Top 20 bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích

Tổng hợp trên 20 bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Top 20 bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích

Quảng cáo

Đề bài: Câu lạc bộ Văn học trường em tổ chức cuộc thi viết với chủ đề “Tác phẩm tôi yêu”. Em hãy viết một bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích để tham gia cuộc thi này.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 1

     Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy tập thơ lớn, thơ ông được xem là biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam. Đối với Tố Hữu, con đường thơ ca cũng là con đường cách mạng. Thơ ông song hành với con đường cách mạng và phản ánh những chặng đường cách mạng quan trọng của dân tộc. Bài thơ Nhớ đồng là nỗi niềm thương nhớ đồng quê, cảnh vật con người, đồng bào đồng chí của người tù cộng sản trẻ tuổi trong những ngày tháng bị giam ở nhà lao Thừa Thiên Huế.

     Tháng 7 năm 1939 Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt và giam tại nhà tù Thừa Thiên Huế. Tuy bị giam cầm trong tù ngục nhưng ông vẫn làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được sáng tác trong hoàn cảnh đó và được trích trong tập thơ: Từ ấy trong phần xiềng xích. Đây là một bài thơ tiêu biểu của tập thơ Từ ấy.

     “Cô đơn thay là cảnh thân tù/ Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..” đó là cảm giác rõ nhất khi Tố Hữu bị bắt, cách biệt với cuộc sống bên ngoài. Vì vậy một âm thanh, một tiếng động nào bên ngoài dội vào cũng gợi lên trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Không phải là tiếng chim tu hú khắc khoải gọi hè như trong bài thơ Khi con tu hú, mà là một tiếng hò quen thuộc của đồng quê:

Quảng cáo

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

     Bài thơ gợi từ tiếng hò thân thuộc trở thành điệp khúc trở đi trở lại: Nỗi thương nhớ; nỗi hiu quạnh. Bằng cách lặp đi lặp lại 4 lần hình ảnh một tiếng hò nhà thơ đã nói lên được sự đồng cảm với tâm trạng cô đơn, cảm giác lạnh lẽo của người tù.

     Tiếng hò như một điểm nhấn gợi nhớ, khiến cho bao nhiêu hình ảnh quen thuộc của đồng quê hiện về:

Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng che mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?

     Âm thanh tiếng hò gợi nhớ về quê hương. Thế giới bên ngoài là đồng quê, hình ảnh con người, mùi hương, màu sắc, âm thanh. Đó là những hình ảnh thân thuộc, da diết của quê hương, xứ sở. Trong xa cách, nỗi nhớ của nhà thơ dường như da diết hơn. Trong xa cách, hình ảnh, mùi vị, âm thanh, màu sắc của quê hương càng trở nên gần gũi lạ thường.

     Nỗi nhớ đồng quê ấy còn là nỗi nhớ con người lao động – những người dân quê cần cù, chất phác, quen “dãi gió dầm mưa”,”hiền như đất”, “rất thật thà”:

Quảng cáo

Đâu những lưng cong xuống luống cày

Mà bùn hy vọng nức hương ngây

Và đâu hết những bàn tay ấy

Vãi giống tung trời những sớm mai?

     Đó là những người dân cày quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Đó người nông dân với luống cày vất vả, gian nan, lưng còng theo năm tháng. Thế nhưng, ở họ, toát lên một vẻ đẹp sáng ngời của phẩm chất trong sáng, dù có ở trong bùn đen nhưng vẫn nức hương. Chính họ, chính những người lao động chân chất thôn quê ấy còn là những người gieo những tia hi vọng vào tương lai.

     Nhà thơ tiếp tục nỗi nhớ của mình với các hình ảnh: sương, lúa, tiếng xe lùa nước, giọng hò. Tất cả đều là hình ảnh, âm thanh thân thuộc của đồng quê. Và nhà thơ nhớ da diết những hình ảnh ấy. Từ nỗi nhớ ấy, nghĩ về cảnh tù đày của bản thân, một chút chạnh lòng chợt len lỏi trong tâm khảm nhà thơ cách mạng:

Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!

Quảng cáo

     Tất cả những gì quen thuộc nhất, thân thương nhất, nhưng giờ đây “đâu cả rồi“. Một câu hỏi lớn vang lên không lời đáp như là một nhát dao đâm vào lòng người tù, trở nên đau đớn, xót xa. Giờ đây, khi ở trong lao, mọi thứ đã cách biệt và trở nên xa xôi hơn bao giờ hết. Chao ôi thương nhớ, điệp khúc lặp lại hai lần trong câu thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết khôn nguôi của nhà thơ. Và trong nỗi nhớ thương ấy, hiện lên hình ảnh người mẹ già – người mà tác giả nhớ nhất trong nỗi nhớ của mình.

     Mạch thơ tiếp diễn với nỗi nhớ thương da diết, dâng trào. Khi người ta nhớ, người ta thương mà không được nhìn, không được ngắm, không được trở về để yêu thương thì càng khiến con người thêm day dứt, thêm cồn cào ruột gan. Và sau những thoáng buồn thương cho cảnh ngộ của mình trong tù, người chiến sĩ thiết tha yêu cuộc sống lại kiên trì – đấu tranh với những giây phút yếu mềm để vượt lên. Anh nhớ lại hình ảnh của chính mình của “những ngày xưa”, từ cái thời “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, “theo mãi vòng quanh quẩn” để có ngày đến với cách mạng, gặp gỡ lí tưởng cộng sản. Và thế là người tù lại khát khao tự do, thèm muốn được thoát khỏi lao tù để lại được dấn thân vào trường tranh đấu vì sự nghiệp cách mạng.

Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say hương đồng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời

     Hình ảnh con chim sơn ca như là một biểu tượng cho ước muốn được tung bay trên bầu trời tự do bát ngát, được trở lại với hoạt động trong lòng dân, được trở về với cuộc sống con người tự do. Đây là tâm trạng vui nhất của người chiến sĩ trong tù.

     Diễn biến tâm trạng của tác giả trong bài thơ được thể hiện khá chân thực, trọn vẹn và liền mạch. Nỗi nhớ được đánh thức từ một “tiếng hò đưa hố não nùng“. Tiếng hò gợi dậy thế giới đồng quê bên ngoài từ cảnh sắc đến những dáng hình quen thuộc. Rồi nhớ về những ngày còn được thỏa sức hoạt động cho cách mạng, cuối cùng lại trở lại thực tại đau thương của cảnh nhà tù và khát vọng muốn được tự do, được cống hiến. Cả bài thơ thấm đượm nỗi nhớ thương da diết, khôn nguôi; khiến độc giả thêm cảm phục hình ảnh người chiến sĩ cách mạng – nhà thơ Tố Hữu.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 2

Hàn Mặc Tử là một thi sĩ có phong cách thơ rất riêng biệt, độc đáo. Ông để lại cho đời nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái Quê, Thơ Điên hay Chơi Giữa Mùa Trăng. Bài thơ "Mùa xuân chín" là một bài thơ tiêu biểu, góp phần làm nên tên tuổi của nhà thơ.

Tựa đề bài thơ đầy ấn tượng" Mùa xuân chín", ta nghe như có sự mềm mại, hương thoang thoảng của vị xuân rạo rực mà không kém phần đằm thắm, ý tứ chất chồng những tầng sâu ý nghĩa khiến ta tò mò muốn khám phá, thôi thúc ta đi sâu vào nội dung tác phẩm để khám phá nét "chín" của mùa xuân trong thơ Hàn Mặc Tử ra sao.

"Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lý bóng xuân sang"

Bức tranh mùa xuân chốn thôn quê thật thanh bình, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương. Trong làn nắng nhẹ của của bầu trời, làn khói xa như tan đi, tạo nên vẻ đẹp như mơ như thực, không quá chi tiết, chỉ đôi nét chấm phá nhưng khiến ta không khỏi xuyến xao trước khung trời đầy yên bình lúc này. Trên những mái nhà tranh nơi quê nghèo lấm tấm màu hoa thiên lý điểm tô, cơn gió khẽ đung đưa những chiếc lá xanh biếc tạo nên thứ âm thanh lạ lùng" sột soạt", tất cả đều quá đỗi nhẹ nhàng mà thân thương. Mùa xuân đang len lỏi vào cảnh vật, trên giàn thiên lý báo xuân về, mùa xuân đến, cây cỏ, thiên nhiên, đất trời, và lòng người như hòa quyện lấy nhau:

"Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời

Bao cô thôn nữ hát trên đồi;"

Vạn vật mang sức xuân, làn mưa xuân tưới thêm cho cỏ cây sức sống mới đầy xanh tươi "gợn tới trời" như đang đùa giỡn với nắng, với gió với mây. Tiếng hát đón xuân của bao cô gái thôn quê đầy tình tứ, mùa xuân đến khiến ai cũng vui tươi, phấn khởi, tâm hồn đầy trẻ trung, yêu đời. Giai điệu nhạc cất lên cùng lời ca:

" Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi."

Niềm vui xuân hoà cùng niềm vui của hạnh phúc lứa đôi, thế là ngày mai trong đám cô thôn nữ ấy, có người đi lấy chồng bỏ lại sau lưng những cuộc vui, có chút gì đó tiếc nuối đan xen trong niềm vui ấy. Mùa xuân điểm tô cho đời, kết nên quả ngọt cho tình yêu, mùa của niềm hạnh phúc tràn đầy.

"Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,

Hổn hển như lời của nước mây,

Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,

Nghe ra ý vị và thơ ngây..."

