Top 20 Nghị luận về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (siêu hay)
Tổng hợp trên 20 bài văn nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Nghị luận về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (mẫu 1)
- Dàn ý Nghị luận về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
- Nghị luận về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (mẫu 2)
- Nghị luận về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (mẫu 3)
- Nghị luận về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (mẫu 4)
- Nghị luận về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (mẫu 5)
- Nghị luận về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (mẫu 6)
- Nghị luận về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (mẫu 7)
- Nghị luận về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (mẫu 8)
Top 20 Nghị luận về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (siêu hay)
Văn bản nghị luận về tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - mẫu 1
Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của nên văn học Việt Nam. Song cuộc đời ông không hề êm đẹp, năm 1849 ông phải bỏ thi để về chịu tang mẹ. Trên đường đi ông bị đau mắt rồi bị mù, về sau ông ra dạy học và bốc thuốc cho dân, cuối cùng tham gia chống Pháp.
Chắc bởi có nhiều thời gian ở gần người dân nói chung và nông dân nói riêng nên ông thấu hiểu sự khổ cực, vất vả nhưng lại mang vẻ đẹp bi tráng, sẵn sàng hi sinh vì dân tộc của nông dân Nam bộ mà ông đã viết nên một trang văn hào kiệt “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” theo yêu cầu của Đỗ Quang. Bài tế gồm bốn phần: Lung khởi, thích thực, ai vãn và kết. Với bố cục như vậy, Nguyễn Đình Chiểu dựng lên trong mắt người đọc, người nghe một bức tượng đài bất tử về người nông dân.
Ở phần lung khởi, Nguyễn Đình Chiểu đã nêu lên lí lẽ sống chết. Đó là đứng lên chống lại ngoại xâm bởi súng giặc làm đất rền,còn lòng dân thì trời sẽ tỏ. Bằng phép đối, ông đã nói lên sự căm phẫn của nhân dân trước việc nước nhà bị xâm lăng. Bên cạnh đó, ông còn so sánh cái danh về việc làm ruộng và đánh giặc việc bỏ sức mười năm dở công vỡ ruộng, đối với một trận đánh tây, và cái danh mang lại của mười năm chưa thể nào nối như phao của trận đánh tây đó, danh tiếng hào hùng vang xa như tiếng mõ vang. Hào hùng, khí thế.
Cũng bởi lẽ sống chết đó, cùng với lòng yêu nước và sự căm thù giặc, căm thù những thói mọi nó giống như kiểu nhà nông ghét cỏ và sự phẫn nộ đó tột độ đến mức muốn ăn gan, muốn cắn cổ bọn giặc ngoại và một nỗi thấu hiểu “nước mất, nhà tan” làm sục sôi và giai cấp nông dân đã đứng lên khởi nghĩa.
Đó là những người nông dân côi cút làm ăn trước giờ chuyên cuốc,chuyên cày, bừa,còn việc quân sự như tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, họ chưa từng ngó lấy, chưa từng nhìn ấy thế mà nào phải đợi ai đến, ai bắt,họ đã tự xin ra sức đoạn kình đấu tranh tự nguyện ngay cả khi chưa trở thành người lính.
Họ là những người nông dân dũng cảm, chiến đấu không màng sống chết với hình ảnh hùng dũng không ngại sắt thép đang chĩa ra mà đạp rào lướt tới, coi giặc như không hiện hữu; không biết sợ thằng Tây nào đang bắn những đạn nhỏ đạn to,mà xô cửa xông vào liều mình với tất cả nhưng như chẳng có.
Mặc dù vũ khí của họ rất thô sơ chỉ là ngọn tầm vông, những chi nài, dao tu, nón gõ nhưng vẫn lao vào địch mà đâm ngang, chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kê tàu thiếc, tàu đồng súng nổ. Họ chiến đấu vì tổ quốc, vì dân tộc nên sẵn sàng bỏ lại gia đình của riêng. Đây chính là nội dung của phần thích thực.
Trong phần ai văn, Nguyễn Đình Chiểu thể hiện lòng tiếc thương đối với những người nông dân mang vẻ đẹp bi tráng và lòng yêu nước bất khuất không sợ hi sinh, trong cuộc chiến Cần Giuộc. “Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mô” , bởi thế “già, trẻ hai hàng lụy nhỏ”, “mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn kia leo lét trong lều”, “vợ yêu chạy tìm chồng”. Đó là sự sót xa, đau khổ, thương tình đối với các chiến sĩ của Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và toàn thể nhân dân Cần Giuộc nói chung.
Đối với phần kết, một lần nữa tác giả nhấn mạnh việc sống ở đời thì phải thờ vua, giặc đến thì phải ra sức bảo vệ nước nhà như những nghĩa sĩ Cần Giuộc. Những nghĩa sĩ dù đã hi sinh vẫn sẽ mãi tiếp bước cùng dân tộc trong công cuộc gìn giữ đất nước.
Tóm lại, văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là tiếng khóc bi tráng của một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tường đai bất tử về những người nông dân Cần Giuộc nói riêng và toàn thể người dân Nam Bộ nói chung đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì đất nước trong thời chiến. Bài văn cũng là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật tạo hình tượng nhân vật kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực; ngôn ngữ bình dị, trong sáng, và sinh động.
Dàn ý Văn bản nghị luận về tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
a) Mở bài: Giới thiệu về tác phẩm và tác giả
b) Thân bài:
- Bắt đầu:
+ “Hỡi ơi”: Một cảm thán tưởng nhớ đầy nghẹn ngào, tràn đầy niềm thương cảm và bàng hoàng
+ Súng giặc đất rền: Biểu tượng cho sự tàn phá kinh hoàng của quân giặc, vũ khí hiện đại làm đảo lộn cả bầu trời đất đại dương, lan tỏa nỗi sợ hãi khắp nơi
+ Thể hiện sự hung ác và tàn bạo của quân thực dân bằng những vũ khí tối tân, làm tan nát mọi điều tốt lành
+ Lòng dân trời tỏ: Sự quyết tâm của người dân Việt Nam, dẫu gian khó nhưng họ vẫn kiên cường bảo vệ tổ quốc, được thiên địa chứng nhận, mỗi nén tâm huyết của họ đều trở thành bất diệt
+ Đoạn văn tóm tắt bối cảnh và tinh thần thời đại, xác nhận sự bất tử của người nông dân nghĩa sĩ
- Thực tiễn chiến đấu
Nguyên gốc và tính cách của người nghĩa sĩ:
+ Đều là những dân nông dân nghèo, từng trải qua những gian khổ của cuộc sống, chịu áp bức từ thực dân và phong kiến
+ “Cui cút làm ăn”: Đời sống cô đơn và gian nan, không ai nương tựa, chỉ có sự kiên trì và cần cù
+ Họ đơn giản, hiền lành, cuộc sống của họ chỉ xoay quanh ruộng vườn, xa lạ với cuộc sống binh đao
+ Bày tỏ sự đối lập giữa “vốn quen” và “chưa biết”, “chưa quen” và “chỉ biết”, nhấn mạnh sự phân biệt về tầm quan trọng của họ
Tình yêu nước cháy bỏng:
+ Khi thực dân Pháp xâm lược, người nông dân từ sự lo sợ ban đầu chờ đợi tin tức, đến sự căm ghét giặc và cuối cùng tự mình đứng lên chống lại -> sự chuyển biến tâm trạng đầy phi thường của họ
+ Trong thời gian đất nước bị xâm lăng, tinh thần tự nguyện của nhân dân được nâng cao, họ tự nguyện tham gia không bị ép buộc. Họ không phải là những con người bị bắt ép, mà họ tham gia với ý chí tự nguyện, dựa trên truyền thống dân tộc cao quý
+ Đối với kẻ xâm lược nước ta, họ căm ghét và căm thù đến cùng cực
+ Đối với đất nước, họ không tha thứ cho những kẻ lừa dối, gian ác
Tinh thần chiến đấu hy sinh của người nghĩa sĩ
+ Không phải là binh lính chuyên nghiệp, họ chỉ là dân thường từng trải qua gian khổ, nhưng với tinh thần hy sinh, họ sẵn lòng đứng lên vì chính nghĩa
+ Họ dũng cảm và kiên định, coi quân địch như không có gì
+ Trang phục của họ rất đơn sơ: chỉ có một chiếc áo vải, cây tầm vông, một cái dao phay, và một chút rơm gói trong chiếc cúi,...
