bản thân mình? Câu thơ như một lời than thở thật tự nhiên, cảm động vô cùng chân thật, thể hiện nỗi nhớ thương da diết người bà của đứa cháu. Thời gian cứ trôi qua, bà vẫn xa đằng đẵng…
Tiếng chim tu hú khép lại khổ thơ mà cứ như xoáy sâu vào tâm trí kẻ xa quê đang dáo dác kiếm tìm những kỉ niệm yêu thương… Âm điệu trong khổ thơ thật da diết, trầm buồn, phù hợp với tâm trạng của thi sĩ: nỗi nhớ quê, nhớ bà da diết, sâu đậm, day dứt…
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 8)
Những kỉ niệm hồi lên tám tuổi của cậu bé, là những năm tháng cậu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà. ''Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa''. Câu thơ gợi khoảng thời gian tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, bao bọc của bà. Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vất vả, khó khăn nhưng đầy tình yêu thương. Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự cưu mang đùm bọc đầy chi chút của bà. Đó còn là những năm tháng hồn nhiên, trong sáng và vô tư qua hình ảnh tâm tình với chim tu hú:
''Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
.....
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!''
Tiếng tu hú - âm thanh quen thuộc của đồng quê mỗi độ hè về, để báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cành. Tiếng chim tu hú phải chăng còn là lời đồng vọng của đất trời với cảnh sống côi cút, khó nhọc của hai bà cháu. Tiếng chim tu hú như giục giã, như khắc khoải điều gì da diết lắm, khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong. Tiếng tu hú gợi nhớ, gợi thương: Về tám năm kháng chiến chống Pháp ''mẹ cùng cha công tác bận không về'' bà vừa là cha, vừa là mẹ. Về những năm tháng tuổi thơ, về một thời cháu cùng bà nhóm lửa, được sống trong tình yêu thương, đùm bọc, cưu mang trọn vẹn của bà:
'' Cháu ở cùng bà, bà kể cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học ''
Các động từ: ''bà bảo'', ''bà dạy'', ''bà chăm'' đã diễn tả sâu sắc tấm lòng bao la, sự chăm chút, nâng niu của bà đối với đứa cháu nhỏ. Các từ ''bà'' - ''cháu'' được điệp lại bốn lần, đan xen vào nhau như gợi tả tình bà cháu quấn quýt yêu thương. Điều đó cho thấy bà vừa là bà, vừa là sự kết hợp cao quý của tình cha, nghĩa mẹ, ơn thầy.
Tình yêu, sự kính trọng bà của người cháu được thể hiện thật chân thành, sâu sắc qua câu thơ:
''Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc"
Cậu bé lớn lên từ bếp lửa của bà đến khi cậu biết nhóm bếp lửa cũng là lúc cậu trưởng thành, thấu hiểu những khó nhọc của cuộc đời bà. Hình ảnh con chim tu hú xuất hiện tiếp tục ở cuối khổ thơ với câu hỏi tu từ là 1 sáng tạo độc đáo của Bằng Việt nhằm diễn tả nỗi lòng da diết của mình khi nhớ về tuổi thơ, về bà:
''Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?"
Câu thơ gợi hình ảnh chú chim đang lạc lõng, bơ vơ, côi cút khao khát được ấp ủ, che chở. Hình ảnh nhân hóa với giọng điệu tâm tình, tác giả nói chuyện với chim tu hú như để vơi bớt nỗi lòng. Anh hỏi chim tu hú thực ra là hỏi lòng mình, anh lo bà sẽ buồn, cô đơn khi anh đi học xa. Hỏi chim tu hú thực cũng có nghĩa là anh nhớ hơi ấm tình bà. Tu hú ở với bà anh nhé, bà anh có 1 tấm lòng nhân hậu lắm! Đứa cháu được sống trong tình yêu thương, đùm bọc của bà đã chạnh lòng thương con tu hú. Và thương con tu hú bao nhiêu, tác giả lại biết ơn những ngày tháng được bà yêu thương, chăm chút bấy nhiêu. Khổ thơ là những hồi tưởng về quá khứ, đồng thời người cháu luôn thể hiện nỗi nhớ thương vô hạn và lòng biết ơn bà sâu nặng.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 9)
Khổ thơ gợi kỉ niệm về những năm tháng tuổi thơ đầy gian khổ nhưng ấm áp tình bà. Đó là tám năm kháng chiến chống Pháp, bố mẹ tham gia kháng chiến xa nhà, cháu sống trong sự cưu mang, đùm bọc của bà, sớm phải có ý thức tự lập, sớm phải lo toan:
"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa"
Tám năm là khoảng thời gian dài trong thời thơ ấu của cháu. Từ "ròng" gợi thời gian kéo dài ròng rã, nặng nề khi cuộc sống gia đình chỉ có hai bà cháu. Nhưng những năm tháng đó cũng là những năm tháng ấm áp tình bà, cháu được sống trong sự cưu mang, đùm bọc đầy chi chút của bà:
"Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học."
Sử dụng các từ "bà bảo, bà dạy, bà chăm" diễn tả sâu sắc tình yêu thương bao la của bà dành cho cháu. Bà hay kể chuyện cho cháu nghe để nuôi dưỡng tâm hồn cháu:
"Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế."
Hình ảnh người bà hiện lên thật đẹp đẽ: Tần tảo, chịu thương chịu khó, đầy tình yêu thương, là chỗ dựa vững chắc về tinh thần cho cháu, cho con. Bà đã thay con nuôi cháu, dạy dỗ cho cháu nên người. Bà là sự kết hợp cao quí giữa tình cha, nghĩa mẹ, công thầy. Kỉ niệm với những năm tháng tuổi thơ gắn với âm thanh của tiếng chim tu hú:
"Tu hú kêu trên những cánh đồng xa"
Đó là âm thanh quen thuộc của cánh đồng quê mỗi khi độ hè về. Tiếng tu hú khi thảng thốt, khắc khoải, khi lại rộn về tha thiết:
"Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!"
Tất cả gợi lên không gian mênh mông, buồn vắng, nỗi cô đơn của hai bà cháu. Cháu thương bà, chia sẻ với nỗi vất vả khó nhọc của bà, được thể hiện giản dị, chân thành qua suy nghĩ:
"Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc"
Với mơ ước hồn nhiên:
"Tu hú ơ i! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?"