Niềm yêu đời họa trong lời hát thơ ngây, trong sáng, tinh nghịch "tiếng ca vắt vẻo" trên lưng núi, hoà vào cảnh vật, âm vang mãi. Những âm thanh như đang chuyển động theo nhịp thời gian, "hổn hển" "thì thầm" với nhau đầy ý vị, thân thương. Tiếng thơ nghe sao khiến người bâng khuâng, xao xuyến đến lạ kỳ.

"Khách xa gặp lúc mùa xuân chín

Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"

Nếu ở khổ thơ đầu là hình ảnh cỏ cây tươi xanh thì đây chính là hình ảnh đối lập khi xuân chín, xuân đã không còn thơ mộng như khi vừa sang nữa, nó mang màu của nỗi tiếc nuối ngậm ngùi, mang màu của nắng gió thôn quê: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". m "ang" cuối bài làm cho câu thơ mang tâm trạng mênh mang khó tả, như nỗi lòng thì nhân đang băn khoăn, trĩu nặng xót xa về thân phận người con gái:

" Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"

Nếu ngày xưa khi đang tuổi xuân thì, nhịp xuân sang cùng lòng bao cô gái ngân nga lời ca, tiếng hát chào mừng thì giờ đây khi xuân chín, xa rời xuân xanh năm nào, "chị ấy" giờ trở thành một người phụ nữ với bao nỗi lo toan. Trách nhiệm cuộc sống và công việc của người mẹ, người vợ thêm nặng, song, dù vất vả, nhọc nhằn vẫn ánh lên nét đẹp rạng ngời.

Bài thơ thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ dù giản dị nhưng được nhà thơ chọn lọc rất tinh tế. Mỗi tiếng thơ thốt lên là cả một bầu trời thương yêu vừa mang nỗi thương cảm vừa mang nỗi nhớ mênh mang chốn quê nhà vất vả, gian nan. Với ngôn ngữ kết tinh cùng tấm lòng hồn hậu của thi nhân, Hàn Mạc Tử đã viết nên một "mùa xuân chín" vẹn tròn, đầy đặn, thiết tha.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 3

Mùa thu, cái mùa làm xao xuyến lòng người gợi cho ta bao hoài niệm. Mùa thu giấu trong mình những bầu trời xanh cao vợi, cái nắng hanh vàng, chút se lạnh về đêm. Vì mùa thu đẹp quá nên nó đã trở thành chất liệu thi ca của biết bao nhà văn nhà thơ trong đó có Tiếng thu của Lưu Trọng Lư.

Mùa thu qua cảm nhận của Lưu Trọng Lư thật khác biệt. Ông không dùng mắt để quan sát vẻ đẹp tuyệt diệu của mùa thu mà ông lắng nghe từng hơi thở, từng âm thanh của mùa thu.

Mùa thu dường như gợi rất nhiều vấn vương trong thơ ca của những người thi sĩ. Đối vớ Lưu Trọng Lư cũng như thế, mùa thu cũng khiến cho ông có rất nhiều cảm xúc. Tác giả đã chọn cho mình một góc riêng để ngắm thu để mơ mẩn vè thu để rồi đứng ngồi không yên khi cảm xúc ùa về và để rồi viết lên những trang thu tuyệt diệu.

Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức

Em không nghe rạo rực

Hai câu thơ mở ra cho chúng ta cả một trời thương nhơ vấn vương. Cả bài thơ là một cuộc đối thoại giữa chàng trai và cô gái giữa người đang ngoài chiến trận với người đang mòn mỏi từng ngày ở nhà ngóng tin. Thật là bồi hồi biết bao khi một người đang thổn thức dang rạo rực đang bừng cháy còn một người thì không nghe thấy gì. Hoặc em cũng đang nghe thấy nhưng anh giả vờ như em không nghe thấy mà hỏi vậy. Em mà tác giả đang gọi là ai? Phải chăng là một người đang buồn rầu ngóng tin hay một người tưởng tượng trong tâm trí nhà thơ hay đó chính là nhà thơ đang nói chuyện với chính lòng mình. Ở đây ta đặt ra một câu hỏi mà rất khó trả lời được. Nhưng là ai không quan trọng, quan trọng chính là người đó đang nghĩ gì đang có tâm sự ra sao trước cảnh đời đang trôi?. Mùa thu trăng mờ, phải trăng ánh trăng chính là một hình ảnh mà các thi nhân rất thích sử dụng khi nói về thu hay khi người ngắm trăng đang mang nhiều tấm trạng. Một mình đứng ngắm trăng rất nhiều tâm sự trong lòng không thể san sẻ cùng ai, nhưng dường như dưới ánh trăng vằng vặc kia như đang hiểu thấu nỗi lòng người thi nhân. Như vậy chủ đề mùa thu đã được nhà thơ diễn tả trước hết bằng từ ngữ. Xuất hiện xuyên suốt bài thơ là một từ "nghe" xuất hiện cả ba lần trong câu thơ đầu tác phẩm. Chúng ta nghe lời thổn thức của mùa thu đã được nhân cách hóa, nghe tiếng lòng rạo rực trong rừng vắng của người phụ nữ đi đánh trận nghe tiếng lá thu rơi. Bên cạnh đó tiếng thu còn được tác giả diễn tả bằng âm thanh “em không nghe”. Hai câu thơ tiếp theo cho người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật trữ tình trong bài thơ.

“Hình ảnh người chinh phụ

Trong lòng người cô phụ”

Hình ảnh người lính ra đi lên đường chiến trận là một hình ảnh có lẽ không thể nào quên được trong tâm trí những người tới đưa tiễn chồng lên chiến trường . Hình ảnh ấy cứ khuất dần khuất dần rồi mất hút hẳn theo mù thu theo dáng hình người lính. Đó là tâm sự chủ yêu của những người cô phụ trong thời kì này.

Khổ thơ cuối cùng khép lại bài thơ nhưng nó lại mang một âm hưởng lưu luyến bởi tiếng nhạc khiến ta không thôi bồi hồi.

“em không nghe rừng thu

Lá thu rơi xao xác

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô?”

Cách gieo vần liền kết hợp với các từ láy đặt ở cuối câu đã khiến liên kết các câu trong khổ thơ cuối trở nên đều đặn. Khi hình ảnh con nai vàng xuất hiện ta đã nghe được gì khi hình ảnh con nai vàng xuất hiện. Phải chăng ta đã nghe thất tiến lá vàng vỡ vụn dưới bước chân của những con nai vàng ngơ ngác. Tiếng thơ đích thực trong thơ của Lưu Trọng Lư là như thế đó ta không nghe thấy được thu bằng tai mà nghe thấy thu qua trí tưởng tượng nghe vang lên trong tâm hồn. Thu thanh của Lưu Trọng Lư chính là một vô thanh . Đó là cái vô thanh thắng hữu thanh . Có người cho rằng “Thực tế Việt Nam làm gì có khu rừng vàng”. Đấy là rừng châu Âu. Rừng Việt Nam là rừng luốm nhuốm. Mùa thu Việt Nam đúng như Nguyễn Du mô tả trong Kiều: "Rừng thu từng biếc chen hồng". Và con nai Việt Nam cũng nhanh nhẹn lắm, tinh ranh lắm, nó đâu có ngơ ngác!

Tác phẩm đã để lại nhiều suy nghĩ cho người đọc . Đó là một con mắt nhìn đời nhìn thơ khá khác biệt của Lưu Trọng Lư. Tác phẩm đã khiến cho chúng ta thấy được mùa thu mơ màng bất tận của người thi sĩ đồng thời cũng cho chúng ta thấy được nỗi lòng của người cô phụ đối người chồng nơi chinh chiến.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 4

Nhà thơ Lê Cảnh Nhạc là một trong những nhà thơ sáng tác những tác phẩm về chủ đề quê hương đất nước. Thơ ông luôn thể hiện những tình yêu quê hương đất nước to lớn mà ông dành cho Tổ quốc. Cũng chính nhờ có cảm xúc dâng trào ấy mà ông đã sáng tác biết bao bài thơ hay khiến ai đọc cũng phải nhớ đến. Trong tất cả tác phẩm của ông thì có tác phẩm Đảo Sơn Ca đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng sâu sắc nhất. Bài thơ đã khắc họa chân thực vẻ đẹp của đảo Sơn Ca, không chỉ có vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ mà còn có cả vẻ đẹp oai hùng của anh lính trẻ đứng canh gác miền hải đảo cho quê hương đất nước thân yêu.

Mở đầu bài thơ tác giả Lê Cảnh Nhạc đã cho chúng ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên với màu xanh non của cây bàng cùng với mùi nắng tươi mới ở đảo Sơn Ca.

Quả bàng vuông xanh non màu lá

Mơn mởn thơm mùi nắng Sơn Ca

Hoa giấy đỏ dưới trời nắng cháy

Chim líu lo rót mật trước hiên nhà

Thiên nhiên nơi đây được bao trùm bởi màu xanh non của những cây bàng. Bên cạnh đó, cảnh quan nơi đây còn được tô điểm thêm màu đỏ của những cây hoa giấy dưới trời nắng vàng. Nhờ có những điểm nhấn của những bông hoa giấy này mà khung cảnh đảo Sơn Ca không bị quá đơn điệu bởi một màu xanh của lá cây. Ngoài việc thưởng thức cảnh đẹp bằng thị giác thì tác giả còn cho chúng ta cảm nhận vẻ đẹp ấy bằng cả khứu giác và thính giác. Chúng ta dùng khứu giác để cảm nhận được mùi nắng nơi đây thơm biết nhường nào. Có thể nói mùi nắng nơi đây chất chứa thêm thêm mùi vị mặn mà của biển cả khiến chúng ta ngửi một lần là không thể nào quên được. Tiếp theo là chúng ta cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên của đảo Sơn Ca qua thính giác. Từng tiếng chim hót líu lo bên hiên nhà vừa tạo một khung cảnh thanh bình nhưng không bị tĩnh lặng.