+ Một bên là vũ khí hiện đại của quân đội, một bên là những vật dụng hàng ngày trở thành vũ khí. Tất cả những miêu tả này làm nổi bật sự chênh lệch trong trận chiến, điều kiện và tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, coi kẻ thù như không tồn tại, làm cho kẻ thù hoảng sợ và lạc lõng
+ Họ đã đạt được những thành tựu đáng tự hào: “đốt đuốc nhà dạy đạo”, “chém đầu quan thù”
+ “Đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”…: những động từ mạnh mẽ chỉ hành động mạnh mẽ, với tinh thần hào hùng, tạo ra một không khí tràn ngập sức mạnh. Câu văn ngắn, nhịp nhàng, tạo ra một tình thế áp đảo, tinh thần tự nguyện đã nâng cao họ lên, làm cho họ mạnh mẽ hơn, ý chí cao hơn
+ Đoạn văn này đã xây dựng một tượng đài cho người nông dân nghĩa sĩ, vượt qua khó khăn bằng sức mạnh phi thường, tinh thần dũng cảm, sẵn lòng hy sinh để bảo vệ quê hương
+ Thể hiện sự tự hào và trân trọng của tác giả đối với những người anh hùng chân chất, can đảm
- Phần Thương Tiếc
+ Sự hy sinh của người nông dân nghĩa sĩ được tái hiện một cách cảm động, kèm theo sự tiếc thương chân thành
+ Hình ảnh gia đình: tang lễ, cô đơn, sự chia ly,... gợi lên không khí đau buồn, buồn bã sau trận chiến
+ Tiếng khóc vang lên, mỗi tiếng khóc đều thấm nhuần trong nỗi đau. Cảnh vật và con người đều khóc, khóc vì sự nghiệp của họ, khóc vì những người dân chân chất, đáng được bảo vệ mà lại phải gánh chịu
+ Nỗi đau kia không giảm bớt, nó vẫn giữ nguyên sự đau khổ, vừa thống thiết vừa bi thảm, khiến nước mắt của mọi người chảy dài trước cảnh đau thương của những gia đình mất đi người thân trong trận đánh
+ Ngoài tiếng khóc, còn có tiếng oán giận, trách móc, trực tiếp chỉ trích sự tàn bạo của thực dân Pháp, oán trách chính phủ vô trách nhiệm, lo lắng và đau đớn cho những người ở lại
- Kết luận
+ Tác giả khẳng định: “Một trận khói bay, nghìn năm danh tiếng”, “Hào hùng nghìn năm vẫn tồn tại”
+ Dù đã hy sinh dũng cảm, nhưng tinh thần can đảm, lòng yêu nước sâu sắc và sức mạnh của người nông dân nghĩa sĩ đã trở thành một tượng đài bất tử vang danh mãi mãi
+ Đây là tang lễ của tất cả, của cả một thời kỳ, là bi kịch về những anh hùng thất bại
+ Dù là sự tiếc thương nhưng lại vô cùng anh dũng, không phải là bi thảm mà là cao cả, sự hi sinh là một tình yêu cao cả, làm nổi bật vẻ đẹp của người anh hùng
c) Kết bài: Khẳng định giá trị của tác phẩm
Văn bản nghị luận về tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - mẫu 2
Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ, nhà văn hàng đầu ở Nam Bộ thời kì văn học Trung đại, là ngôi sao sáng của văn học dân tộc. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, thể hiện lí tưởng nhân nghĩa và lòng yêu nước sâu sắc. Trong hệ thống tác phẩm đó ta không thể không nhắc đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc sáng tác trong hoàn cảnh thực dân Pháp nổ súng xâm lược ta, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Cần Giuộc nổ ra và giành thắng lợi bước đầu. Sau đó giặc phản công dữ dội, 20 nghĩa sĩ bị giết chết. Bấy giờ, tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang đã yêu cầu Nguyễn Đình Chiểu viết 1 bài văn tế để đọc trong lễ truy điệu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu luận bàn về lẽ sống chết: “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ/ Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Tác giả vẽ ra bối cảnh thời đại với nhiều biến cố, bão táp: giặc được trang bị vũ khí tối tân, đã tàn sát biết bao người dân Nam Bộ.
Chính trong hoàn cảnh ấy đã thử thách tấm lòng của con người đối với đất nước. Người dân Nam Bộ đã không nề hà sống chết, đem thân mình chiến đấu chống lại kẻ thù. Họ sẵn sàng từ bỏ, hy sinh những gì quý giá nhất (tài sản, tính mạng) để đổi lại danh tiếng, tiếng thơm lưu truyền với muôn đời. Qua đó đã làm sáng tỏ chân lí của thời đại: Chết vinh còn hơn sống nhục.
Phần tiếp theo của tác phẩm, chân dung hình tượng người nghĩa sĩ nông dân hiện lên vừa mộc mạc, giản dị nhưng đồng thời cũng vô cùng anh dũng kiên cường. Trước khi giặc ngoại xâm đến họ vốn chỉ là những người nông dân vô cùng thuần phác, họ sống cuộc đời bình dị, “cui cút làm ăn” với biết bao lo toan, bộn bề của cuộc sống.
Họ chỉ biết đến nơi làng quê nghèo, mà chưa từng biết đến thế giới ngoài kia. Quanh năm suốt tháng những người nông dân ấy bận rộn với công việc nhà nông: “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm” còn những việc “tập khiên, tập sung, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Nhưng khi giặc xâm lược đến bờ cõi, đến sự bình yên vốn có, họ sẵn sàng đứng lên, trong họ có sự chuyển biến lớn về nhận thức và tình cảm.