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 10)
Mỗi người đều có những kỉ niệm tuổi thơ tuyệt đẹp bên gia đình bạn bè. Những kỉ niệm ấy sẽ phai mờ dần đi theo năm tháng nhưng cũng sẽ sống dậy mỗi khi có gì đó tác động, gợi nhắc đến. Bài thơ "Bếp lửa" cũng nói về điều những kỉ niệm thời thơ ấu bên bà và bếp lửa. Khi tác giả Bằng Việt đang đi du học bên trời Tây, ông bỗng nhớ nhà, nhớ mùi khói bếp lửa, nhớ bà. Khổ thơ thứ ba của bài thơ này đã cho ta thấy được những năm tháng nhà thơ ở cùng với bà.
"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về"
Tác giả đã mở ra kỉ niệm tám năm ròng bên bà bằng tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng. Trong những năm đó, bố mẹ nhà thơ bận việc công tác nên ông được ở với bà tại Hà Tây. Trong những ngày hè nóng oi ả, tác giả đã được bà kể chuyện cho nghe. Đó là những câu chuyện về hồi còn ở Huế, nơi ông được sinh ra. Tiếng tu hú được nhắc đi nhắc lại như một âm thanh từ quá khứ vọng lại. Âm thanh "tha thiết" ấy cứ liên tục vang vọng bên tai tác giả khiến nỗi nhớ bà, nhớ nhà, nhớ quê hương trong ông cũng dâng trào. Thời gian cứ thế chảy trôi, tám năm qua đi nhanh như một cái chớp mắt. Những ngày tháng bên bà giờ đây chỉ còn trong kí ức của nhà thơ:
"Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học."
Bà không chỉ kể chuyện cho cháu nghe mà còn làm thay nhiệm vụ của một người cha, người mẹ. Đó chính là chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu nên người. Những động từ như "bảo", "dạy", "chăm" diễn tả những hành động cực kì ân cần, đong đầy tình thương của bà dành cho cháu. Điệp từ "bà…cháu" cũng cho ta thấy được sự gắn bó thân thiết giữa hai người. Trong suy nghĩ và tâm hồn của đứa cháu non nớt, bà là cả thế giới, thế giới của cháu chỉ xoay quanh bà và bếp lửa. Suốt tám năm dài đằng đẵng, tác giả có bà đồng hành mọi lúc. Thế nên, ông rất biết ơn người bà tần tảo của mình:
"Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,"
Nhà thơ biết rất rõ sự "khó nhọc" của bà trong những năm tháng nuôi nấng mình. Thế nên, ông đã bộc lộ tình cảm trực tiếp qua từ "thương". Thương là trạng thái còn cao hơn cả chữ yêu, là cảm xúc lo lắng, nhớ nhung, quan tâm đến một người nào đó. Bằng Việt là người cháu ở phương xa không thể trở về phụng dưỡng bà được nên ông càng thương, càng lo cho bà hơn. Tiếng tu hú kêu càng khiến cho lòng dạ tác giả càng thêm cồn cào, nhớ bà da diết hơn. Ông không thể làm gì nên đành bật thốt ra câu hỏi tu từ:
"Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?".
Lo lắng cho người bà một mình cô đơn ở nhà, nhà thơ chẳng thể làm gì ngoài buông lời nhắn nhủ với tu hú. Đó cũng chính là tâm sự của tác giả, tuy đi học ở xứ người nhưng ông luôn muốn có người ở bên chăm sóc, bầu bạn với bà. Nhịp thơ chậm rãi, nhẹ nhàng cũng khiến cho người đọc cảm nhận được giọng điệu thủ thỉ, tâm tình đầy thiết tha, đằm thắm.
Tình yêu thương và biết ơn bà tha thiết không chỉ được tác giả thể hiện trong "Bếp lửa" mà còn ở cả những bài thơ khác. Khi bà mất, Bằng Việt đã viết "Đôi dòng đưa tiễn bà nội":
"Mười năm
Cháu dần lớn, nên người.
Rất nhiều điều phải đi đến tận cùng,
Chỉ có lòng bà thương
Đi bao giờ hết được"
Qua khổ thơ thứ ba của bài "Bếp lửa", ta đã thấy được cuộc sống thời thơ ấu của tác giả có bà ở bên và tình cảm của nhà thơ dành cho bà. Đó là tình yêu thương, sự biết ơn, lo lắng của đứa cháu ở phương xa dành cho người bà ở quê nhà. Từ đó ta thấy được nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của người con xa xứ.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 11)
Bếp lửa thân thương bên bà là kỷ niệm khó quên của Bằng Việt. Hai bà cháu gắn bó với nhau qua tình yêu sâu sắc. Điều đó được thể hiện trong bài thơ “Bếp lửa” của ông. Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ông viết bài thơ này năm 1963 khi 19 tuổi và đang học ở Liên Xô. Bài thơ tưởng nhớ người bà và tình bà cháu, cũng như biểu lộ lòng kính trọng, biết ơn và yêu mến của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Bếp lửa là hình ảnh gợi nhớ về bà. Khi ở xứ người, nhìn thấy bếp lửa, tác giả nhớ lại những câu chuyện bà kể, những việc bà dạy cháu, những bài học của bà, như thể bà vẫn còn sống.
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
“Cháu và bà cùng nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa của cuộc sống và của tình yêu bà mãnh liệt của một cậu bé trong sáng, ngây thơ như một tờ giấy trắng. Bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu ấy đã khiến tác giả liên tưởng đến một điều khác, một kỷ niệm khác trong tâm hồn thi sĩ khi còn bé. Đó là tiếng chim tu hú gọi. Tiếng tu hú gọi như thúc đẩy lúa nhanh chín, người nông dân nhanh thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, giờ bà kể chuyện cho cháu nghe đi!”. Từ “tu hú” được lặp lại ba lần làm cho giai điệu câu thơ thêm xót xa, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang vang vọng từ xa trong trí nhớ của tác giả. Tiếng chim tu hú buồn bã làm cho dòng hồi ức của đứa cháu dài thêm, rộng thêm trong cái không gian sâu thẳm của nỗi nhớ mong. Nếu như trong những năm đói rét của nạn đói 1945, bà là người quan trọng nhất với tác giả, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm dài của cuộc kháng chiến chống Mỹ, tình cảm bà cháu ấy lại càng mạnh mẽ:
“Mẹ cùng cha bận công tác không về
...............
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”
Trong tám năm đó, đất nước đang chiến tranh, hai bà cháu phải rời quê đi lánh nạn, bố mẹ phải đi làm việc, cháu vì vậy phải ở cùng bà trong khoảng thời gian đó, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm vui không tận. Cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp lập lòe, mơ hồ ảo diệu ấy, người bà như một bà tiên xuất hiện trong câu truyện thần tiên của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để đưa ước mơ của con vào một bầu trời mới, mẹ sẽ là cành hoa rực rỡ nhất để con cài lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng linh thiêng và quý báu đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người.