Đến với khổ thơ thứ hai chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính ở nơi đây.

Mái chùa cong veo chiều cổ tích

Tiếng cầu kinh bịn rịn níu hồn tôi

Khát từng giọt mưa mùa khô trên đảo

Cây vẫn mướt xanh vẫy gọi chim trời

Hình ảnh mái chùa cong vút đã tạo nên một khung cảnh cổ kính mà những mái chùa cong veo ấy chúng ta thường được nghe các bà, các mẹ kể cho mình nghe qua những câu truyện cổ tích. Tiếng tụng kinh trong những ngôi chùa cổ kính mới bình yên làm sao. Từng tiếng tụng kinh bịn rịn giữ hồn tôi lại, khiến tâm hồn tôi thanh tịnh và yên lòng hơn bao giờ hết. Ngoài ra, mùa khô trên đảo cũng thường thiếu những giọt nước mưa tươi mát. Tuy nhiên cây cối vẫn luôn xanh mướt vẫy gọi và chào đón những chú chim trời bay đến. Cảnh vật nơi đây luôn mang một vẻ đẹp nao lòng khiến chúng ta không thể nào miêu tả được hết vẻ đẹp ấy.

Kết thúc bài thơ là hình ảnh của người lính và những cánh chim trời như một lời tuyên bố của tác giả rằng con người và thiên nhiên nơi đây luôn hòa hợp với nhau tạo nên một bức tranh vô cùng sinh động.

Anh lính trẻ đứng canh chim làm tổ

Tiếng chim rơi nòng súng ngỡ sáo diều

Đảo Sơn Ca vẫn bốn mùa lảnh lót

Chim và người xây cột mốc tiền tiêu.

Khổ thơ cuối cùng là hình ảnh anh lính trẻ đứng canh chim làm tổ. Hình ảnh ấy khiến chúng ta liên tưởng đến việc anh lính trẻ đứng canh giữ hải đảo, bảo vệ đất nước ta khỏi ánh mắt của kẻ thù. Những tiếng chim vẫn lảnh lót kêu suốt bốn mùa ở đảo làm cho không khí nơi đây luôn rộn ràng mà không bị trầm tĩnh. Tác giả liên tưởng tiếng chim rơi trước nòng súng như những tiếng sáo diều vi vu mà yên bình. Cả hình ảnh chim và người đều mang đến một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ, đó là hình ảnh chim và người xây dựng cột mốc tiền tiêu. Hai hình ấy hòa hợp với nhau tạo nên một bức tranh đẹp đến rung động lòng người.

Qua bài thơ Đảo Sơn Ca, tác giả Lê Cảnh Nhạc đã mang đến cho chúng ta một bức tranh về thiên nhiên nơi hải đảo hùng vĩ nhưng không kém phần bình yên. Từ những lời thơ mộc mạc mà giản dị đã cho chúng ta được dạo quanh đảo Sơn Ca để chiêm ngưỡng vẻ đẹp ngút ngàn ấy. Chúng ta không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn được chiêm ngưỡng cả những vẻ đẹp của những người lính ngày ngày canh giữ hải đảo cho chúng ta. Nếu có cơ hội thì chúng ta hãy đến nơi đây để được tận hưởng hết những vẻ đẹp ở nơi đây.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 5

Nguyễn Khuyến viết về tình bạn, lời thơ có khi sâu lắng, có khi thiêng liêng nhưng trang nhã, chân thành và kín đáo. Trong đó, bài “Bạn đến chơi nhà ” có thể coi là một sáng tác tiêu biểu, ở đây, bằng cách đùa một cách thông minh, hóm hỉnh chuyện không có của ăn của để, nhà thơ đã lặng lẽ bộc lộ một ý nghĩ thật sâu sắc: Tình bạn quý hơn tất cả trên thế giới.

Nguyễn Khuyến cáo quan nên về quê vui thú ruộng vườn, tránh xa những chốn quan trường “bẩn thỉu”. Vì vậy, lúc này nếu có bạn bè đến thăm thì đó là người bạn tâm giao, đáng được trân trọng. Càng quý hơn khi người bạn ấy đã lâu không gặp. Tình yêu ấy nổi lên từ cách xưng hô thân mật: “bác” – “tôi” như những người nông dân mộc mạc xưa. Điều này còn thể hiện ở tài đùa hiếm có của nhà thơ.

Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.

Đầu tiên, Nguyễn Khuyến nói về hoàn cảnh khó khăn của hai vợ chồng. Các con không có nhà, chợ lại xa, biết đối xử với các bạn như thế nào? Câu thơ lúc này vẫn còn như một lời giải thích cho bạn rằng: chú đến đột ngột quá, đáng quý quá, muốn đãi món ngon mà tiếc là không được. Nói ra thì ai mà không bằng lòng. Nguyễn Khuyến nói tiếp:

Ao sâu nước cả, khôn chài cá,

Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.

Nếu không có người đi chợ thì tiếp khách quý bằng cá ao, gà nhà. Không lạ, không sang, nhưng cũng rất đầy! Ừ nhưng mà… “trẻ thời đi vắng” ao sâu vườn rộng hai ông già làm gì được. Bây giờ người đọc bắt đầu nghi ngờ rằng lý do ban đầu mà nhà thơ đưa ra là để dựng lên một cái cớ chắc chắn cho những “lý giải” hóm hỉnh sau đó. Nếu vậy thì lão tài quá, đánh không lại được bạn thân chắc sẽ cười cho. Tuy nhiên, trò đùa vẫn chưa dừng lại:

Cải chửa ra cây, cà mới nụ,

Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.

Chà, thịt cá không được, chúng ta tiếp tục với cây cối từ vườn rau, cũng rất nên thơ! Nào bắp cải, cà tím, bí đao, bí đao, những thực phẩm này xào cũng ngon. Nhưng… nhưng “nhưng”, tất cả đều đang “ngấp nghé”, còn quá nhỏ để ăn. Tài dùng từ giúp Nguyễn Khuyến làm cho truyện cười trở nên táo bạo, uyển chuyển. Rau không ăn được nhưng ông dùng bốn hình ảnh, bốn cách nói khác nhau: cây cải đang chửa cây, quả cà mới nhú, quả bí vừa rụng rốn, quả mướp đang độ ra hoa. Đến đây không chỉ để cười, chắc nhà thơ - chắc - vì bạn Tam Nguyên - sẽ trầm trồ, gật gù thán phục trước những vần thơ hóm hỉnh như thế! Rồi bất ngờ anh nhận được:

Đầu trò tiếp khách, trầu không có,

Không có đến miếng trầu đãi khách, thật khó tin. Nhưng nghĩ lại, ông đã nói ngay từ đầu: “Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa”, hết trầu cau thì sai người đi mua! Vậy là dùng miếng trầu còn thiếu để kết thúc chuỗi cười, tài thơ của ông đã làm cho chuỗi cười ấy thêm duyên dáng.

Nhưng Nguyễn Khuyến không chỉ nói đùa, ẩn sau những cụm từ hóm hỉnh ấy là nói lên một triết lý sâu sắc về tình bạn.

Bác đến chơi đây, ta với ta!

Có thể nói, với những lời lẽ hóm hỉnh trên, nhà thơ đã dần lột bỏ những nghi thức trang trọng của tình bạn, để rồi nổi lên là một tình bạn trong sáng, chân thành. Trong “tôi và ta”, cái “tôi” đầu tiên như một nhà thơ và một người bạn, một người theo chủ nghĩa cá nhân. Cái "ta" thứ hai giống như một tập thể. Tất cả tan thành một. Đó là những bậc đương thời, những bậc nho sĩ cao quý. Họ tự nguyện đến với nhau để giữ được sự trong trắng giữa cuộc đời nhơ nhớp; cũng bị ràng buộc bởi nỗi buồn của thế giới và thời đại.

Bài thơ là một tiếng nói về tình bạn rất thú vị, thú vị ở ý nghĩa sâu xa, được thể hiện bằng nét tài hoa hiếm có, tạo nên một nụ cười chỉ Nguyễn Khuyến mới có, một nụ cười hóm hỉnh mà chỉ Nguyễn Khuyến rất sâu sắc. Bài thơ còn giúp chúng ta có thêm niềm tin và tình yêu đối với những tình bạn chân chính trong cuộc sống.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 6

Chủ quyền dân tộc luôn là một vấn đề nóng bỏng không chỉ của thời điểm hiện tại mà ngay cả trong những ngày quá khứ xa xưa. “Sông núi nước Nam” có thể coi là bản tuyên ngôn về độc lập, chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. Bài thơ thể hiện ý chí kiên cường và quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của ông cha.

Về xuất xứ của bài “Sông núi nước Nam” có rất nhiều ghi chép khác nhau, nhưng chúng đều có điểm chung đó là: bài thơ ra đời gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của dân tộc. Vì có nhiều giả thuyết khác nhau về sự ra đời của tác phẩm nên bài thơ thường được để khuyết danh. “Sông núi nước Nam” có thể coi là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, mang hai nội dung lớn: Khẳng định độc lập dân tộc và ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập đó.

Hai câu đầu khẳng định độc lập dân tộc trên cơ sở cương vực lãnh thổ và chủ quyền:

“Nam quốc sơn hà nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”

Trước hết về chủ quyền, Đại Việt là đất nước có chủ quyền riêng, điều này được thể hiện rõ qua cụm từ “Nam đế cư”. Trong phần dịch thơ được dịch là “vua Nam ở”. Ở đây chúng ta cần có sự phân biệt rạch ròi giữa đế và vua, vì đây là hai khái niệm rất khác nhau. “Đế” là duy nhất, toàn quyền, có quyền lực cao nhất; “Vua” thì có nhiều, phụ thuộc vào đế, quyền lực xếp sau đế. Bởi vậy, khi sử dụng chữ đế trong bài đã khẳng định mạnh mẽ quyền của vua Nam với nước Nam, đồng thời khi sử dụng “Nam đế” thì mới sánh ngang hàng với “Bắc đế”, độc lập và không phụ thuộc vào Bắc đế.