Trước hết đó là sự chuyển biến trong tình cảm. Họ đã nghe ngóng “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng” – tin giặc đến phong thanh họ đã nghe từ lâu. Không chỉ nghe họ còn ngửi thấy cả mùi đấu tranh: “Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm” và cuối cùng họ đã nhìn thấy tận mắt sự xâm lược, độc ác của kẻ thù: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Đến lúc này họ đã có những chuyển biến rõ ràng về nhận thức, nếu ban đầu trong những người nông dân ấy vẫn còn có niềm tin vào triều đình, trông chờ vào quân đội “như trời hạn trông mưa” thì đến đây họ đã có nhận thức rõ ràng về nền độc lập và danh dự của tổ quốc; về kẻ thù – những kẻ đi xâm lăng thì không có lí do để tồn tại dưới ánh sáng chính nghĩa và hơn thế họ nhận thấy trách nhiệm của bản thân với đất nước: “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc rat ay bộ hổ”. Sự chủ động của họ thật oai phong, lẫm liệt đầy dũng khí.
Trong trận đánh Tây họ không được trang bị binh pháp, chưa một ngày được rèn luyện võ nghệ, trang bị của họ hết sức thô sơ chỉ là những vật dụng sinh hoạt và lao động hàng ngày: “Ngoài cật có một manh áo vải” “trong tay cầm một ngọn tầm vông” “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”,… Ngược lại, địch được trang bị vũ khí tối tân, hơn nữa chúng còn được rèn luyện vô cùng tinh nhuệ: “đạn nhỏ đạn tỏ” “tàu đồng súng nổ”.
Sự tương quan lực lượng hai bên đã thấy rõ, nhưng người nghĩa sĩ nông dân vẫn “Đạp rào lướt tới”, “coi giặc cũng như không”, “Xô cửa xông vào liều mình như chẳng có”, “Đâm ngang chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh”,… Không hề sợ hãi trước uy lực của kẻ thù. Bằng việc sử dụng liên tiếp các động từ mạnh, nhịp điệu nhanh, gấp gáp tác giả đã vẽ lên khung cảnh chiến trường ác liệt, đồng thời cũng ánh lên vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ: hiên ngang, kiên cường, dũng cảm, bất khuất.
Nhưng vũ khí hiện đại của kẻ thù đã khiến biết bao nghĩa sĩ ngã xuống, gây nên niềm tiếc thương cho toàn thể dân tộc. Tiếng khóc của tác giả, của người thân và của toàn thể non sông dân tộc cho sự hi sinh anh dũng của những con người quả cảm, đó cũng là sự khóc thương cho số phận của người nhà, từ nay sẽ rơi vào vòng nô bộc của kẻ thù.
Đồng thời tác giả cũng bộc lộ niềm cảm phục sâu sắc đến những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tay, ở với man di rất khổ”. Đoạn thơ không chỉ bày tỏ lòng tiếc thương trước những người đã mất mà còn khẳng định những điều bất tử với thời gian và hướng tới sự tiếp nối của thế hệ tương lai. Bởi vậy câu thơ có bi thương, xót xa nhưng không phải là bi lụy, yếu đuối.
Những vần thơ cuối cùng đã khẳng định sự bất tử của những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc trong sự tiếc thương và cảm phục của những người còn lại. Đồng thời biểu dương công trạng xả thân vì nghĩa lớn của các nghĩa sĩ. Đặc biệt trong câu: “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ” vừa thể hiện được nỗi xót thương và lòng tưởng nhớ những người đã mất vừa tôn vinh công trạng của họ trong sự so sánh ngầm với triều đình.
Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày, đặc biệt ngôn ngữ đậm màu sắc Nam Bộ. Xây dựng hình tượng nghệ thuật – nghĩa sĩ nông dân chân thực, chi tiết, sinh động, lần đầu tiên người nông dân được xuất hiện đầy đẹp đẽ, trang trọng đến vậy. Kết hợp hài hoà các chi tiết thể hiện tình cảm cảm xúc của người viết, tăng chất trữ tình cho bài văn tế, đồng thời giúp dễ dàng đi vào lòng người đọc.
Bằng ngôn ngữ giản dị, giàu cảm xúc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã khắc họa thành công bức tượng đài bi tráng, bất tử về người nghĩa sĩ nông dân. Đồng thời qua tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu đã bày tỏ lòng cảm phục cũng như nỗi tiếc thương trước những công trạng và sự hi sinh bất khuất của họ.
Văn bản nghị luận về tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - mẫu 3
Dân tộc Việt Nam đã trải qua bốn nghìn năm với bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, người nông dân cũng đứng lên chống giặc. Trong văn học, phải đến thế kỉ XIX khi Nguyễn Đình Chiểu – một nhà nho yêu nước dùng con mắng yêu thương và kính phục để viết nên “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì hình ảnh người nông dân mới thực sự xuất hiện. Đó là hình tượng đẹp, rất đỗi chân thực và đầy chất bi tráng, vừa hào hùng, vừa đau thương trong cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do của đất nước.
Những người nông dân ấy, họ sinh ra đâu phải để làm chàng Gióng Phù Đổng, Lê Lợi, Quang Trung… Họ chỉ là những con người quanh năm khoác trên mình màu áo nâu của đất, bình dị và lam lũ. Nhưng họ xuất hiện trong khung cảnh bão táp của thời đại:
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ
Họ đâu đã quen nghe tiếng súng. Âm thanh ấy đã phá tan cuộc sống bình lặng của họ. Một cuộc sống từ sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một cuộc sống chật vật với những lo toan nghèo khó. Cái nghèo đã làm họ thật nhỏ bé suốt ngày “cui cút làm ăn”.. Chỉ một câu văn, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vòng đời luẩn quẩn không lối thoát của người dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ, bắt đầu với cui cút, vật lộn làm ăn để cuối cùng vẫn kết thúc trong nghèo khó.
Đằng sau luỹ tre làng ấy, họ biết sao được những “cung ngựa”, “trường nhung”.. trong cái nhìn của họ chỉ có “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đến việc cuốc, việc cày, bừa, khiên đã quá quen thuộc thì giờ tập khiên, tập súng.. thật lạ lẫm. Những tưởng họ mãi cam chịu như thế. Nhưng không, khi quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, chúng đang giày xéo lên từng mảnh ruộng, từng đám đất quê hương ruột thịt của họ. Giờ đây, trong những “lo toan” không chỉ có đói nghèo mà còn là những thấp thỏm, lo âu:
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa…”
Thấy “mùi tinh chiên vấy vá” không thể chống mắt đứng nhìn, không thể ngồi yên mà đợi. Triều đình đã “bỏ rơi” họ, nhưng làm sao ngăn được tình yêu đất nước nồng nàn ở họ. Bọn xâm lăng kia đã cướp đi những gì máu thịt của họ, chúng phá vỡ giấc bình yêu nơi thôn quê, làm sao không căm cho được. Nỗi uất hận đến tột cùng ấy đã biến những con người nhỏ bé tầm thường thành chàng Gióng khổng lồ trong cổ tích. Khi Tổ quốc lầm than, họ không ngần ngại chung vai góp sức. Lòng yêu nước đã biến thành lòng căm thù giặc đến sôi sục:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan.
Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó”
Lòng yêu Tổ quốc tha thiết xuất phát từ trái tim đã khiến họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh… Dòng máu Lạc Hồng cuộn chảy trong người cùng với cơn giận của lòng yêu nước mạnh hơn yếu hèn, mạnh hơn cái chết. Khát vọng đánh giặc, khát vọng chiến đấu, khát vọng bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ, mặc việc “đợi tập rèn”, “ban võ nghệ”, “bày bố binh thư”, không màng tới trên mình chỉ có “một manh áo vải”. Các chàng Gióng của thế kỉ XIX đã đến, “đạp rào lướt tới”, coi giặc cũng như không.
Hỡi ôi, “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”, “rơm con cúi”, liệu có thể thắng được “tàu chiến tàu đồng”,” đạn nhỏ đạn to”. Đó là bi kịch của nghĩa sĩ Cần Giuộc hay chăng là tấn bi kịch của thời kì nghiệt ngã ấy. Họ là nông dân nhưng lại làm kinh ngạc cả chiến trường. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca đã cất lên trong tiếng nấc lòng. Có thể trận mạc đã vĩnh viễn cướp đi cuộc sống của họ, nhưng tinh thần xả thân vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về lực lượng, chênh lệch với kẻ thù
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục…. súng nổ”
Hình tượng của người nghĩa sĩ áo vải được khắc nổi trên cảnh u ám khói bom ấy: những âm thanh vang động, những động tác quyết liệt (đốt, chém). Những người nghĩa sĩ áo vải đã trở thành đấng anh hùng của một thời kì đáng nhớ. Trong tư thế quật cường ấy, lấp lánh chân dung của những con người gánh trên vai vận mệnh của non sông. Họ biết rằng mình chỉ là vô danh trong dân tộc anh hùng nhưng điều cao cả nhất họ để lại là triết lý sống phù hợp đến muôn đời:
“Thà thác mà đặng câu định khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà chịu chữ đầu Tây ở với man di rất khổ”. Tinh thần ấy, ý đồng chí vẫn chói lòa trong mỗi người dân Cần Giuộc. Sống để chịu nô lệ, tay sai của Tây thì thà một lần chiến đấu hết mình mà đem vinh quang cho dân tộc.
“Ôi thôi thôi!” Một tiếng khóc đầy ai oán, tiếng khóc đến quặn lòng, tiếng khóc để tiễn biệt những người con Cần Giuộc mãi mãi nằm lại trên mảnh đất quê hương. Họ ngã xuống nơi chiến trường khói lửa. Vẫn còn đó nghiệp nước chưa thành, thấp thoáng nơi đây bóng mẹ già với ngọn đèn le lói trong đêm
“Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ yếu chạy tìm chống, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”. Người tử sĩ đã về chốn thiên cổ để lại giữa trần gian mẹ già, vợ yếu, con thơ… Mai đây họ sẽ ra sao khi cái nghèo vẫn còn đeo đuổi, khi mà nợ nước trả chưa xong.. “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo thương vì hai chữ thiên dân, cây hương nghĩa sĩ thắp đèn thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”
Nguyễn Đình Chiểu đã bằng tấm lòng đồng cảm để nhìn thấy, nghe thấy và dựng nên một tượng đài hoành tráng mà mộc mạc, yêu thương. Xuyên suốt trong nền văn học nước nhà hình ảnh người nông dân đã được đề cập khá nhiều lần. Nhưng trước Đồ Chiều thì chưa một ai công khai vẽ lên và ngợi ca hình ảnh người anh hùng “chẳng qua là dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Hơn thế nữa, việc thổi vào văn chương chất dân gian đã khiến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ trở thành áng văn vừa hào hùng, bi tráng mà cũng rất gần gũi, giản dị.
Cụ Đồ Chiểu chỉ là nhà thơ mù – “người hát rong của nhân dân”. Nhưng hình ảnh người nông dân khởi nghĩa trong bài văn tế đã cho ta cái nhìn về cả một thời đại. Tự hào thay những con người nhỏ bé nhưng vẫn hiên ngang trước thế lực bạo tàn. Tự hào thay những người dân, người lính, nghĩa sĩ vô danh trùng trùng điệp điệp ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn cho non sống. Họ là bức tượng đài bất tử, lưu mãi tới muôn đời.
Văn bản nghị luận về tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - mẫu 4
Nguyễn Đình Chiểu - nhà thơ, nhà văn hàng đầu của văn học trung đại, được coi là ngôi sao sáng của văn học dân tộc. Đương thời, ông đã để lại một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, thể hiện lí tưởng nhân nghĩa và lòng yêu nước sâu sắc. Trong kho tàng sự nghiệp sáng tác khổng lồ ấy không thể không kể đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được sáng tác trong hoàn cảnh thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Cuộc khởi nghĩa của nghĩa sĩ quân dân Cần Giuộc nổ ra và bước đầu đã giành được thắng lợi. Nhưng sau đó vì thế địch quá mạnh, 20 nghĩa sĩ quân ta hy sinh. Vào lúc bấy giờ tuần phủ Gia Định đã yêu cầu Nguyễn Đình Chiều viết một bài văn tế để đọc trong lễ truy điệu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu đã bàn luận về lẽ sống chết:
"Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ"
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Tác giả đã tái hiện được bối cảnh thời địa với nhiều biến cố, bão táp: giặc được trang bị những vũ khí tối tân, đã tàn sát biết bao người dân vô tội. Chính trong hoàn cảnh ấy đã thử thách tấm lòng của con người đối với đất nước. Người dân Nam Bộ không hề sợ chết, đem thân mình chiến đấu chống lại kẻ thù. Họ sẵn sàng từ bỏ, hy sinh những gì quý giá nhất (tài sản, tính mạng) để đổi lại danh tiếng, tiếng thơm lưu truyền với muôn đời. Qua đó đã làm sáng tỏ chân lý của thời đại: Chết vinh còn hơn sống nhục.
Phần tiếp theo của tác phẩm, chân dung hình tượng nghĩa sĩ nông dân hiện lên vừa mộc mạc, giản dị nhưng đồng thời cũng vô cùng anh dũng và kiên cường. Trước khi giặc ngoại xâm đến họ vốn chỉ là những người nông dân áo nâu vô cùng thuần phác, họ đã sống một cuộc sống bình dị, cui cút làm ăn với biết bao lo toan và bộn về của cuộc sống. Quanh năm suốt tháng những người nông dân ấy chỉ bận rộn với việc nhà nông: "việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm" còn những việc "tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó". Nhưng khi mà giặc xâm lược đến bờ cõi, đến sự bình yên vốn có, họ đã sẵn sàng đứng lên, trong họ có sự chuyển biến lớn về nhận thức và tình cảm. Đầu tiên, sự chuyển biến về tình cảm. Họ đã nghe ngóng "tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng" - tin giặc đến phong thanh họ đã nghe từ laia. Không chỉ nghe họ còn ngửi thấy cả mùi đấu tranh: "Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm" và cuối cùng họ đã tận mắt nhìn thấy sự xâm lược, độc ác của kẻ thù: "Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ". Đến lúc này họ đac có những chuyển biến rõ về nhận thức, nếu ban đầu trong những người nông dân ấy vẫn còn có niềm tin vào triều đình, trông chờ vào quân đội "như trời hạn trông mưa" thì đến đây họ đã có nhận thức rõ ràng về nền độc lập và danh dự tổ quốc; về kẻ thù - những kẻ đi xâm lăng thì không có lí do để tồn tại dưới ánh sáng chính nghĩa và hơn thế họ nhận thấy trách nhiệm của bản thân với đất nước: "Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ". Sự chuyển động của họ thật oai phong, lẫm liệt đầy dũng khí.