Cháu sẽ mang theo những điều đã học trong suốt cuộc sống của mình. Bà là người đã cho cháu tình yêu và sự an toàn về mọi mặt khi cháu còn bé xíu. Bởi vậy, khi xa bà, thi sĩ càng nhớ bà nhiều hơn và lo lắng cho cuộc sống của bà: Bây giờ không có cháu, bà sẽ sống với ai? Ai sẽ giúp bà làm lửa? Ai sẽ kể cho bà nghe những câu chuyện về Huế xưa? Thi sĩ tự hỏi: “Tu hú ơi, sao không ở lại với bà?”. Đó là tiếng lòng của đứa cháu xa quê nhớ mong người bà yêu quý. Trong khổ thơ này, hai từ “bà”, “cháu” được lặp đi lặp lại nhiều lần để tạo ra hình ảnh hai bà cháu gắn kết và không rời nhau. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,… Qua đoạn thơ này ta thấy hiện lên một căn nhà quạnh quẽ giữa đồng, chỉ hẩm hút có một già một trẻ. Đứa trẻ thì “ăn chưa no, lo chưa tới”, còn bà thì ốm yếu hom hem. Bà phải xoay xở nuôi thân mình và nuôi cả cháu. Vậy mà bà còn “bảo cháu làm, chăm cháu học” bên cạnh cái bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa ở đây không ghi dấu đắng cay nữa mà đó là hình ảnh của một căn nhà ấm áp, nương náu để hai bà cháu sinh sống. Bà là người nuôi dưỡng, bảo ban cháu, bà chính là mẹ, là cha cũng là người thầy bên cháu trong những buổi học đầu tiên. Càng nghĩ về bà, tác giả càng không cầm lòng đọc, tiếng "thương bà" cất lên trong nỗi nhớ, bên hình ảnh bếp lửa gần gũi mà thân thương. Thương bà một đời khó nhọc, nuôi con, chăm cháu, bên mái nhà tranh xiêu vẹo, bà trở thành điểm tựa vững chắc để cháu được bình an, lớn lên và trưởng thành hơn mỗi ngày.
"Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?"
Thương bà cô đơn, hiu quạnh tác giả buông lời trách nhẹ nhàng chim tu hú, sao cứ bay mãi trên cánh đồng xa, chẳng đến cùng cho bà đỡ buồn thương, hiu quạnh. Phải chăng, trong lời trách móc ấy, tác giả còn tự trách chính bản thân mình lúc này đây chẳng thể về bên bà, cùng bà hỏi han, tâm sự. Vì cuộc sống, vì lý tưởng cháu đành xa bà, khoảng cách xa đằng đẵng, nỗi nhớ bà lại ngày một dài thêm. Lo lắng cho người bà một mình cô đơn ở nhà, nhà thơ chẳng thể làm gì ngoài buông lời nhắn nhủ với tu hú. Đó cũng chính là tâm sự của tác giả, tuy đi học ở xứ người nhưng ông luôn muốn có người ở bên chăm sóc, bầu bạn với bà. Nhịp thơ chậm rãi, nhẹ nhàng cũng khiến cho người đọc cảm nhận được giọng điệu thủ thỉ, tâm tình đầy thiết tha, đằm thắm.
Bếp lửa là hình ảnh của sự ấm áp trong gia đình, tiếng chim tu hú là âm thanh của quê hương. Bằng Việt đã chọn hai hình ảnh này để thể hiện tình yêu và lòng biết ơn bà, người đã nuôi dưỡng anh ấy trong tình yêu quê hương. Bếp lửa và tiếng chim là biểu hiện cho sự đẹp đẽ và giàu có của một quê hương yêu thương, nơi anh ấy có những kỷ niệm tuổi thơ ngọt ngào. Ai trong chúng ta cũng có những điều này trong trái tim mình: những âm thanh và cảnh sắc của quê hương, những kỷ niệm xúc động, mái tóc bạc và ánh mắt dịu dàng của ông bà, người đã sinh ra cha mẹ chúng ta. Bài thơ của Bằng Việt chẳng khác nào lời ru của mẹ, chuyện kể của bà từ những năm tháng tuổi thơ vọng về và những tình cảm đẹp ấy được diễn tả rất thơ.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 12)
Trong những năm tháng chiến tranh, bên cạnh những bài văn, bài thơ cổ vũ tinh thần chiến đấu của dân tộc còn có những lời thơ da diết viết về tình thân, về quê hương mình. Một trong số đó phải kể đến bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, tác phẩm đã gợi lại cho người thưởng thức những cảm xúc dạt dào về gia đình, về những kí ức thân thương bên bà.
Trong toàn bộ bài thơ, khổ thơ thứ 3 đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc bởi những kỷ niệm sống bên bà trong thời thơ ấu cứ trào ra trong từng vần thơ:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
“Tám năm ròng” là thời gian dài đằng đẵng, thời gian tuổi thơ của cháu nhọc nhằn bên cạnh bà. Bà và cháu cùng nhóm lửa, nhóm lên sự sống và nhóm lên tình yêu thương vô bờ bến. Tiếng “tu hú” trở đi trở lại trong đoạn thơ rất nhiều khiến cho nhịp thơ da diết, bồn chồn. Tu hú gọi hè, tu hú gọi lúa chín, gọi cả những giấc mơ của cháu về tương lai đất nước hòa bình độc lập.
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Một khổ thơ cảm động. Một khổ thơ cảm xúc được bật ra sau bao nhiêu năm kìm nén ở trong. Năm tháng sống bên cạnh bà tuy khó nhọc nhưng tràn đầy ân tình. Cậu bé nhỏ thương bà khó nhọc bên bếp lửa, thương cho bà một mình nuôi cháu. Và tiếng kêu của tu hú lại khiến cho tâm sự của người cháu trở nên nặng nề hơn.
Tình bà cháu trong đoạn thơ này thực sự khiến người đọc chùng lại, rưng rưng nước mắt. Đất nước chìm trong bom đạn nhưng bà vẫn luôn chở che, chăm lo cho cháu từ bữa ăn đến giấc ngủ. Còn tình cảm nào thiêng liêng và cao cả hơn nữa.