Về cương vực lãnh thổ, nước ta có cương vực riêng đã được quy định ở sách trời. Căn cứ vào thiên thư nước ta nằm ở phía nam núi Ngũ Lĩnh thuộc địa phận sao Dực và sao Chẩn. Dựa vào sách trời để khẳng định chủ quyền của đất nước rất phù hợp với tâm lý, niềm tin của con người ngày xưa (tin vào số phận, mệnh trời) bởi vậy càng có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn. Đồng thời sách trời ở đây cũng tương ứng với chân lí khách quan, qua đó tác giả cũng ngầm khẳng định sự độc lập của đất nước ta là chân lý khách quan chứ không phải ý muốn chủ quan.

Hai câu sau khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc của nhân dân ta. Trong hai câu thơ này tác giả sử dụng những từ ngữ mang ý nghĩa kinh miệt “nghịch lỗ” – lũ giặc làm điều trái ngược, để gọi những kẻ đi xâm lược. Ngoài ra để vạch trần tính chất phi nghĩa cuộc chiến tranh, tác giả còn đưa ra hình thức câu hỏi “như hà” (cớ sao). Bởi điều chúng làm là phi nghĩa, đi ngược lại chân lý khách quan nên tất yếu sẽ chuốc lại bại vong. Câu thơ cuối vừa có tính chất khẳng định, vừa như là lời răn đe, cảnh báo trước hành động xâm lược của chúng: các người sẽ chuốc lấy bại vong hoàn toàn khi xâm lược Đại Việt.

Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt hàm súc và cô đọng. Tác phẩm chỉ có hai mươi tám chữ nhưng lại ẩn chứa những tư tưởng và tình cảm lớn: khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc và nêu lên quyết tâm chiến đấu bảo vệ nền độc lập đó. Ngôn từ cô đọng, giàu sức gợi cảm: nam đế cư, nghịch lỗ, như hà… Kết hợp hài hòa giữa biểu cảm và biểu ý: bài thơ thiên về nghị luận trình bày nhưng ẩn sâu bên trong là những tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của tác giả. Giọng thơ trang trọng, hào hùng, đầy tự tin.

Bài thơ ngắn gọn, hàm súc mà chưa đựng những tư tưởng tình cảm lớn lao, cao đẹp. Văn bản là bản tuyên ngôn đầu tiên của dân tộc ta về độc lập, chủ quyền của đất nước. Tác phẩm đã tạo niềm tin, sức mạnh chính nghĩa cho nhân dân ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 7

Ai đã từng một lần đi trên con đường xuyên Việt, hẳn đều biết đến đèo Ngang. Đây là một đèo khá dài và khá cao, nằm vắt ngang sườn núi cheo leo, hiểm trở của khúc cuối dãy Hoành Sơn, trước khi đâm ra biển. Hình ảnh đèo Ngang đã được đưa vào bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, nhằm gửi gắm nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Đèo Ngang là ranh giới tự nhiên giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình. Thuở xưa, bao người vào kinh đô Huế để thi cử hay làm việc cho triều đình phong kiến đã đi qua đèo này rồi lâng lâng xúc cảm trước vẻ đẹp của nó mà làm thơ ca ngợi. Bà Huyện Thanh Quan nhân dịp từ Thăng Long vào Huế nhậm chức Cung trung giáo tập (dạy dỗ các cung nữ trong cung) đã sáng tác bài Qua đèo Ngang.

Đằng sau bức tranh phong cảnh thiên nhiên là tâm trạng của nữ sĩ: cô đơn, nhớ nhà và hoài niệm về một thời đại huy hoàng đã qua. Có thể coi đây là bài thơ hay nhất trong những bài thơ sáng tác về thắng cảnh này. Câu phá đề đơn giản chỉ là lời giới thiệu về thời điểm tác giả đặt chân đến đèo Ngang:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà. Đó là lúc mặt trời đang lặn, phía tây chỉ còn chút nắng hắt những tia sáng yếu ớt lên nền trời đang sẫm dần. Thời điểm này rất dễ gợi buồn trong lòng người, nhất là đối với kẻ lữ thứ tha hương. Tuy vậy, trời vẫn còn đủ sáng để nhà thơ nhận ra thiên nhiên nơi đây đẹp như một bức tranh thủy mặc: “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”.

Có cái gì đó như linh hồn của tạo vật thấp thoáng sau từng chữ. Điệp từ chen, các vế đối: cây chen đá, lá chen hoa miêu tả sức sống mãnh liệt của một vùng rừng núi hoang vu. Cảnh đẹp thì có đẹp nhưng nhuốm màu buồn bã, quạnh hiu, thiếu hơi ấm con người. Những bông hoa rừng đây đó không đủ làm sáng, làm vui bức tranh núi non lúc ngày tàn, đêm xuống.

Trên bối cảnh thiên nhiên bao la ấy thấp thoáng bóng dáng con người và hơi hướng cuộc sống nhưng cũng chỉ ít ỏi, mờ nhạt, xa vời:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.”

Con mắt tinh tế của nhà thơ phát hiện ra nét đặc trưng của người và cảnh trước tiên nên bà đã dùng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh đặc trưng ấy. Dáng vẻ lom khom của mấy chú tiều hái củi sườn non làm cho con người vốn đã nhỏ bé lại càng thêm nhỏ bé trước thiên nhiên cao rộng.

Cái chợ là nơi biểu hiện sức sống của một cộng đồng làng xã, lẽ ra tấp nập đông vui, nhưng ở đây nó chỉ là mấy túp lều xơ xác bên sông… Bao trùm lên cảnh vật là một nỗi buồn tê tái và nỗi buồn ấy thấm sâu vào lòng người:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.”

Giữa không gian tĩnh lặng gần như tuyệt đối ấy bỗng vẳng lên tiếng chim quốc khắc khoải, tiếng chim đa đa não nuột. Đó là những âm thanh có thật mà cũng có thể là tiếng vọng từ tâm trạng chất chứa nỗi buồn thời cuộc của nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ (từ đồng âm khác nghĩa) để nói lên lòng mình trước cảnh, đó là tài hoa của nữ sĩ.

Tiếng chim kêu không làm cho cảnh vui lên thêm chút nào mà lại làm tăng phần quạnh quẽ, cô liêu. Phải chăng tiếng chim chính là tiếng lòng của kẻ đang mang nặng tâm trạng u buồn, hoài vọng, nhớ nước thương nhà?!

Hồn cảnh, hồn người như có nét tương đồng, cho dù về hình thức hoàn toàn tương phản. Cái bao la, vô tận của non nước tô đậm cái cô đơn, chơ vơ của con người và ngược lại. Vì vậy nên nỗi buồn càng lắng đọng:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

Quả là một nỗi buồn lớn lao, thấm thía, khó san sẻ, giãi bày. Nó như kết thành hình, thành khối, thành mảnh tình riêng khiến nhà thơ phải thốt lên chua xót: ta với ta. Chỉ có ta hiểu lòng ta mà thôi! Vì thế nên sự cô đơn càng tăng lên gấp bội.

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” tuy ra đời cách đây đã hơn một thế kỉ nhưng giá trị của nó vẫn nguyên vẹn trước thử thách của thời gian. Bao người yêu thơ thuộc lòng bài thơ này và ca ngợi tài năng của tác giả. Thể thơ Đường luật kiểu cách, sang trọng vào tay nữ sĩ đã trở thành gần gũi, dễ hiểu với người đọc bởi ngôn ngữ giản dị, trong sáng và những hình ảnh dân dã quen thuộc.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 8

Bài thơ Thu điếu thuộc chùm thơ về mùa thu của Nguyễn Khuyến. Qua bài thơ, người đọc thấy được một bức tranh thu của nơi làng quê Bắc bộ.

Tác giả đã sử dụng điểm nhìn một cách linh hoạt từ gần đến xa, từ xa đến gần để khắc họa bức tranh thu. Bức tranh hiện ra với không gian khá hẹp trong một chiếc ao nhỏ bé với một chiếc thuyền câu nhẹ tênh. Mùa thu trong tâm hồn nhà thơ với hình ảnh “ao thu lạnh lẽo” với làn nước “trong veo” giống như một chiếc gương khổng lồ có thể phản chiếu mọi cảnh vật. Chiếc thuyền câu ở đấy rồi nhưng vẫn chưa thấy con người xuất hiện:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Đến hai câu thơ tiếp theo, khung cảnh làng quê lúc này đã không còn tĩnh lặng nữa mà đã bắt đầu có chút âm thanh:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Sóng nhỏ vì ao vốn nhỏ, bởi vậy mới có “theo làn hơi gợn tí”. Kế tiếp là hình ảnh “lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” - chỉ một động từ “vèo” thôi nhưng đã gợi ra một chuyển động thật tinh tế của chiếc lá.

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

Tác giả mở rộng không gian lên tận trời xanh với hình ảnh những đám mây lơ lửng giữa trời. Dường như với hình ảnh này, bức tranh thu trở nên thật lãng mạn và trữ tình. Không gian mở rộng là thế, bỗng chốc lại trở về với cận cảnh. Hình ảnh “ngõ trúc quanh co” chính là con đường làng quen thuộc với bóng tre đã đứng đó từ bao đời. Trời thu lạnh lẽo khiến cho đường làng trở nên vắng vẻ hơn. Vần “eo” (veo - teo - vèo) thật độc đáo, góp phần khắc họa bức tranh mùa thu.