Trong trận đánh với quân địch, họ không hề trang bị binh pháp, chưa một ngày được rèn luyện võ nghệ, trang bị của họ hết sức thô sơ chỉ là những vật dụng sinh hoạt và lao động hàng ngày: "Ngoài cật có manh áo vải", "trong tay cầm một ngọn tầm vông", "hỏa mai đánh bằng rơm con cúi".... Ngược lại, quân địch được trang bị những vũ khí tối tân, hơn nữa chúng còn được rèn luyện vô cùng tinh nhuệ. Sự chênh lệch giữa tương quan lực lượng đã thể hiện rõ, nhưng những người nông dân không hề nhụt chí, họ vẫn "đạp rào lưới tới", "coi giặc như không"... không hề có gì là uy sợ trước uy lực của kẻ thù. Bằng việc sử dụng liên tiếp các động từ mạnh, nhịp điệu nhanh, gấp gáp tác giả đã vẽ lên khung cảnh chiến trường ác liệt. Đồng thời cũng ánh lên vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ: hiên ngang, kiên cường, dũng cảm, bất khuất. Những vũ khí tối tân, hiện đại ấy đã khiến bao nghĩa sĩ Cần Giuộc ngã xuống, gây nên niềm tiếc thương cho toàn dân tộc. Tiếng khóc của thi sĩ, của anh em đồng bào cho thực tại và tương lai phía trước, khóc thương cho những người đã ngã xuống hy sinh. Qua đó khẳng định những điều bất tử với thời gian và hướng tới sự tiếp nối của thế hệ tương lai.
Những vần thơ cuối là sự khẳng định cho sự bất tử của những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc. Đồng thời cũng là tiếng nói biểu dương công trạng xả thân vì nghĩa lớn của các nghĩa sĩ. Đặc biệt trong câu "Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiêng dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cắm bởi một câu vương thổ" vừa thể hiện được nỗi xót thương và lòng tưởng nhớ những người đã mất, đồng thời tôn vinh công trạng của họ.
Ngôn ngữ mộc mạc, giản dụ, mang đậm hơi thở Nam Bộ; Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng lên một bản văn tế "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" khắc họa thành công bức tượng đài bi tráng, bất tử về người nghĩa sĩ nông dân. Tác phẩm là tiếng lòng cảm phục cũng như nỗi tiếc thương trước những công trạng và sự hy sinh bất khuất của họ.
Văn bản nghị luận về tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - mẫu 5
Tinh thần yêu nước giống như sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng chảy văn học Việt Nam. Ở mỗi giai đoạn thì tinh thần yêu nước lại được thể hiện khác nhau. Đến với "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu, ta lại càng cảm khái và xúc động nghẹn ngào trước sự hy sinh và tấm lòng yêu nước của người lính nông dân xưa.
Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu tái hiện lại không khí sục sôi thời đại lịch sử lúc bấy giờ: "Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ". Câu văn ngắn, nhịp nhanh càng phần nào thấy được cái không khí sục sôi, lửa cháy của thời đại gửi gắm vào trong đó. Giữa bối cảnh ngàn cân treo sợi tóc ấy, vẻ đẹp của người lính nông dân xưa càng được tô đậm, rõ nét.
"Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộc trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tay khiên, tay súng, tay mác, tập cờ, mắt chưa từng"
Không phải là những người lính đã quen với binh đạo, họ đều là những người dân nghèo lương thiện, quanh năm chỉ biết bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, ấy thế mà khi tổ quốc cần thì trái tim họ một lòng hướng về tổ quốc. Họ chấp nhận hy sinh thậm chí cả tính mạng, sự sống của mình để hy sinh vì nghĩa lớn, vì tiếng gọi thiêng liêng của dân tộc. Biết phía trước là hiểm nguy, nhưng họ không ngần ngại dấn thân, không cần một thủ lĩnh vẫn sẵn sàng đứng lên ra chiến trường, vẫn hào hùng, hào sảng với khí thế quật cường chính mình. "Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi" câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu phải chăng đang muốn nhắc đến một thực tế đau buồn thời xưa. Đó là vào thời xưa, khi mà người lính đi chiến trường họ không hoàn toàn tự nguyện mà họ bị ép vào những cuộc chiến tranh phi nghĩa, vậy nên khi từ giã gia đình "chân bước xuống thuyền nước mắt như mưa". Hai câu văn của Nguyễn Đình Chiểu phần nào cho thấy sự đối lập hoàn toàn giữa tư thế và tâm thế của người lính khi tam gia các cuộc chiến tranh vì hòa bình và tương lai thiên thu vạn đại của dân tộc.
Dẫu trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, lực lượng của ta và địch có sự chênh lệch vô cùng lớn và tương quan đầy đối lập, không cân sức. Nhưng những người lính nông dân áp vải chân lấm tay bùn vẫn xông lên, vẫn chiến đấu bằng tất cả sức bình sinh của mình.
"Chỉ với những vũ khí thô sơ như:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầy quan hai họ
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ni hồn kinh."
Thậm chí còn có cả những chiến công lẫy lừng, đó là những chiến tích huy hoàng đánh dổi bằng biết bao xương máu của người lính nông dân, đồng thời, hình ảnh của họ cũng là đại diện cho sức mạnh của dân tộc, một dân tộc quật cường đánh bại những kẻ thù sừng sỏ nhất. Trước Nguyễn Đình Chiểu đã có rất nhiều thi nhân không tiếc lời ca ngợi người nông dân nhưng đến với nhà thơ Nam Bộ, cái mới của ông là đã cho người đọc thấy được sức mạnh thực sự của nhân dân, họ không chỉ yếu mềm cần được bảo vệ mà họ cũng đầy dũng cảm và cao cả.
Bằng tấm lòng của một cá nhân yêu nước, những vần thơ của Nguyễn Đình Chiểu trong "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" vẫn sẽ sáng mãi trong bầu trời văn học Việt Nam cùng tinh thần yêu nước và hi sinh vĩ đại của họ.
Văn bản nghị luận về tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - mẫu 6
Khi nhắc tới thơ văn của cụ Nguyễn Đình Chiểu là nhắc tới những áng văn thơm thấm nhuần lý tưởng đạo đức cao đẹp nhân nghĩa với những con người sống cao đẹp nhân hậu thủy chung biết giữ gìn nhân cách ngay thẳng cao cả và dám đấu tranh với những thế lực bạo tàn. Tác phẩm "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là một tác phẩm như thế. Nó giống như tiếng khóc từ đáy lòng của tác giả trước sự hy sinh của những anh hùng áo vải.