Khổ thứ 3 trong bài thơ “Bếp lửa” với câu từ giản dị, cách viết nhẹ nhàng nhưng dường như khiến người đọc thấy cay cay ở khóe mắt. Một tiếng thơ tràn đầy tình yêu, tràn đầy hạnh phúc giữa đắng cay cuộc đời.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 13)
Quê hương, gia đình, làng xóm là những kỉ niệm đẹp đẽ, bình dị và thân thuộc với những ai xa quê. Đối với nhà thơ Tế Hanh, quê hương là làng chài ven biển “nước bao vây cách biển nửa ngày sông”; với nhà thơ Đỗ Trung Quân thì “Quê hương là chùm khế ngọt”, “là con diều biếc”… Nhưng riêng với Bằng Việt, quê hương của ông gợi về bằng một hình ảnh rất quen thuộc, bình dị, mộc mạc – Bếp lửa. Ra đời năm 1963, bài thơ “Bếp lửa” còn là những dòng cảm xúc nói lên lòng kính yêu với bà và niềm nhớ mong về bà của tác giả.
Khổ thơ thứ 3 như một thước phim quay chậm, những kỉ niệm gắn liền với hình ảnh người bà ùa về:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Tu hú kêu bà con nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
“Tám năm ròng cháu sống cùng bà” – tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, dưỡng nuôi tâm hồn từ tấm lòng của bà. Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vất vả, khó khăn nhưng đầy tình yêu thương. Kháng chiến bùng nổ, “Mẹ cùng cha công tác bận không về”, bà vừa là cha, lại vừa là mẹ: “bà bảo cháu nghe – Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. Chính bà là người đã nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu nên người.
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc. Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên. Một loạt các từ ngữ “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” vừa diễn tả một cách sâu sắc tình thương bao la, sự chăm chút hết mình của người bà dành cho cháu, vừa thể hiện được lòng biết ơn của cháu đối với bà.
Tình yêu và kính trọng bà của tác giả được thể hiện thật chân thành, sâu sắc: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về:
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Đoạn thơ khiến ta chạnh nhớ về “tiếng chim tu hú” của nữ sĩ Anh Thơ: tiếng chim tu hú gắn liền với hình ảnh cha già với những kỉ niệm về một thời thiếu nữ hoa niên, tiếng chim tu hú len lỏi khắp bài thơ như một âm thanh u ẩn, không buồn mà tiếc. Còn ở đây, tiếng chim tu hú bước vào thơ Bằng Việt như một chi tiết để gợi nhắc nhà thơ về những kỉ niệm ấu thơ được sống bên bà. Tiếng chim tu hú – âm thanh quen thuộc của làng quê Việt Nam mỗi độ hè về, báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cây.
Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong. Phải chăng đó chính là tiếng đồng vọng của đất trời để an ủi, sẻ chia với cuộc đời lam lũ của bà? Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà – Kêu chi hòa trên những cánh đồng xa” mới thấm thía làm sao, xót xa làm sao! Nó diễn tả nỗi lòng da diết của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà.
Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự bộc bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong chuyện cổ tích.
Với khổ thơ thứ 3 bài “Bếp lửa”, Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng “bếp lửa”, thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Ta chợt nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thương.
Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì luôn có một “bếp lửa” soi sáng trong tim…
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 14)
Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thơ của ông toát lên vẻ đẹp đằm thắm, mượt mà khi viết về những kỉ niệm với gia đình, với lứa tuổi học trò hồn nhiên, mơ mộng. Nổi bật nhất trong các sáng tác của ông là bài thơ Bếp lửa, được sáng tác năm 1963 khi tác giả đang học tập tại Liên Xô.
Nhớ bà và nhớ những kỉ niệm về bà, Bằng Việt đã viết bài thơ này, nó được trích trong tập Hương cây – Bếp lửa cùng với Lưu Quang Vũ. Đọc bài thơ, ta có thể cảm nhận được tình cảm thắm thiết của người cháu dành cho bà cũng như nỗi nhớ bà khôn nguôi của tác giả.
Những kỉ niệm về bà được tác giả kể lại lần lượt ở khổ thơ thứ 3:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?
Bà thường kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Tám năm là một khoảng thời gian tương đối dài, đủ để hình thành nên tuổi thơ của mỗi con người. Trong tám năm ở cùng với bà đó, nhà thơ đã trải qua biết bao nhiêu kỉ niệm cùng với bà. Hình ảnh tiếng tu hú kêu như giục giã những cây lúa ngoài đồng mau chín, để bà con người nông dân không phải chịu đựng cái đói thêm một ngày nào nữa.
Và khi tu hú kêu cũng là lúc người cháu được nghe bà kể chuyện của bà ngày trước, là những thứ tạo nên kí ức ngày hôm nay của tác giả. Từ “tu hú” được lặp lại đến ba lần với tiếng kêu tha thiết, như đang vang vọng đâu đây trong kí ức của tác giả. Kí ức ấy không hề đầy đủ cả mẹ và cha:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”
Dù nhà thơ phải chịu sự thiếu thốn tình cảm của cha mẹ nhưng bù lại vẫn nhận được sự yêu thương vô bờ của bà. Bà đã thay cha mẹ dạy dỗ cháu nên người, bà dạy cho cháu làm những công việc nhà, bà bảo ban cháu cố gắng học tập. Tất cả đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương, sự chở che, đùm bọc của bà dành cho cháu. Đến đây, nhà thơ lại bộc lộ cảm xúc thương xót cho sự vất vả, khó nhọc của bà:
“Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Bếp lửa của cuộc đời bà khơi dậy trong tâm hồn người cháu một tình yêu thương bà tha thiết, một sự biết ơn đối với bà. Bếp lửa còn gắn liền với tiếng tu hú. Hình ảnh “tu hú” lại được lặp lại cho thấy nó đã đi sâu vào tiềm thức của nhà thơ, khi nhớ về bà và bếp lửa của bà thì nhà thơ cũng nhớ tới âm thanh của con tu hú. Tiếng tu hú kêu da diết, khắc khoải như khiến cho tác giả nhớ về những kỉ niệm ngày xưa.
Khổ thơ thứ 3 trong bài Bếp lửa là nỗi nhớ của tác giả về bà và những kỉ niệm cùng bà trong những năm tháng tuổi thơ, nó cũng là lời tự nhắc nhở của tác giả đối với chính mình, rằng không bao giờ được lãng quên đi quá khứ. Nhà thơ Bằng Việt đã rất khéo léo khi lồng ghép hình ảnh bếp lửa với hình ảnh người bà, làm cho người đọc bị cuốn vào dòng kí ức của tác giả tự lúc nào không hay, để rồi nhận ra bao ý nghĩa, bao điều tốt đẹp từ bài thơ.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 15)
Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bản tình ca thấm đẫm hơi ấm gia đình, là lời tri ân sâu sắc dành cho người bà tảo tần. Trong mạch cảm xúc ấy, khổ thơ thứ ba hiện lên như một đoạn hồi ức đầy xúc động, khi nhà thơ nhớ lại quãng thời gian tám năm tuổi thơ sống bên bà trong tình cảnh đất nước còn đầy gian khổ. Đó là khoảng thời gian tuy khó khăn nhưng chan chứa tình thương và là dấu ấn sâu đậm nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ.