Bài thơ được kết thúc bởi hình ảnh của nhân vật trữ tình:

“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”

Con người đã xuất hiện trong bức tranh thu. Nhân vật trữ tình trong bài thơ đang câu cá mà dường như chẳng hề chú tâm đến công việc của mình “tựa gối buông cần”. Có lẽ vì đang chìm đắm trong dòng suy nghĩ miên man của bản thân để rồi chỉ một âm thanh nhỏ bé của cá đớp động dưới chân bèo lại làm nhà thơ giật mình sực tỉnh. Hai câu cuối đã khắc họa hình ảnh nhân vật trữ tình - hay cũng chính là nhà thơ trong một tâm thế nhàn nhã trước bức tranh thu nơi quê hương. Từ đó, bài thơ cũng bộc lộ tình yêu thiên nhiên, đất nước sâu sắc, cùng với nỗi lo lắng cho cảnh ngộ đất nước ngay cả khi đã cáo quan về ở ẩn.

Qua bài thơ “Câu cá mùa thu”, tác giả đã khắc họa vẻ đẹp của mùa thu thật đặc trưng của vùng quê đồng bằng Bắc bộ, cũng như nỗi niềm tâm trạng của tác giả.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 9

Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là “Bạn đến chơi nhà”. Bài thơ đã ca ngợi tình bạn chân thành, thắm thiết:

“Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta!”

Cụm từ “đã bấy lâu nay” chỉ thời gian rất lâu rồi, người bạn của Nguyễn Khuyến mới đến chơi nhà. Điều đó khiến cho nhà thơ rất vui mừng, hạnh phúc. Cùng với cách xưng hô “bác” thể hiện mối quan hệ gần gũi, thân mật. Câu thơ đầu như một tiếng reo vui, một lời đón khách đầy cởi mở.

Dẫu vậy thì hoàn cảnh của nhà thơ lúc này cũng thật là éo le. Trẻ em thì đi vắng rồi, không có người để sai đi mua đồ tiếp đãi bạn được vì chợ ở quá xa. Tưởng rằng như vậy là chưa đủ, nhà thơ còn liệt kê một loạt các sự vật như “ao sâu - khôn chài cá”, “cải chửa ra cây, cà mới nụ, bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa”. Thậm chí miếng trầu - ngay cả thứ quan trọng nhất bởi có câu “miếng trầu là đầu câu chuyện” thì ở đây cũng không có. Sự thiếu thốn đã được đẩy lên đến tận cùng. Nhưng sự thiếu thốn đó không khiến cho thi sĩ buồn khổ mà còn đầy lạc quan, yêu đời. Bài thơ mang giọng điệu hóm hỉnh mà lạc quan, yêu đời.

Tuy là vật chất thiếu thốn, nhưng tình cảm bạn bè mới là thứ đáng quý nhất. Câu thơ cuối như một lời khẳng định cho tình bạn tri kỉ của Nguyễn Khuyến: “Bác đến chơi đây ta với ta”. Bà Huyện Thanh Quan cũng đã từng sử dụng cụm từ “ta với ta” trong bài Qua Đèo Ngang:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”

Đại từ “ta” ở đây chỉ cùng một người, chỉ chủ thể trữ tình hay chính là tác giả. Lúc này Bà Huyện Thanh Quan đang chỉ có một mình nơi đèo Ngang hoang vu. Thời gian chiều tà gợi buồn và nỗi cô đơn, sợ hãi trước dòng thời gian trôi chảy. Không gian tuy rộng lớn nhưng chỉ toàn những vật vô tri, vô giác. Có xuất hiện hình ảnh đời sống con người nhưng hết sức thầm lặng, nhỏ bé. Âm thanh sự sống đơn điệu, gợi nỗi buồn sâu thẳm. Con người lẻ loi trước vũ trụ mênh mông. Nhớ về quê hương, thương xót cho hoàn cảnh của đất nước, trước thiên nhiên rộng lớn chỉ có mình cô độc.

Ngược lại, trong thơ Nguyễn Khuyến, đại từ “ta” thứ nhất chính là nhà thơ, còn đại từ “ta” thứ hai chỉ người bạn. Từ “với” cho thấy mối quan hệ song hành, gắn bó. “Ta với ta” đồng nghĩa với tôi với bác, chúng ta với nhau. Cuộc sống tuy nghèo khó, thiếu thốn nhưng có bạn lại thấy vui vẻ, hạnh phúc. Nhà thơ không hề cảm thấy cô đơn, buồn bã mà lại vô cùng vui vẻ, hạnh phúc. Tình bạn tri kỉ thật đáng ngưỡng mộ, cảm phục biết bao nhiêu.

Như vậy, “Bác đến chơi nhà” đã khắc họa một tình bạn chân thành thật đáng ngưỡng mộ. Bài thơ khá tiêu biểu cho phong cách thơ của Nguyễn Khuyến.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 10

Qua Đèo Ngang là một tác phẩm tiêu biểu của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ gửi gắm tấm lòng yêu nước sâu nặng của nhà thơ.

Mở đầu, tác giả gợi mở về thời gian, không gian cũng như điểm nhìn của bài thơ. Hai từ “bước tới” gợi đến một sự ngạc nhiên khi nhìn thấy hay tiếp cận đèo Ngang. Đó cũng là thời khắc “bóng xế tà” khi ngày đã sắp tàn và màn đêm đang dần buông xuống. Đứng trước đèo Ngang với rừng núi hoang vu xa lạ, những xúc cảm của lòng người đã trào dâng. Tiếng “tà” với âm bằng xuất hiện trong văn cảnh tạo nên giai điệu buồn thương man mác, trở thành “vần” của ý thơ:

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Khung cảnh thiên nhiên hiện lên với sức sống mãnh liệt. Điệp từ “chen”, kết hợp với việc sử dụng vần lưng “đá - lá”, lại vừa sử dụng vần chân “tà - hoa” đã làm cho nhạc điệu thơ du dương và réo rắt. Cảnh đèo hiện lên thật hoang vu và có chút cằn cỗi.

Không chỉ thiên nhiên, con người cũng đã xuất hiện trong bức tranh đó:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Cách sử dụng từ láy “lom khom” và “lác đác” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào sự nhỏ bé, thưa thớt của con người.

Ngoại cảnh đã hòa hợp với râm cảnh người nữ sĩ trong buổi chiều tà nơi đèo hút hút gió. Nữ sĩ đã sử dụng bút pháp miêu tả tượng trưng và ước lệ của thi pháp cổ (ngư, tiều, canh, mục) kết hợp với cảm hứng đầy thi cảm và sáng tạo.

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Nghệ thuật đối và đảo ngữ được sử dụng ở phần thực đã tiếp tục được phát huy tác dụng một cách triệt để ở phần luận. Đó là tiếng chim cuốc, chim đa trong bóng chiều tà. Đó là “nhớ nước đau lòng” và “thương nhà mỏi miệng” đã được đặt trong thế đăng đối và hòa hợp. Ý thơ đã thể hiện người nữ sĩ lấy ngoại cảnh để phô diễn tâm tình. Đây cũng là một nét đặc sắc và nổi bật trong phong cách sáng tác của bà huyện Thanh Quan. Thơ tả cảnh ngụ tình nên nhạc, nên họa đã diễn tả cảnh đèo Ngang lúc hoàng hôn với nỗi niềm thi sĩ làm ta cảm thương, vương vấn.

“Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”

Hai câu thơ kết cuối bài như dồn lại biết bao nhớ thương sâu lắng và dạt dào của người nữ sĩ trong khung cảnh chiều tà. Đứng một mình nơi đèo cao lộng gió trong buổi hoàng hôn, nữ sĩ thấy mình như sống trong tâm trạng lẻ bóng, cô đơn, giữa một khung cảnh thiên nhiên hoang vắng bao la của “trời, non, nước”.

Hai chữ “đứng lại” diễn tả một tư thế, một tâm trạng xúc động và bồi hồi. “Ta với ta” là ba chữ đắt giá kết hợp với điệp ngữ láy âm, đặt trong mối tương phản với “trời, non, nước” đã cho thấy cái mênh mang bao la với sự lẻ loi, đơn côi và nhỏ bé của lòng người. Nó gợi lên một sự trống vắng không thể nào kể xiết.

“Qua Đèo Ngang” là bài thơ Nôm kiệt tác được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã cho thấy phong cách sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 11

Bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương đã thể hiện sự trân trọng trước vẻ đẹp, phẩm chất trong trắng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ niềm thương cảm cho cuộc đời lận đận của họ:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

Bài thơ mang hai nét nghĩa. Trước hết là nét nghĩa tả thực - miêu tả hình ảnh bánh trôi nước. Tác giả đã miêu tả hình dáng bên ngoài: màu sắc (vừa trắng), hình dáng (vừa tròn). Cùng với đó là cách thức làm bánh luộc bánh trong nước, khi nào bánh nổi lên mặt nước có nghĩa là đã chín. Bên trong nhân bánh thường được làm bằng đường phên. Viên bánh rắn hay nát phụ thuộc vào tay người nắn có khéo léo. Hình ảnh tả thực chiếc bánh trôi từ hình thức đến cách thức.

Nhưng không chỉ mang nét nghĩa như vậy, Hồ Xuân Hương còn muốn nói đến vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa qua hình ảnh “bánh trôi nước”. Mở đầu bằng cụm từ “thân em” - đây là một mô-típ đã rất quen thuộc trong ca dao:

“Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”

Hay như:

“Thân em như ớt chín cây
Càng tươi ngoài vỏ, càng cay trong lòng”

Ở bài thơ “Bánh trôi nước” hay các bài ca dao, dân ca đều xuất phát từ niềm thương cảm, xót xa cho số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ là những con người nhỏ bé trong xã hội. Cuộc đời trôi nổi, bấp bênh và không được tự quyết định cuộc sống của bản thân, chịu sự chi phối của người khác.