Mở đầu bài thơ là một lời than:
"Hỡi ôi! Súng giặc đất rền lòng trời dân tỏ"
Tiếng than vang lên mà nghe sao đau đớn đến thế. Tiếng than ấy cho ta tưởng tượng về một khung cảnh tang thương chết chóc di chiến tranh với những người tử trận đang nằm la liệt trên nền đất lạnh. Ông trời có thấu hiểu lòng người, có thể nhìn thấu được nỗi tang thương đau xót trong lòng những người thân ở lại. Tiếng khóc bi tráng của tác giả xuất phát từ rất nhiều nguồn cảm xúc. Đó là thái độ cảm phục và niềm thương đau xót xa vô hạn của tác giả đối với những người nông dân nghĩa sĩ. Các chi tiết "xác phàm vội bỏ", "nào đợi gươm hùm treo mộ", "tấc đất ngọn rau ơn chúa"... thể hiện niềm thương cảm, xót xa vô tận. Một lần nữa tác giả muốn khẳng định nghĩa binh chỉ là những dân thường, nhưng sẵn sàng dấy binh vì một lòng yêu nước.
Tác giả còn miêu tả hình tượng người nghệ sĩ với vẻ đẹp của hình thức bên ngoài "chẳng qua là dân ấp dân làng", "ngoài cật có một manh áo vải", "trong tay cầm một ngọn tầm vông". Đó là những hình ảnh của một người dân chân lấm tay bùn, quanh năm bán mặt cho đất bán mặt cho trời. Còn cuộc sống của họ thì được tác giả miêu tả bằng những câu văn mộc mạc dễ hiểu không mấy cầu kì về câu chữ "cui cút làm ăn toan lo nghèo khó", "chưa quen cung ngựa", "việc cuộc việc cày việc bừa việc cấy tay vốn quen làm". Từ đó cho ta một cái nhìn toàn diện đầy đủ nhất về người nông dân. Họ vốn là những người dân lao động bình thường và họ cực kì lương thiện không bao giờ muốn chiến tranh xảy ra, họ thỏa mãn với cuộc sống hiện tại. Thế nhưng khi tổ quốc lâm nguy súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương xứ sở thì họ lại có một tinh thần kháng chiến sôi sục. "Súng rền" cho thấy bọn giặc đã sử dụng những vũ khí rất tối tân chứ không phải gậy guộc là khiên là mác nữa cho thấy ở đây có một khoảng cách xa về vũ trang của cả hai bên. Nhà văn đã miêu ta được vẻ đẹp của người dân yêu nước sao mà giản dị đến thế.
"Bữa thấy bòng bong che trắng lốp muốn tới ăn gan ngày xem ống khói đen sì muốn ra cắn cổ". Chính vì thế mặc dù dân ấp, dân làng, ngoài cật có một manh áo vải trong tay cầm một ngọn tầm vông nhưng họ sẵn sàng tự nguyện xả thân vì nghĩa lớn "hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai họ", "chi nhọc quan quản gióng trống ký trống giục đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không nào sợ thằng tây bắn đạn nhỉ đạn to xô cửa xông vào liều mình như chẳng có" và thế là "kẻ đâm ngang người chém ngược làm cho tà mã ma ní hôn kinh bọn hè trước lũ ó sau trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ".
Nguyễn Đình Chiểu đã thành công trong việc khắc họa hình tượng nghĩa quân Cần Giuộc. Các từ miêu tả nguông gốc xuất thân ngoại hình và hành động của người nghĩa sĩ nông dân cho thấy họ chỉ là những người dân áo vải bình thường nhưng khi giặc ngoại xâm kéo đến, họ nhận thức được trách nhiệm của bản thân phải bảo vệ đất nước sẵn sàng hi sinh vì nước. Họ chính là những tấm gương cao đẹp.
Văn bản nghị luận về tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - mẫu 7
Nguyễn Đinh Chiểu, là một nhà thơ với tâm hồn yêu nước sâu sắc. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông luôn tôn trọng đạo đức và đặt tình yêu dành cho dân và đất nước làm trung tâm. Dù viết về nhiều đề tài, nhưng những bài thơ chống giặc, tinh thần đoàn kết yêu nước vẫn là những tác phẩm xuất sắc nhất. Bài văn về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là minh chứng rõ nét cho tư tưởng yêu nước của nhà thơ, mở ra một góc nhìn mới về anh hùng trong văn học.
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được sáng tác theo hình thức phú luật Đường, với bố cục chia thành bốn phần theo quy định của thể văn tế. Tác phẩm này khẳng định thành công của Nguyễn Đình Chiểu trong nghệ thuật viết vận tế. Bài văn tưởng nhớ đến những chiến sĩ Cần Giuộc anh dũng đã hi sinh trong cuộc chiến chống xâm lược, đồng thời truyền đạt tinh thần chiến đấu, khuyến khích lòng yêu nước của nhân dân. Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, có một tượng đài nghệ thuật vững vàng về người nông dân, tương xứng với phẩm chất nghề nghiệp của họ. Ở đây, họ là những nông dân nghĩa quân chiến đấu, cứu nước.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một kiệt tác nghệ thuật hiếm có. Vẻ đẹp của tượng đài nghệ thuật này vừa hoành tráng, hùng vĩ, vừa truyền cảm, bi thương. Tác phẩm thể hiện một quan niệm mới về anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu, độc đáo và mới lạ so với văn học yêu nước ở giai đoạn trước.
Quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu khác biệt như thế nào so với các nhà Nho yêu nước xưa? Trong quá khứ, khi xây dựng hình tượng người anh hùng, nhiều nhà văn thường tập trung mô tả về những bậc hào kiệt, những con người kiệt xuất lãnh đạo các phong trào đấu tranh của nhân dân. Ngược lại, với Nguyễn Đình Chiểu, hình ảnh về người anh hùng không tìm kiếm ở những nơi xa xôi, mà lại xuất phát từ những người nông dân chân chất, tận tâm và yêu nước. Tài năng của ông là khám phá và xây dựng hình tượng người anh hùng nông dân bằng văn chương. Đây không chỉ là một cá nhân, mà là toàn bộ nhóm những người anh hùng, là những nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Hình ảnh trung tâm của tác phẩm là những chiến sĩ nghĩa quân. Xuất phát từ nền nông dân nghèo, cuộc sống của họ đơn sơ, chăm chỉ làm việc nông nghiệp, chưa quen với việc cung ngựa, học văn. Họ là những người chân lấm tay bùn, thường xuyên cuộc sống trong làng. Nhưng khi đất nước, quê hương bị giặc xâm lược, những người dân chân chất ấy đã hiên ngang đứng lên, hi sinh vì lý tưởng cứu nước. Đánh giặc để bảo vệ tổ quốc và bảo vệ Bát cơm manh áo là ý nghĩa lớn mà họ tôn trọng và hành động. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những dòng văn giản dị nhưng chứa đựng tinh thần yêu nước cao quý.
Cảm nhận mùi ngon của bòng bong che trắng như lốp, muốn đến thưởng thức gan; hôm nay, nhìn thấy ống khói đen sì bay lên, muốn ra đây thưởng thức ẩm thực.
Tác giả đã mô tả một cuộc chiến đấu đầy quyết tâm và sức mạnh mạnh mẽ của các chiến sĩ Cần Giuộc. Họ chỉ mặc chiếc áo vải đơn giản, trang bị vũ khí như một cây gậy vông, một chiếc dao phay hoặc một khẩu súng hỏa mai bằng rơm con cúi. Tuy nhiên, họ vẫn ghi được những chiến công xuất sắc như chém đầu quan thù và thiêu rụi nhà dạy đạo. Thật sự, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo ra một tượng đài nghệ thuật về những anh hùng chiến đấu không khuất phục, sẵn lòng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc.