“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”
Hai câu thơ mở đầu khổ thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố tự sự và trữ tình. Con số “tám năm ròng” không chỉ đơn thuần là mốc thời gian mà còn là biểu tượng cho sự bền bỉ, lâu dài của một quãng đời thơ ấu gắn bó với bà. Hành động “cùng bà nhóm lửa” được lặp lại, trở thành hình ảnh xuyên suốt bài thơ, mang nhiều lớp nghĩa. Đó không chỉ là hành động sinh hoạt thường ngày mà còn là sự truyền lửa yêu thương, truyền hơi ấm, lòng kiên nhẫn, nghị lực vượt qua mọi gian nan từ bà sang cháu. Trong cái nền khắc nghiệt của chiến tranh, những năm tháng cha mẹ đi công tác vắng nhà, bà là điểm tựa vững chắc cho tuổi thơ của cháu.
Âm thanh “tu hú kêu trên những cánh đồng xa” như một thanh âm của mùa hè, của đồng quê nhưng cũng chất chứa nỗi buồn, sự cô đơn và nỗi nhớ. Tiếng chim tu hú trong bài thơ không chỉ là âm thanh thực mà còn là một âm thanh của ký ức, khiến người cháu như sống lại trong không gian của những ngày tháng cũ. Âm thanh ấy gợi nên nỗi trống trải trong lòng, khiến nhà thơ nhớ đến mẹ cha – những người đã hy sinh đời sống riêng để đi theo cách mạng.
“Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.”
Câu hỏi mang đậm tính tu từ “bà còn nhớ không bà?” là một lời thủ thỉ, chất chứa tình cảm sâu đậm của cháu dành cho bà. Đó là cách nhà thơ đối thoại trong hoài niệm, như thể bà vẫn còn bên cạnh để cùng ôn lại những tháng năm cũ. Ký ức ùa về rõ nét qua những câu chuyện bà kể về “những ngày ở Huế”. Huế ở đây không chỉ là địa danh mà còn là một phần quá khứ của bà – nơi lưu giữ những hồi ức của một đời tảo tần, chịu thương chịu khó. Qua những lời kể đó, người cháu dần hiểu hơn về bà, về quê hương và đất nước, để rồi từ đó hình thành nên lòng biết ơn, sự trân quý và tình yêu sâu đậm với cội nguồn.
“Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Câu cảm thán vang lên đầy xúc động, tiếng tu hú như được nhân hóa, như mang theo tâm sự của con người. Âm thanh ấy, từng quen thuộc trong tuổi thơ, giờ đây vọng về trong tâm tưởng, khiến nhà thơ không khỏi bồi hồi. Trong nỗi nhớ, tiếng tu hú không chỉ là biểu tượng của thiên nhiên mà còn là âm thanh đại diện cho tình cảm bà cháu sâu nặng, cho những tháng ngày cũ với bao xúc cảm đong đầy.
“Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,”
Ba câu thơ tiếp nối mạch tự sự và trữ tình một cách nhẹ nhàng mà thấm thía. Trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt, cha mẹ bận đi công tác xa, người cháu phải sống với bà. Dù thiếu vắng cha mẹ nhưng nhờ có bà bên cạnh, tuổi thơ của cháu vẫn được vun vén đầy đủ. Những động từ “bảo”, “dạy”, “chăm” cho thấy sự tận tụy, chu đáo và tình yêu vô bờ bến của người bà dành cho cháu. Qua đó, bà không chỉ là người thân yêu mà còn là người thầy, người dìu dắt cháu nên người.
“Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Khổ thơ khép lại trong sự dồn nén cảm xúc. Trong hành động “nhóm bếp lửa” tưởng chừng đơn giản, người cháu lại “nghĩ thương bà khó nhọc”. Hơi ấm của bếp lửa không chỉ là nhiệt độ mà còn là sức nặng của tình yêu thương, sự hi sinh thầm lặng của người bà. Câu thơ tiếp theo đầy cảm xúc: “Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,” – lời trách yêu của nhà thơ gửi tới tiếng chim tu hú như một cách thể hiện tình thương đối với bà. Chim tu hú chỉ biết kêu, mà chẳng đến chia sẻ, cùng bà sớm hôm khó nhọc, để lại bà đơn độc với cuộc sống vất vả. Câu thơ cuối mang âm hưởng da diết như một tiếng thở dài, thể hiện nỗi xót xa và tiếc nuối của cháu dành cho người bà tảo tần.
Khổ thơ thứ ba của bài thơ “Bếp lửa” là một bức tranh đầy xúc động về tình bà cháu trong những năm tháng gian khó. Không chỉ tái hiện một cách chân thực những ký ức tuổi thơ, Bằng Việt còn gửi gắm vào đó tình yêu thương vô hạn dành cho bà – người đã giữ ngọn lửa yêu thương cháy mãi trong tâm hồn cháu. Đó cũng chính là ngọn lửa hun đúc nên lòng biết ơn, nhân cách và tình cảm cao đẹp của một con người.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 16)
Bằng Việt là một trong những nhà thơ tiêu biểu thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Trong số những sáng tác của ông, “Bếp lửa” là bài thơ mang dấu ấn đặc biệt, không chỉ bởi những hình ảnh thân quen, gần gũi mà còn bởi dòng chảy cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng xuyên suốt bài thơ. Trong đó, khổ thơ thứ ba là một điểm nhấn đặc biệt khi gợi lại quãng thời gian gắn bó sâu sắc giữa người cháu và người bà, đồng thời khắc họa rõ nét hoàn cảnh sống, âm thanh tuổi thơ, tình cảm và sự trưởng thành trong suy nghĩ.
Câu thơ mở đầu khổ thơ mang đến một hình ảnh giản dị nhưng giàu chất thơ:
“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa”
Tám năm là khoảng thời gian không ngắn, là một phần đáng kể trong cuộc đời của đứa trẻ. Cụm từ “tám năm ròng” không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa thời gian mà còn nhấn mạnh tính liên tục, bền bỉ, dài đằng đẵng của những tháng ngày sống xa cha mẹ, chỉ có bà là chỗ dựa yêu thương. Trong khoảng thời gian ấy, hành động nhóm lửa không chỉ là công việc thường nhật mà còn trở thành biểu tượng cho tình thân, cho sự ấm áp từ người bà. Qua bao mùa đông lạnh giá, bà vẫn đều đặn nhóm lên ngọn lửa, sưởi ấm không gian và sưởi ấm cả tâm hồn cháu nhỏ. Lửa không chỉ cháy từ bếp mà còn cháy lên từ tình yêu, lòng tận tụy của bà.