Vẻ đẹp của người phụ nữ hiện lên “vừa trắng lại vừa tròn” gợi ra một thân hình khá đầy đặn, nước da trắng hồng. Đó là chuẩn mực của người phụ nữ đẹp trong xã hội xưa. Xinh đẹp là vậy, nhưng cuộc đời lại nhiều bất hạnh. Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” gợi ra một cuộc đời vất vả, gặp nhiều gian truân. Câu thơ “rắn nát mặc dầu tay kẻ nạn” đã nói lên số phận phải phụ thuộc vào người khác, không được tự mình quyết định. Nhưng dù có chịu nhiều bất hạnh, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương vẫn gìn giữ được tâm hồn cao quý: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. : Dù cuộc đời có khó khăn, khổ cực thì họ vẫn giữ được tấm lòng thủy chung, son sắc và không thay đổi. Hình ảnh người phụ nữ hiện lên với đầy đủ nét đẹp từ ngoại hình đến tâm hồn. Bài thơ sử dụng ngôn ngữ bình dị, hình ảnh ẩn dụ, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt cô đọng, hàm súc… nhằm làm nổi bật nên ý nghĩa mà nhà thơ muốn gửi gắm.

Như vậy, “Bánh trôi nước” là một tác phẩm giàu giá trị nhân văn sâu sắc. Từ đó, chúng ta cần phải trân trọng, yêu thương những người phụ nữ hơn.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 12

Bài thơ Nam quốc sơn Hà là lời khẳng định đanh thép chủ quyền lãnh thổ của quốc gia dân tộc cũng như nêu cao ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền đó trước mọi kẻ thù:

"Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư."

Khi kể về sự ra đời của bài thơ, đã có rất nhiều truyền thuyết. Nhưng nổi tiếng nhất là vào năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy sang xâm lược nước ta. Vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt. Bỗng một đêm, quan sĩ nghe từ trong đền thờ hai anh em trương Hống và Trương Hát - hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục được tôn là thần sông Như Nguyệt - có giọng ngâm bài thơ này.

Trong quan niệm của xã hội xưa thì toàn bộ diện tích lãnh thổ, của cải vật chất, con người của một đất nước đều thuộc về nhà vua. Người có quyền quyết định tất cả mọi thứ, thậm chí cả quyền sinh sát. Cách dùng từ “hoàng đế nước Nam” muốn chỉ người đứng đầu của một quốc gia - thể hiện sự ngang hàng với phương Bắc. Câu thơ thứ hai tiếp tục là một lời khẳng định. Hình ảnh “thiên thư” có nghĩa là sách trời. Lãnh thổ, địa phận của đất nước đã được ghi tại sách trời. Điều này khẳng định chủ quyền lãnh thổ của dân tộc ta là một chân lý không thể chối cãi và thay đổi được.

Với lời khẳng định đó, hai câu thơ sau tiếp tục khẳng định quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ dân tộc. Câu hỏi tu từ “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?” giống như một lời răn đe, cảnh cáo cho những kẻ xâm lược đi xâm lược lãnh thổ là đang làm trái ý trời. Và từ đó, câu thơ cuối cùng vang lên đầy đanh thép. Những kẻ đi xâm lược, cướp nước của dân tộc khác sẽ không có được kết thúc tốt đẹp. Giọng thơ dõng dạc, hùng hồn, đanh thép nhằm thể hiện quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc.

Có thể khẳng định, “Nam quốc sơn hà” được coi là bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Bài thơ đã thể hiện được tinh thần yêu nước, cũng như ý chí quyết tâm bảo vệ của nhân dân ta trước mọi kẻ thù xâm lược.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 13

Thượng tướng Trần Quang Khải là một vị tướng văn võ song toàn, từng có công rất lớn trong hai cuộc chiến chống quân Mông- Nguyên. Sau chiến thắng vang dội ở Chương Dương, Hàm Tử, chiến thắng giải phóng kinh đô năm 1285, ông được cử đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về kinh. Trên đường đi, ông đã sáng tác bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư”. Đây là khúc khải hoàn đầu tiên của dân tộc ta trong công cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm.

Hai câu đầu của bài thơ thể hiện chiến thắng hào hùng vang dội của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông xâm lược.

“Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan”

(Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù)

Như chúng ta đã biết, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông thời vua Trần, nhân dân ta đã giành nhiều chiến thắng trong nhiều chiến dịch, nổi tiếng nhất là chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Nhưng tại sao Trần Quang Khải chỉ nói đến chiến thắng ở Chương Dương và Hàm Tử mà không hề nhắc đến trận Bạch Đằng? Phải chăng đây là hai chiến thắng tiêu biểu, có tính quyết định dứt khoát để giành thắng lợi cuối cùng? Phải chăng nhờ hai chiến thắng này, nhà vua và cả triều đình sau thời gian sơ tán, được trở về kinh đô, trở về nhà trong niềm vui sướng? Trong thực tế lịch sử, chiến thắng Hàm Tử diễn ra trước, chiến thắng Chương Dương sau. Tại sao tác giả lại nói ngược lại, nêu Chương dương trước, sau đó là Hàm Tử? Tìm hiểu lịch sử, ta thấy rằng, người chỉ huy trận Hàm Tử là tướng Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải chỉ tham gia hỗ trợ. Còn ở trận Chương Dương, Trần Quang Khải thống lĩnh ba quân, trực tiếp chỉ huy và giành thắng lợi giòn giã, để rồi ngay sau đó được cử hộ giá nhà vua về kinh. Niềm vui chiến thắng, đi liền với niềm vui được “phò giá” dồn dập nối tiếp cộng hưởng cho nhau. Có lẽ vì thế mà trong phút ngẫu hứng, vị tướng đã nhắc ngay đến chiến thắng Chương Dương, rồi mới hồi tưởng Hàm Tử. Trong cả hai chiến dịch, quân ta đã chiến đấu rất dũng cảm, khí thế, quyết đoán. Song, tác giả chỉ đúc lại trong hai câu thơ ngắn gọn với hai động từ mạnh đó là “đoạt” và “cầm”. “Đoạt” nghĩa là “lấy hẳn được về cho mình qua đấu tranh với người khác”. Như vậy, dùng từ “đoạt sáo”, nhà thơ vừa ghi nhận chiến công vừa ngợi ca hành động chính nghĩa, dũng cảm của quân ta. Ở Chương Dương, ta giành được gươm giáo, vũ khí của giặc thì ở Hàm Tử, ta bắt sống được tướng giặc ngay tại trận. Trong chiến trận chắc chắn có thương vong, tổn hại lực lượng của cả bên ta lẫn bên địch. Nhưng lời thơ không đề cập đến, vì mục đích chiến đấu của dân tộc ta không phải là giết kẻ thù mà là giành lại nền độc lập, bắt kẻ thù phải trả lại đất nước cho ta. Giọng thơ khỏe khoắn, hùng tráng, âm điệu tươi vui, rộn ràng làm ta có cảm giác vị tướng ấy đang ngẩng cao đầu, vừa đi vừa cất tiếng ngâm thơ. Có thể nói, hai câu thơ trên đã tái hiện không khí chiến thắng oanh liệt, tình cảm phấn chấn, tự hào của nhà thơ trên đường hộ tống nhà vua về kinh.

Dời xuống hai câu sau, âm điệu thơ như lắng lại. Nhà thơ dường như đang suy nghĩ về tương lai đất nước:

“Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.”

(Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.)

Đây là lời tự nhủ của vị thượng tướng về tương lai của đất nước, cũng là lời nhắn nhủ toàn thể quân dân ta bấy giờ. Tiếng nói, khát vọng của một người đã trở thành động lực, quyết tâm của toàn dân tộc. Trần Quang Khải tự nhắc mình nêu cao tinh thần trách nhiệm, cố gắng “tu trí lực”, bởi tu dưỡng trí tuệ, rèn luyện sức lực là hai yếu tố tiên quyết của một con người và một dân tộc nếu muốn làm nên chiến thắng, muốn xây dựng hòa bình. Đồng thời, ông động viên quân dân gắng sức, đồng lòng phát huy thành quả chiến thắng để xây dựng đất nước thanh bình, bền vững dài lâu chứ không được ngủ quên trên chiến thắng. Câu thơ cuối vừa chỉ ra cái chặng đường đi tiếp của đất nước vừa bày tỏ lòng mong muốn, niềm khát khao mãnh liệt về một tương lai tươi sáng muôn đời của dân tộc. Nghĩa của thơ biểu ý, nhưng nhạc của thơ lại mang tính biểu cảm. Lời răn dạy hài hòa với niềm tin, niềm hi vọng của quân dân ta.

Hai câu thơ sau là khát vọng hòa bình sau khi giành được chiến thắng vang dội và sự mong muốn xây dựng nền hòa bình cho đất nước lâu dài. Đây là lời tự nhủ của vị thượng tướng, đồng thời cũng là lời nhắn nhủ với quân dân: chúng ta không được phép ngủ quên trên chiến thắng. Điều đó thể hiện trí tuệ, biết lường trước được mọi việc, tầm nhìn xa trông rộng của một vị lãnh đạo tài ba biết lo cho dân cho nước. Để cho non nước được nghìn thu, hòa bình bền vững, thì khát vọng hòa bình không chỉ là khát vọng của riêng của người lãnh đạo mà còn là khát vọng chung của cả dân tộc.