Chứng minh rằng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một kiệt tác nghệ thuật về người anh hùng nông dân.
Nhìn chiếc quạt quản gió rơi, đạp rào đi mượt mà, thấy gióng chiến trống hối kích, coi trận đánh như một sự kiện không thể đánh bại; không sợ đạn nhỏ đạn to của thằng Tây, xông cửa mạnh mẽ, liều lĩnh như không có gì.
Những đoạn văn tuyệt vời như những tia lửa bùng cháy. Không khí chiến trận hừng hực âm nhạc chiến đấu, trống hồi hộp, bước chân điên đảo, mở cửa đón những thách thức, dũng cảm nhưng không hề do dự. Các chiến sĩ xem cái chết như một bản hòa nhạc không tên xâm chiếm lãnh thổ của kẻ thù. Bằng cách diễn đạt hùng biện, tình yêu quê hương, những hành động mạnh mẽ và chín mùi... đã làm nổi bật tâm hồn chiến đấu dũng cảm không thể đo bằng của những người anh hùng Cần Giuộc. Tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã dành tặng những trái tim của những chiến sĩ nghĩa quân những cảm xúc tươi đẹp nhất, sự ca ngợi và sự kính trọng tự hào. Thông qua đó, chúng ta nhìn thấy hình ảnh lần đầu tiên của người nông dân trong thơ văn với vị thế cao quý của những anh hùng dân tộc, những người xuất thân từ tầng lớp nông dân, luôn chăm chỉ với cày cuốc, nhưng khi đối mặt với giặc xâm lược, họ đã tỏ ra anh dũng đứng lên một cách tự nguyện và nhiệt huyết nhất, hy sinh bản thân cho sự độc lập của dân tộc.
Điểm độc đáo của Nguyễn Đình Chiểu là khả năng nhìn nhận những nhân vật anh hùng ngay trong cuộc sống hàng ngày, không phải là những nhân vật xuất sắc hay tài năng, chỉ đơn giản là những người nông dân sống giản dị, làm việc chăm chỉ. Họ luôn gần gũi với chúng ta mỗi ngày. Điều này xuất phát từ góc nhìn của Nguyễn Đình Chiểu - về anh hùng nông dân, khiến người đọc nhận ra rằng anh hùng, những con người cao quý không ở xa xôi, mà luôn đồng hành bên cạnh chúng ta. Có thể nói, quan điểm tiến bộ về hình ảnh người nông dân làm cách mạng không phải ai cũng hiểu được, nhưng qua bức tranh của Nguyễn Đình Chiểu, ta thấy ông là lá cờ tiên phong về quan điểm này.
Những chiến sĩ đã sống một cách dũng cảm và chết một cách vẻ vang. Tâm hồn chiến đấu và sự hi sinh của họ như một viên ngọc lấp lánh gửi trao cho bóng trăng thanh thoát mãi mãi, sáng bừng mãi, tồn tại song hành với núi non. Bài học quan trọng nhất mà những người chiến sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về cuộc sống và cái chết. Sống một cách kiêu hãnh, chết một cách không khuất phục. Tâm hồn đó đã đặt nền móng cho kiệt tác nghệ thuật về người nông dân đánh giặc.
Sống để chống giặc, thác cũng chống giặc, linh hồn hỗ trợ mỗi cơ binh, kiếp kiếp truy cứu mối thù ấy...
Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đưa ta hòa mình vào một không gian văn chương tinh tế, nơi bức tranh về anh hùng nông dân nở rộ trong từng nét chữ. Bằng cách tận dụng bút pháp trữ tình và hiện thực, tác giả đã khéo léo tái hiện cuộc sống đầy xúc động của dân tộc, để lại dấu ấn sâu sắc về lòng yêu nước và tình anh hùng.
Văn bản nghị luận về tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - mẫu 8
Nguyễn Đình Chiểu, nhà Nho yêu nước tài hoa cuối thế kỉ XIX, trải qua những biến cố đau thương. Bằng nghị lực phi thường, ông trở thành nguồn động viên tinh thần với nhiều thế hệ... “Với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, Nguyễn Đình Chiểu kiệt tác bức tượng đài bi tráng về người nông dân anh hùng chống Pháp cuối thế kỉ XIX. Lời đánh giá trên đúng với thành công của tác phẩm. Hơn một thế kỉ trôi qua, đọc lại bản văn tế ấy, ai cũng khó có thể giữ được cảm xúc bởi “nước mắt anh hùng” vẫn chưa khô.
Bắt đầu tác phẩm, tác giả vang lên lời than khóc:
Hỡi ôi! Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ!
Đây là hoàn cảnh đen tối, là nền tảng mà trên đó, Nguyễn Đình Chiểu khắc họa nên bức tượng đài bất hủ. Đất nước bị xâm lăng. Súng giặc vang vọng khắp nơi. Kẻ thù tàn bạo đã đến. Xã hội chao đảo trước “tàu sắt, tàu đồng, âm thanh của súng nổ”, có lẽ, đây là lúc:
Bến Nghé dưới bóng đêm đen của giặc
Đồng Nai điên đảo trong màu mây
Chính là thời điểm:
Những đứa trẻ vô tội chạy trốn nhà cửa
Mất hết tổ ấm, đàn chim hoang bay bay
(Chạy Tây - Nguyễn Đình Chiểu)
Từ trận địa khốc liệt, tan tác, nơi đau thương gọi là nhà, tấm lòng của những người dân bừng sáng giữa bức tranh xanh biếc của trời!
Họ không phải những hiệp sĩ kiên cường, những chiến sĩ dũng mãnh, cũng không phải những quý tộc được thưởng lợi từ sự hậu hĩnh của vua. Họ chỉ là những con người:
Làm ăn vất vả, lo toan về cơm
... Chỉ biết cày cuốc, sống chật trong làng quê
Lao động, cày cấy, bừa mả, cấy trồng, tay chân quen thuộc;
Tập luyện, súng đạn, chiến thuật, cờ đỏ sao vàng, ánh mắt chưa từng ngoảnh lại
Họ toàn bộ là những người làm ruộng, nông dân 100% sống suốt năm tháng không bao giờ rời xa đồng quê! Ngoài ra, họ còn là những nông dân thuộc diện nghèo, nghèo đến mức đau lòng. Hai từ “côi cút” trong miệng cụ Đồ chỉ làm lòng ta thêm xót xa! Cả cuộc đời, qua nhiều thế hệ chỉ biết bán mặt cho đất, bán lưng cho trời! Tuy nhiên, chính những người bị bỏ lại ấy là những kẻ đầu tiên đứng lên, dù không phải là quân lính, quân vệ. Họ chỉ vì tình nghĩa lớn mà tụ tập dưới bóng cờ.
Một vùng đất rộng lớn, ai dám săn rắn, bắt hươu
Hai vòng tròn mặt trời sáng ngời, chẳng thấy bóng người leo núi săn chó.