Khung cảnh thiên nhiên hiện ra qua tiếng chim quen thuộc:
“Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”
Tiếng tu hú là âm thanh quen thuộc của làng quê Việt, thường gợi nhớ đến những ngày hè oi ả, đến những đồng lúa chín vàng và cả những nỗi buồn xa xăm. Âm thanh ấy vang vọng từ nơi xa, càng khiến không gian thêm vắng lặng, đơn côi. Trong cảm thức của đứa cháu, tiếng chim ấy như một ký hiệu gợi lại cả tuổi thơ đã qua. Cánh đồng xa không chỉ là không gian thực, mà còn là biểu tượng cho sự cách biệt – giữa đứa cháu và cha mẹ, giữa thực tại và nỗi khát khao sum vầy.
Trong mạch cảm xúc ấy, câu thơ tiếp theo vang lên như một lời gọi tha thiết:
“Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?”
Đây là một câu hỏi đầy xúc động. Hỏi mà như để nhắc, như để khơi lại kỷ niệm. Câu thơ mang tính chất đối thoại giữa người cháu nay đã lớn và người bà nơi quê cũ. Dường như sau tất cả, đứa cháu vẫn giữ nguyên vẹn ký ức tuổi thơ, vẫn mong muốn được chia sẻ, được đồng cảm cùng bà. “Bà còn nhớ không bà?” – là một câu hỏi mà cũng là một lời khẳng định: cháu thì vẫn nhớ, vẫn khắc ghi sâu sắc những năm tháng ấy.
Tiếp đó, hình ảnh bà hiện lên rõ nét trong trí nhớ của người cháu:
“Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Hai câu thơ là sự kết hợp giữa kỷ niệm và cảm xúc. Hình ảnh bà kể chuyện gợi lên dáng bà ngồi bên bếp lửa, giọng bà trầm ấm, thân quen. Những câu chuyện về Huế không chỉ là phương tiện giải trí mà còn là cầu nối giữa thế hệ, là dòng chảy lịch sử được truyền qua lời kể. Bên cạnh đó, tiếng tu hú trong cảm nhận của cháu bỗng trở nên tha thiết, như một nốt nhạc buồn da diết len lỏi vào từng ngóc ngách tâm hồn.
Phần tiếp theo của khổ thơ là sự tái hiện sinh hoạt thường ngày của hai bà cháu, nhưng lại chất chứa đầy yêu thương:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”
Những câu thơ ngắn, lời thơ giản dị như lời kể lại một thời thơ ấu nhưng giàu cảm xúc. Sự vắng mặt của cha mẹ khiến bà trở thành người nuôi dạy, chăm sóc toàn diện cho cháu. Bà vừa là người bảo ban, là người kể chuyện, vừa là người thầy, người bạn thân thiết. Không chỉ chăm lo từng bữa ăn giấc ngủ, bà còn dạy cháu học hành, rèn nếp sống – điều ấy cho thấy sự tận tụy, hi sinh thầm lặng nhưng vĩ đại của bà. Trong hoàn cảnh thiếu vắng tình thương của cha mẹ, chính tình cảm bà cháu đã lấp đầy khoảng trống ấy.
Câu thơ tiếp theo là một bước chuyển trong cảm xúc:
“Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,”
Đây không còn là hồi ức vô tư của đứa cháu thơ dại, mà là tâm sự của một người đã trưởng thành. Từ “nghĩ thương” thể hiện rõ sự đồng cảm, thấu hiểu và biết ơn của cháu dành cho bà. Cứ mỗi lần nhóm bếp lửa – một hành động quen thuộc – là một lần cháu nhớ về bà, nghĩ về những gian khổ mà bà đã gánh chịu trong những năm tháng nuôi cháu. Đó là biểu hiện rõ rệt của sự lớn khôn về nhận thức, của lòng biết ơn sâu nặng với công lao bà dành cho cháu.
Hai câu cuối kết thúc khổ thơ bằng một nốt lặng đầy cảm xúc:
“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Lời gọi tu hú nghe như một lời trách nhẹ, pha lẫn nỗi buồn. Tiếng chim vang xa, không đến bên bà, khiến bà thêm cô đơn trong những ngày tháng tần tảo. Đứa cháu như hóa thân thành người bạn của bà, muốn có ai đó ở bên để san sẻ nỗi cô quạnh. Câu hỏi mang vẻ ngây thơ nhưng lại đậm chất nhân văn, cho thấy tâm hồn nhạy cảm và đầy yêu thương của cháu nhỏ.
Tóm lại, khổ thơ thứ ba của bài “Bếp lửa” không chỉ là một đoạn hồi tưởng đơn thuần mà còn là bản giao hưởng của ký ức, yêu thương và sự trưởng thành. Qua hình ảnh bếp lửa và những ký ức bên bà, Bằng Việt đã khắc họa một cách tinh tế và xúc động mối quan hệ thiêng liêng giữa hai thế hệ. Những câu thơ trong sáng nhưng sâu sắc đã gieo vào lòng người đọc một niềm yêu kính, một sự biết ơn chân thành với những người bà, người mẹ âm thầm tảo tần trong suốt cuộc đời.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 17)
Trong mạch hồi tưởng đầy cảm xúc của bài thơ Bếp lửa, khổ thơ thứ ba như một bức tranh chân thực về tuổi thơ của người cháu gắn bó với bà trong những tháng năm dài khó nhọc. Đây là đoạn thơ mang đậm dấu ấn kỉ niệm, được lắng đọng qua thời gian bằng những chi tiết mộc mạc, chân thành nhưng vô cùng sâu sắc.
“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”
Mở đầu khổ thơ là một con số cụ thể: “tám năm ròng” – một quãng thời gian không hề ngắn trong cuộc đời một đứa trẻ. Tám năm ấy, người cháu đã sống trong sự chở che, yêu thương và đùm bọc của người bà – người đã cùng cháu trải qua những tháng ngày gian khó giữa thời chiến. Hình ảnh “nhóm lửa” không chỉ đơn thuần là hành động quen thuộc hằng ngày, mà còn là biểu tượng cho tình cảm ấm áp mà bà dành cho cháu, cho sự tần tảo, chăm chút từng chút một. Câu thơ vừa cụ thể về hành động, vừa giàu giá trị biểu tượng: nhóm lửa là nhóm lên hơi ấm tình thân, là giữ gìn hạnh phúc, là duy trì sự sống giữa những năm tháng thiếu thốn.