Bằng cách nói chân thành, với câu chữ giản dị, mộc mạc, “Tụng giá hoàn kinh sư” đã thể hiện hào khí chiến thắng vang dội và khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc ta trong thời đại nhà Trần.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 14

Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Bài thơ “Ông đồ” mang đậm phong cách sáng tác của ông, gửi gắm nhiều ý nghĩa.

Hình ảnh ông đồ vốn rất đỗi quen thuộc trong xã hội xưa. Họ là những người có học thức, tài năng. Trong quá khứ, mỗi năm Tết đến, ông đồ lại bày mực, tàu giấy đỏ bên phố đông người để viết câu đối:

“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.”

Ông viết câu đối mà như người biểu diễn thư pháp khiến người xem tấm tắc khen ngợi, trân trọng. Đó là một thời vàng son, khi ông đồ được hết mực trân trọng. Để rồi biết bao nhiêu người phải tấm tắc khen ngợi tài năng:

“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.”

Hoa tay ý chỉ về tài năng thiên phú. Cách so sánh “như phượng múa rồng bay” cho thấy lòng ngưỡng mộ của tác giả với ông đồ. Nhưng thời gian trôi qua, cùng với sự phát triển của xã hội, ông đồ vẫn ngồi đấy, nhưng không có ai hay:

“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…

Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay."

Cụm từ “mỗi năm, mỗi vắng” ý chỉ theo thời gian con người dần lãng quên. Câu hỏi tu từ “Người thuê viết nay đâu?” bộc lộ tâm trạng buồn bã, nuối tiếc trước sự thay đổi này. Hình ảnh nhân hóa “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” gợi ra nỗi buồn của chính người nghệ sĩ khi không còn được biết đến. Dường như chính cảnh vật cũng nhuốm màu buồn bã, thê lương.

“Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?"

Một mùa xuân nữa lại về, nhưng không thấy ông đồ xưa. Câu hỏi tu từ giống như một lời than trách cho số phận của ông đồ trước sự mai một của những giá trị truyền thống. Đây là một trong tác phẩm mà em yêu thích nhất của nhà thơ Vũ Đình Liên.

Với thể thơ ngũ ngôn bình dị mà cô đọng, giọng thơ giàu cảm xúc kết hợp với sử dụng biện pháp tu từ độc đáo, bài thơ đã thể hiện tình cảnh đáng thương của “ông đồ” qua đó toát lên niềm cảm thương chân thành trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi tiếc nhớ cảnh cũ người xưa của nhà thơ.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 15

Tố Hữu đã trau chuốt từng con chữ để rồi gói gọn những tâm tình thật tha thiết về vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc qua những câu thơ sau:

“Bác sống như trời đất của ta

Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa

Tự do cho mỗi đời nô lệ

Sữa để em thơ, lụa tặng già!”

Phải chăng tiếng thơ đó, âm điệu da diết này, lời thổ lộ tâm tình đặc biệt kia cũng chính là tấm lòng của toàn thể dân tộc dành cho Hồ Chí Minh, trái tim đứng trên triệu người nhưng sẵn sàng nâng niu vạn người. Cái nâng niu ấy được Bác gửi gắm không chỉ cho con người mà còn cho thiên nhiên, cảnh vật, cuộc sống với sự trân trọng, yêu thương vô ngần qua rất nhiều các bài thơ Bác viết, ở đó không thể không kể đến thi phẩm mang tên “Cảnh khuya” – tiếng thơ yêu thiên nhiên, thương đất nước, đau quê nhà:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Chắc có lẽ với mỗi người dân Việt Nam dù sống ở bất kì nơi nào trên đất nước, dù có đi xa tận đâu khắp phương trời thì khi đến hai tiếng Bác Hồ cất lên đều thổn thức, ngậm ngùi, xúc động, tràn đầy yêu thương. Thương Bác vì cả cuộc đời lo dân yên, nước thái bình, yêu Bác bởi sứ mệnh nặng nề trên vai suốt bao năm tháng nhọc nhằn của dân tộc vẫn luôn được Người đau đáu trong tim, nghẹn ngào cho Bác mỗi đêm khi vạn vật chìm sâu vào giấc ngủ con người ấy, trái tim này vẫn nhức nhối vì chữ “non sông”. Chẳng thế mà, vào những năm tháng máu lửa, nơi chiến trường gian nan, trong đêm khuya không ngủ Người làm bạn với thơ, với trăng như gửi gắm nỗi niềm sâu thẳm tâm hồn mình, âm điệu của “cảnh khuya” cũng chính là một bản tình ca ngọt ngào say đắm như thế. Mở đầu nốt nhạc nơi trái tim dạt dào yêu thương của Bác là không gian vắng lặng, hoang vu, rộng lớn nơi rừng núi khiến mỗi chúng ta đều như ngây ngất trước vẻ đẹp tuyệt bích mà thiên nhiên ban tặng:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.

Có lẽ phải là một người nghệ sĩ tài hoa, cảm nhận vô cũng tinh tế và vi diệu trước từng khoảnh khắc của cuộc sống, cùng tấm lòng luôn mở rộng đón vận vật tràn ngập, ăm áp trong tim thì bức tranh thiên nhiên ở thơ Bác hiện lên mới đẹp đến vậy! Không tài hoa, tinh tế sao khoảnh khắc đêm huyền ảo, sương phủ kín, gió khẽ lay từng cành lá mà hiện lên bên trang thơ bỗng lung linh, rực rỡ và tràn đầy hào sảng như vậy. Bác so sánh “tiếng suối” vốn được cảm nhận bằng thính giác vậy mà giờ đây trở lên “trong” ngần như nhìn thấy tận đáy nước hiện ra rất ngọt ngào, thi vị tựa “tiếng hát xa” từ đâu đó vọng lại phá tan sự tĩnh mịch, cô đơn của lòng người trước màn đêm, đẩy lùi vắng lặng trả về quá khứ để đón nhận âm vang thật say sưa của cuộc đời ban tặng một cách đặc biệt nhất. Không những vậy, xưa nay ta vẫn biết thiên nhiên vốn được đem ra để làm chuẩn mực cho mọi cái đẹp, nét hay, vẻ thơ mộng ở cuộc sống này như Nguyễn Du đã từng so sánh:

Trong như tiếng hạc bay qua

Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.

Ấy thế mà, mọi chuẩn mực cũ đã được Bác thay đổi hoàn toàn, hiện đại, tinh tế hơn khi lấy con người và phải là nguồn sống từ con người trong vũ trụ này mới là đẹp nhất, đúng nhất cho mọi thước đo ở cuộc đời. Để rồi nghe tiếng thơ ta như tưởng tượng ra bóng dáng con người nhẹ nhàng, đằm thắm, đẹp đẽ hòa tấu cùng dòng suối mát trong hiện lên “xa” đấy mà như gần ngay đây, xua tan cái lạnh lẽo đêm trường, phá đi không khí rộng lớn nơi núi rừng khiến tâm hồn Bác khoan thai, từ tốn, tận hưởng những dư âm của đất trời ban tặng. Do đó, trên nền không gian bao la, thời gian canh khuya sắp sáng chỉ còn lại Bác cùng với sự quấn quýt thật đặc biệt của thiên nhiên tươi đẹp đan vào nhau, giao hòa, “lồng” ghép giữa “cổ thụ” với “trăng” và “hoa” khiến ta ngẩn ngơ mê đắm. Chẳng biết cảnh vật vô tình hay hữu ý mà hiện ra như một bức tranh duyên dáng, yêu kiều trong ánh vàng mênh mông toả ra bao trùm lên cây cổ thụ, bóng cây ấy lại dịu dàng phủ những nhành hoa. Khiến trăng trên cao giờ đây tròn vành vạnh, trăng như đang thách thức sự tối tăm, phô mình rực rỡ để rồi chiếu ánh sáng xuống khu rừng rộng lớn, đan vào nhau, từng vệt sáng xen qua kẽ lá tạo thành hoa rơi xuống đất, hay “trăng” đó, cây này cùng ôm ấp bao bọc lấy vẻ đẹp mỏng manh của loài hoa nhỏ bé trước sự lạnh lẽo, cô đơn mà màn đêm đem lại? Dù hiểu theo cách nào thì thiên nhiên cũng rất đỗi thơ mộng, hài hòa, đẹp đẽ làm lòng ta mê say, chất ngất trong hương vị lộng lẫy nơi rừng núi, thế nhưng nếu yêu, cảm, thấu thơ Bác nhiều hơn ta có thể thấy đây không phải là lần đầu tiên Bác viết về ánh trăng rực rỡ đến vậy, chẳng phải duy nhất Người nhắc tới nhiên nhiên quấn quýt thế kia, mà một bài thơ khác âm thanh của đất trời, sự sống cũng đã một lần được cất tiếng trong veo:

Rằm xuân lồng lộng trăng soi

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
(Rằm tháng giêng – Hồ Chí Minh)