Với những dòng văn trên, cụ Nguyễn Đình Chiểu đã cho thấy họ là những nghĩa sĩ, những con người mang trách nhiệm cao với đất nước, những người mang trong mình tinh thần không khuất phục. Vì vậy, họ quyết định “Phen này xin ra sức đoạn kình... Chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Đó là tư tưởng của những người như Triệu Thị Trinh, Bố cái Đại vương Phùng Hưng đã đánh cá kình ở biển Đông, bắt hổ dữ ở rừng sâu trong truyền thống dân tộc.
Tuy nhiên, Cụ Đồ Bến Tre vẫn ghi nhớ họ là những người chân đất, có trái tim đầy căm hận với kẻ thù tận xương tủy:
Nhìn thấy bóng trắng che lấp lốp, muốn tới và thưởng thức gan
Ngày thấy khói đen chảy, muốn bước ra để đối đầu!
Sự căm thù này thúc đẩy họ vượt qua khó khăn, không chờ đợi vũ khí, quân trang, không đợi luyện tập quân sự, không sợ kẻ địch hùng mạnh, có vũ khí tinh tế, có đám lính thuê tàn bạo, có những kẻ phản quốc gian ác... quyết tâm nhảy vào trận đấu với những vũ khí tự chế thô sơ:” Hỏa mai cháy bằng lớp rơm/ Gươm đeo sử dụng lưỡi dao phay”, nghĩa là có gì sẵn có, miễn là hạ được đối thủ! Nếu không có tấm lòng vì lý ideal, làm sao có được cái dũng khí ấy?
Và, khi bước vào trận, họ thực sự là phi thường:
Vượt qua rào chông gióng trống, đạp qua rào nguy hiểm, coi trọng đối thủ như không tìm thấy; không sợ đạn nhỏ, đạn to của thế lực ngoại bang, lao vào liều mình như chẳng có gì xảy ra.
Kẻ đâm xuyên, người chém phản, khiến linh hồn tà ma rúng động; bọn hè trước, lũ ó sau, không để ý tới tàu sắt, tàu đồng, và âm thanh của súng nổ.
Một trận chiến kiên cường, mãnh liệt tận cùng trong hồn căm thù! Những động từ mạnh mẽ như “đạp - lướt - xô - xông - đâm xuyên - chém phản...” khiến cho độc giả hàng trăm năm sau còn cảm nhận được sức mạnh của quân đội vì lý tưởng. Trong lửa cháy bùng lên, nhấp nhô những cánh tay trần truồng, lấp lánh ánh sáng của lưỡi dao phay, tiếng bước chân ồn ào, tiếng thét giết tươi báo hiệu sự đối đầu đẫm máu với kẻ thù...
Trong văn học Việt Nam thời điểm đó, chưa có bức tranh nào thể hiện hiện thực một cách sinh động như vậy! Không chút huyền bí, chỉ là sự miêu tả chân thực của nhà văn theo trường phái Nho giáo. Làm thế nào một người “chỉ có bóng đêm” lại có cái nhìn sâu sắc như vậy? Sự tài năng hay tấm lòng? Có thể là cả hai!
Tinh thần quyết chiến đó của người nghĩa sĩ đã tạo ra những chiến công đáng khen ngợi. Họ tiêu diệt được tên chỉ huy độc ác, thiêu cháy tổ gián điệp, chiến thắng kẻ thù trội, kẻ thù dưới nước, kẻ thù thứ ba, kẻ thù tư tưởng (người dạy đạo)... Ý nghĩa càng trọng đại khi những chiến công đó được đạt được bằng những vũ khí vô cùng thô sơ! Bức tượng đài lớn mạnh đó trở nên vô cùng ấn tượng.
Thương cảnh! Họ đã đổ gục! Sự hy sinh dũng cảm của họ đã làm đau lòng cả vùng đất Nam Bộ:
Nhìn sông Cần Giuộc, cỏ cây khắp nơi trải dài sầu thương;
Chợ Trường Bình lạnh buốt, già trẻ đau lòng ở hàng lụy nhỏ.
Đất trời âm u! Mọi người khóc thương! Nỗi đau thảm này biết bao đắng cay! Sau cái chết của những anh hùng sẽ là:
Đau đớn đến tận cùng! Mẹ già ngồi khóc con, ngọn đèn khuya bóng lạnh trong lều; trái tim nát tan! Vợ nhỏ yếu đuối chạy tìm chồng, bóng tối u ám nằm đậu trước ngõ.
Có thể nói, Nguyễn Đình Chiểu đã dùng máu và nước mắt để sáng tác những dòng văn đầy cảm xúc như thế!
Mặc dù Nguyễn Đình Chiểu đã kìm lệ để tôn vinh những người chiến sĩ hy sinh với tâm hồn kiên cường dưới ánh trăng tròn,”sống đánh giặc cũng đánh thác, linh hồn cùng giúp cơ linh, muôn kiếp nguyện được trả thù”, nghĩa là những con người ấy chết nhưng vẫn sống! Nhưng lòng chúng ta vẫn không thể giữ lại được nước mắt đau đớn!
Bức tượng đài lớn mà Nguyễn Đình Chiểu đã tạo ra với bàn tay của mình sẽ luôn hiện hữu cùng với đất sông Việt Nam! Đó là bức tượng đài đầu tiên về những người nông dân chiến đấu! Chúng ta đều biết, người Việt từ khi biết dùng cành cây đâm gieo hạt cũng là lúc họ biết làm bằng tre nhọn để chống lại mọi kẻ thù có bốn chân và hai chân! Họ thật sự là chủ nhân của quê hương. Nhưng trong văn hóa chính thống trước đó, họ chưa bao giờ trở thành tâm điểm! Nay, Nguyễn Đình Chiểu đã trả lại danh dự xứng đáng cho những người nơi lấm bùn. Nguyễn Đình Chiểu đã trở thành ngôi sao rạng ngời trên bầu trời văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX với đóng góp đáng kể từ “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”! “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” sẽ mãi mãi là “bản hòa nhạc về những anh hùng thất thế” (Phạm Văn Đồng).
Đượm một nén hương tâm để nhớ, nhớ lần thứ hai, nhớ anh hùng liệt sĩ, nhớ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.
Xem thêm các bài Soạn văn 11 Kết nối tri thức hay nhất, ngắn gọn khác:
Viết văn bản thuyết minh về một sự vật, hiện tượng trong tự nhiên - ngọn núi lửa
Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật - Bài ca ngất ngưởng
Giới thiệu về một tác phẩm nghệ thuật - Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 11 hay khác:
- Soạn văn 11 Kết nối tri thức (hay nhất)
- Soạn văn 11 Kết nối tri thức (ngắn nhất)
- Soạn Chuyên đề Văn 11 Kết nối tri thức
- Giải lớp 11 Kết nối tri thức (các môn học)
- Giải lớp 11 Chân trời sáng tạo (các môn học)
- Giải lớp 11 Cánh diều (các môn học)
Tủ sách VIETJACK shopee lớp 10-11 (cả 3 bộ sách):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Soạn văn 11 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 11 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 11 - KNTT
- Giải Tiếng Anh 11 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Friends Global
- Giải sgk Vật Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 11 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 11 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 11 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - KNTT
- Giải sgk Tin học 11 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 11 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 11 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 11 - KNTT


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