Tiếng “tu hú kêu” vang lên trên “những cánh đồng xa” như một âm thanh đặc trưng của đồng quê, cũng là âm thanh gợi nhắc nỗi niềm hoài niệm. Tiếng chim không chỉ là âm thanh thiên nhiên mà còn là dấu hiệu của mùa vụ, của thời gian, và trong bài thơ, nó như một hồi chuông đánh thức những kỷ niệm xưa. Âm thanh đó vang vọng giữa không gian vắng lặng, giữa nỗi cô đơn của hai bà cháu khi những người thân yêu khác không thể ở bên cạnh.
“Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.”
Câu hỏi tu từ vang lên đầy xúc động – người cháu dường như đang trò chuyện với bà bằng tất cả tình cảm trìu mến và nỗi nhớ da diết. Từ “còn nhớ không bà?” không chỉ là lời nhắc nhở, mà còn là sự kết nối giữa hai thế hệ, hai tâm hồn đã từng chia sẻ với nhau bao gian khó, bao ký ức. “Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế” – câu thơ gợi lại một miền ký ức xa xôi, một phần đời của bà trước khi trở thành người chăm cháu, nhóm bếp mỗi ngày. Những câu chuyện ấy chính là một phần của hành trang tuổi thơ người cháu, là những lời ru nhẹ nhàng giúp cháu hiểu thêm về bà, về quá khứ, về truyền thống và lịch sử gia đình.
“Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe”
Tiếng tu hú lúc này trở thành biểu tượng của nỗi nhớ, của sự tha thiết trong tâm hồn đứa cháu nhỏ. Khi thiếu đi sự hiện diện của cha mẹ – những người đang bận rộn vì trách nhiệm với đất nước – thì bà trở thành điểm tựa tinh thần duy nhất. Câu thơ “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe” mang nhịp điệu nhẹ nhàng, thủ thỉ như tiếng lòng chân thành. Trong sự gần gũi ấy, người bà không chỉ là người chăm sóc mà còn là người truyền dạy, giáo dưỡng, là người gieo mầm yêu thương và nhân cách cho cháu từ những điều giản dị nhất.
“Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”
Hai câu thơ tiếp theo khắc họa sâu sắc hình ảnh bà trong vai trò của một người mẹ thứ hai. Không chỉ chăm lo cho từng bữa ăn, giấc ngủ, bà còn dạy cháu học, dạy cháu sống. Những hành động âm thầm ấy phản chiếu một tình yêu thương bền bỉ, âm ỉ như ngọn lửa trong bếp mỗi ngày. Trong nỗi nhớ của người cháu, những hành động ấy chưa bao giờ bị quên lãng. Câu thơ “nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc” là một câu thơ giàu cảm xúc, thể hiện sự thấu hiểu, lòng biết ơn và cả nỗi day dứt của người cháu khi nghĩ về những hy sinh mà bà đã từng trải.
“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Kết thúc khổ thơ là một tiếng gọi tha thiết – tiếng gọi tu hú, nhưng cũng là tiếng gọi lòng mình, là nỗi xót xa của cháu khi nghĩ đến bà trong quá khứ. “Chẳng đến ở cùng bà” là một cách nhân hóa tiếng chim – như thể nó có thể thay thế người cháu bầu bạn với bà trong những ngày vắng vẻ. Câu thơ là sự kết tinh của nỗi nhớ, của lòng thương, của tất cả cảm xúc dồn nén trong tâm hồn cháu khi nhớ lại những tháng năm xưa. Tiếng tu hú như một âm thanh ám ảnh, nhắc nhở và đánh thức mọi cảm xúc yêu thương, gắn bó trong tâm hồn người cháu.
Khổ thơ thứ ba của Bếp lửa không chỉ đơn thuần kể lại những kỷ niệm tuổi thơ bên bà mà còn là lời tri ân chân thành, sâu sắc của một tâm hồn trưởng thành, chín chắn khi nhớ về cội nguồn. Tình cảm trong khổ thơ được dệt nên bằng âm thanh, hình ảnh và cả những khoảng lặng của ký ức – khiến người đọc không khỏi xúc động trước tình bà cháu keo sơn, gắn bó, giữa những năm tháng gian khó nhưng cũng đầy yêu thương. Bằng cách ấy, Bằng Việt đã truyền tải thành công một thông điệp giản dị mà vĩnh cửu: tình thân luôn là ánh sáng dẫn đường, là bếp lửa ấm áp giữa những mùa đông của đời người.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 18)
Khổ thơ thứ ba trong bài thơ Bếp lửa là một lát cắt giàu cảm xúc, mở ra những kỷ niệm chan chứa yêu thương của người cháu dành cho người bà tảo tần. Nếu những khổ đầu gợi ra hình ảnh bếp lửa như biểu tượng tình yêu thương, thì đến đây, bếp lửa trở thành trung tâm của hoài niệm, nơi chắt lọc những tháng năm gian khổ nhưng đầy ắp tình người.
“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”
Hai câu thơ mở đầu gợi lại một quãng đời thơ ấu của người cháu bên bà – tám năm sống trong tình yêu thương và sự chăm sóc của người bà. “Tám năm ròng” không phải thời gian ngắn, đặc biệt với một đứa trẻ. Nó là cả một hành trình sống, lớn lên và hình thành nhân cách trong vòng tay bà. Hình ảnh “cùng bà nhóm lửa” hiện lên giản dị, đời thường nhưng đầy xúc động. Nhóm lửa không chỉ là hành động sinh hoạt mà còn là biểu tượng của việc nhóm lên yêu thương, nhóm lên niềm tin, hy vọng giữa những năm tháng thiếu thốn, chiến tranh. Trong bối cảnh ấy, tiếng chim tu hú vang lên “trên những cánh đồng xa” không chỉ gợi ra khung cảnh đồng quê Việt Nam, mà còn là âm thanh của mùa hè, của sự khao khát, gọi mời.
“Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.”
Câu hỏi tu từ đầy tình cảm “bà còn nhớ không bà?” không chỉ là một câu hỏi, mà là lời gợi nhớ, một sự sẻ chia tình cảm chân thành của người cháu khi lớn lên. Như một sợi dây gắn kết quá khứ và hiện tại, ký ức và thực tại đan cài nhau. Câu thơ tiếp theo lại mở ra một không gian khác – không gian ký ức của chính bà: “Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.” Những câu chuyện của bà về thời còn trẻ, về mảnh đất cố đô, trở thành một phần trong tiềm thức người cháu, góp phần bồi đắp tâm hồn, nhân cách cháu trong những năm tháng cha mẹ vắng nhà.
“Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe”
Tiếng tu hú lúc này không chỉ là âm thanh khách quan của tự nhiên, mà đã trở thành âm thanh của lòng người, là nhịp vang của nỗi nhớ. Âm thanh ấy tha thiết như tình cảm của cháu dành cho bà, như sự khao khát đoàn tụ trong một hoàn cảnh chia ly: “cha mẹ công tác bận không về”. Trong bối cảnh chiến tranh, sự vắng mặt của cha mẹ là điều phổ biến, và chính người bà đã thay cha mẹ gánh vác trách nhiệm, nuôi nấng, dạy dỗ cháu. “Bà bảo cháu nghe” – lời kể, lời ru, lời dạy dỗ của bà thấm vào từng buổi tối, từng ngày khôn lớn.
“Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Những hành động tưởng chừng giản dị như dạy làm, chăm học lại là biểu hiện sâu sắc nhất của tình yêu thương vô điều kiện. Đó là tình cảm lặng lẽ nhưng bền bỉ. Người cháu không chỉ ghi nhớ công ơn bà mà còn thấu hiểu nỗi vất vả, hy sinh ấy – “nghĩ thương bà khó nhọc” không chỉ là sự biết ơn, mà còn là niềm day dứt, xót xa. Và kết lại khổ thơ là một lời thổn thức – một sự nhân hóa cảm xúc dành cho tiếng tu hú. Nó trở thành biểu tượng của sự cô đơn, gợi nhớ những mùa hè xa mẹ, gợi cả mong ước được ở bên bà như năm xưa.
Cả khổ thơ là một bản tình ca tuổi thơ dạt dào cảm xúc. Tình bà cháu hiện lên như một mạch nguồn ấm áp, chảy mãi trong tâm hồn người cháu dù sau này lớn lên giữa thành thị. Chính từ khổ thơ này, người đọc cảm nhận rõ rệt được mối gắn bó bền chặt giữa hai thế hệ trong một gia đình Việt truyền thống, nơi mà những điều bình dị lại mang giá trị sâu sắc nhất.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (mẫu 19)
Trong bài thơ Bếp lửa, khổ thơ thứ ba nổi bật như một đoạn hồi ký chan chứa yêu thương về tuổi thơ của người cháu sống cùng bà. Qua ngôn từ giản dị và giàu cảm xúc, Bằng Việt không chỉ gợi lại những hình ảnh thân thương mà còn khéo léo khắc họa một biểu tượng giàu chất nhân văn về người bà Việt Nam thời chiến – tảo tần, đôn hậu và đầy nghị lực.
“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”
Chỉ bằng một con số “tám năm ròng”, nhà thơ đã gợi lên một quãng thời gian dài đằng đẵng trong tuổi thơ. Đó là khoảng thời gian bà và cháu bên nhau, cùng sống, cùng tồn tại và cùng vượt qua những năm tháng gian lao. “Nhóm lửa” là công việc quen thuộc mỗi ngày, nhưng đi vào thơ lại trở nên đầy thiêng liêng và ẩn dụ. Đó là ngọn lửa của sự sống, của yêu thương, của sự tiếp nối truyền thống giữa các thế hệ. Trong khi đó, tiếng chim tu hú – âm thanh vang vọng của đồng quê – gợi lên một không gian mở, xa xăm và gợi cảm giác cô đơn, lặng lẽ.
“Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.”
Hai câu thơ tiếp theo chuyển giọng từ hồi tưởng sang tâm tình. Câu hỏi “bà còn nhớ không bà?” như một lời thì thầm thân thiết, gợi ra sự gần gũi trong mối quan hệ giữa bà và cháu. Bên cạnh đó, hình ảnh “những ngày ở Huế” lại mở ra một miền ký ức khác, xa hơn – nơi bà từng sống, từng trải, từng lưu giữ những hoài niệm riêng. Những câu chuyện ấy không chỉ mang tính giải trí mà còn như những bài học, những di sản truyền lại cho cháu, âm thầm gieo mầm yêu thương trong lòng đứa trẻ.
“Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe”
Câu thơ trung tâm “tiếng tu hú sao mà tha thiết thế” mang tính nhấn mạnh cảm xúc, như một tiếng vọng của nỗi niềm sâu kín. Tiếng chim tu hú khi ấy dường như đại diện cho tâm trạng của đứa cháu: vừa thiết tha, vừa chờ mong, vừa khắc khoải. Trong khung cảnh thiếu vắng cha mẹ vì “công tác bận không về”, bà là người duy nhất luôn ở bên, là chốn nương náu tinh thần an toàn, bền vững. Câu thơ như một sự khẳng định nhẹ nhàng nhưng đầy biết ơn.
“Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Hai câu thơ cuối vừa mang tính hồi tưởng, vừa biểu hiện sự xúc động sâu sắc. Người bà hiện lên không chỉ là người giữ lửa mà còn là người gìn giữ nề nếp, truyền thống gia đình. Hành động “dạy làm, chăm học” cho thấy bà không chỉ nuôi dưỡng cháu bằng vật chất mà còn bằng tình cảm, đạo lý. Người cháu khi nhớ lại, không khỏi nghẹn ngào bởi “nghĩ thương bà khó nhọc”. Tiếng gọi cuối cùng “tu hú ơi!” như tiếng vọng từ trái tim, như lời trách nhẹ gửi gắm cả tình thương lẫn nỗi cô đơn của người cháu từng trải qua.
Khổ thơ thứ ba vì thế không chỉ là một lát cắt cuộc đời mà còn là bản tuyên ngôn âm thầm cho giá trị của tình thân, lòng biết ơn và những ký ức vĩnh cửu về tuổi thơ. Trong hình ảnh người bà, người đọc bắt gặp dáng dấp của bao người phụ nữ Việt Nam – kiên cường, nhân hậu, âm thầm nuôi dưỡng các thế hệ đi qua chiến tranh và dựng xây tương lai.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay, chọn lọc khác:
- Dàn ý Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt (Dàn ý mẫu 1)
- Dàn ý Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa (hay, ngắn gọn)
Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa (Bài văn mẫu 1)
Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa (Bài văn mẫu 2)
- 30+ Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa
Phân tích hình tượng người bà trong bài Bếp lửa (dàn ý - 6 mẫu)
Cảm nhận về tình bà cháu trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt (dàn ý - 6 mẫu)
Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn tự sự
- Mục lục Văn nghị luận xã hội
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 1
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 2
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k11 (2026):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9 và Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