Vạn vật trong vũ trụ đâu tự nhiên mà có, chẳng vô cớ mất đi và cũng không bao giờ rời rạc, vô nghĩa, tất cả chúng đều là một bản hòa tấu đẹp đẽ nhất mà trời đất đã ban tặng cho mỗi con người, do đó ta thấy trong thơ Bác dù hoàn cảnh, thời khắc nào Người cũng hướng lòng về thiên nhiên, cùng trăng, với cái đẹp bất diệt nơi thế gian này. Song, nếu bài thơ “Rằm tháng riêng” mở ra không gian bát ngát sông nước hữu tình, sự hòa quện của sắc xanh ở hương vị mùa xuân khiến dòng nước, nền trời cũng theo đó phơi phới tươi rạng rỡ, mát trong. Thì, quan sát kĩ hơn về nét thơ ở bài “Cảnh khuya” ta thấy việc sử dụng điệp từ “lồng” trong câu không chỉ đem đến cái mới lạ về ngôn từ mà còn tạo ra sự ấm áp, hòa lẫn cũng nhau của cảnh vật thật khó tách rời, phù hợp với không khí có chút lành lạnh của đêm khuya thanh vắng. Để rồi nhờ hình ảnh ấy khiến ta như nghe rõ tiếng, thấy thật hình, tưởng tượng thơ vẽ ra cả nhạc, cả hoa, cả trăng trong trái tim mỗi bạn đọc hôm nay cho đến mãi mai sau vậy.
Thiên nhiên đẹp nhất là “trăng”, cùng “hoa” trong sáng, thơ mộng, nhè nhẹ gieo vào lòng người những giây phút say mê, chất ngất, thì giờ đây trên nền thiên nhiên ấy con người mới là cái đẹp được tỏa sáng bới lòng yêu nước, bởi trái tim bao la, rộng lớn khiến đất trời, vạn vật phải cúi đầu hổ thẹn. Chẳng hộ thẹn sao trăng phô ánh sáng rực rỡ, hoa phơn phớt hương thơm ngọt ngào còn người trong cảnh ấy chỉ ung dung, bình thản vì:

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Có cái đẹp nào cao lớn, thiêng liêng hơn tấm lòng của người lãnh tụ vĩ đại trong đêm khuya? Có khoảnh khắc nào khiến ta nghẹn ngào hơn phút giây trái tim Bác mở ra cũng chính là thời điểm ta hiểu thấu nỗi đau của Người? Hóa ra, Bác chọn xuất hiện trong cảnh suối chảy, trăng soi là vì “lo nỗi nước nhà”, vì “chưa ngủ” được trước lầm than dân tộc còn ngổn ngang trong lòng, chứ chẳng hề thảnh thơi mà ngắm trăng làm thơ như biết bao thi sĩ mộng mơ khác trên đời. Thế nên, tiếng nhạc lòng Bác cất lời cũng là lúc bầu trời đủ khắc tạo vào vũ trụ chân dung một con người đứng đó sừng sững cao hơn cả màn đêm thăm thẳm, xa vời, chẳng phải in “người chưa ngủ” cứng nhắc, khô khan, đứng im mà Bác khiến ta thổn thức với những nét “vẽ” về Người mềm mại, đang suy tư, chuyển động như chính sự rạo rực của Bác về đất nước, non sông thời khắc này vậy. Đây cũng không phải lần duy nhất bác thổ lộ lòng mình trong đêm khuya, bởi người lãnh tụ ấy đã có nhiều đêm không ngủ, nhiều đêm trở trăn vì cuộc kháng chiến của dân tộc, cũng rất nhiều suy tư, khó cất lên lời mà chia sẻ cùng ai:

Một canh, hai canh, lại ba canh

Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng lành

Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt

Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh

Thế mới thấy dù trong khoảnh khắc nào tỉnh hay mơ, ngủ hoặc thức, ngắm cảnh và làm thơ thì trái tim chất chưa đủ đầy những yêu thương của Bác vẫn luôn hương về dân tộc, quê hương, tổ quốc, non sông một cách đẹp đẽ, cao cả vô ngần khiến ta cảm phục mãi không thôi.

Có thể nói, bài thơ khép lại với bao dư âm mênh mang lan toả, để rồi dù đã hơn một lần chúng ta xúc động trước tấm lòng cao cả, bao la của Bác nhưng khi đọc lại “Cảnh khuya” ta lại bồi hồi với những tâm tình mà Người luôn dành cho dân tộc. Thế nên, dù không có hình tượng mỹ lệ, song đọc từng vần, điệu, âm của tác phẩm “tình thơ, hương thơ, hồn thơ” cứ quyện lấy lòng ta mãi mãi đúng như Chế Lan Viên đã khẳng định về Người:

“Đoá hoa sen mặt đất tỏa hương trời

Hương nhân ái thấm vào hồn ta mãi”.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 16

Một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam trung đại là Bà Huyện Thanh Quan. Tác phẩm nổi bật của bà phải kể đến bài thơ “Qua Đèo Ngang”.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã khắc họa thiên nhiên nơi đèo Ngang tràn đầy sức sống:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Thời điểm mà Bà Huyện Thanh Quan bước đến đèo Ngang là khi “bóng xế tà” - kết thúc của một ngày. Đó là khi con người trở về nhà để nghỉ ngơi sau một ngày mệt mỏi. Trước mắt tác giả là thiên nhiên nơi đèo Ngang trần đầy sức sống. Cách sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” cho thấy sự sống đang trỗi dậy. Khung cảnh đèo Ngang được khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động.

Và trong nền bức tranh thiên nhiên đó, con người xuất hiện. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu thơ tiếp theo: “lom khom - tiều vài chú”, “lác đác - chợ mấy nhà” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi, vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Cách sử dụng nhằm nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người giữa thiên nhiên rộng lớn. Từ đó, sự cô đơn của tác giả càng được thể hiện rõ hơn.

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”

Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” nghe da diết đã còn bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương.

Đến câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”

Cảnh vật thiên nhiên thì rộng lớn, còn tác giả chỉ có “một mảnh tình riêng”. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Nếu trong “Bạn đến chơi nhà”, Nguyễn Khuyến dùng cụm từ “ta với ta” - “Bác đến chơi đây ta với ta” để diễn tả tình bạn tri kỉ, thắm thiết. Thì trong bài Qua đèo Ngang, cụm từ “ta với ta” càng bộc lộ thêm nỗi cô đơn của tác giả.

Qua Đèo Ngang gửi gắm nỗi lòng yêu quê hương, đất nước tha thiết của Bà Huyện Thanh Quan.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 17

Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã từng tâm sự về khúc nhạc quê hương qua những câu thơ của mình, ông viết:

Quê hương là gì hả mẹ

Mà sao cô giáo bảo phải yêu

Quê hương là gì hả mẹ

Ai đi xa cũng nhớ nhiều?

Có lẽ với mỗi chúng ta hai tiếng “quê hương” thân thương gần gũi quá, quen thuộc đến nỗi ta chẳng thể định nghĩa nổi nó là gì, không thể đo đếm cho đủ nhiều ít bao nhiêu trong trái tim mỗi con người Việt Nam. Chỉ biết rằng, nó như dòng suối mát trong tắm mát hồn ta từ tuổi ấu thơ, tựa rặng tre đầu ngõ rì rào trong gió làm dịu những con nắng hè oi ả, thế nên chẳng biết từ bao giờ quê hương bỗng trở thành suối nguồn thơ ca của biết bao thi sĩ để lại cho đời muôn vàn nhưng ngân vang tha thiết, một trong số đó không thể không kể đến “Bức tranh thu” của Hà Thu.

Nếu ai đó hỏi tôi quê hương trong tim bạn là gì? Hình dáng ra sao mà mỗi người dân Việt Nam đều yêu đến vậy? Chắc chắn tôi sẽ mỉm cười tự hào trả lời, quê hương đối với tôi là nơi có cha mẹ, gia đình, tuổi thơ êm đềm gắn liền với cánh diều bay rập rờn trên khoảng trời lộng gió, là bờ đê xanh mát thủng thẳng vài chú trâu gặm cỏ, thong dong ngắm vệt nắng ngang trời. Thế nên, chẳng cần biết hình dáng nó ra sao, to lớn nhường nào nhưng hai chữ quê hương vẫn cứ âm thầm len lỏi vào tâm hồn mỗi người Việt Nam tự bao đời. Để rồi, hòa trong nhịp chảy ấy, khẽ rót vào những vần thơ, câu hát như tiếng lòng mà Hà Thu đã từng nhẹ nhàng cất tiếng là âm vang:

Quê hương đẹp mãi trong tôi

Dòng sông bên lở bên bồi uốn quanh

Cánh cò bay lượn chòng chành

Đàn bò gặm cỏ đồng xanh mượt mà

Sáo diều trong gió ngân nga

Bình yên thanh đạm chan hòa yêu thương

Tiếng thơ mở ra mà biết bao thương nhớ ào ạt trong lòng ta về hình ảnh quê hương thân thương, tha thiết. Chẳng thế mà, thi sĩ phải thốt lên lời yêu thương, say đắm mảnh đất về nơi mình sinh ra, khoảng trời đã in dấu bao kỉ niệm tuổi thơ ngọt ngào qua lời khẳng định “đẹp mãi trong tôi”, sống trọn vẹn, nguyên sơ trong trái tim này cho tới khi không còn được nhìn ngắm bầu trời xanh thẳm kia nữa. Thế mới biết, mặc dù chẳng nói ra, nhưng chắc chắn nhà thơ cũng như tất cả chúng ta khi được bộc bạch lòng mình thì sẽ đều thể hiện tấm lòng thiết tha, đau đáu về nơi yên bình ấy của lòng mình. Bởi vậy, sau lời khẳng định như một tiếng vọng lại của sông núi về tình yêu quê hương, nên qua biện pháp liệt kê nhà thơ đã bắt đầu hành trình đưa ta về với bức tranh quê tuyệt bích mà khó có một ngôn từ nào đủ sức mạnh để diễn tả hết vẻ đẹp của nó. Chỉ biết rằng, đó là khúc nhạc trong veo với “dòng sông” hiền hòa, chảy quanh đồi bãi, ôm trọn làng nhỏ suốt bao đời trong phép đối cân xứng “bên lở”, “bên bồi” để gom góp thành bờ bãi, đắp phù sa nuôi dưỡng làng quê nhỏ bé biết tự bao đời. Để rồi, đọc câu thơ mà ta như ru mình trong những lời hát tâm tình ngọt ngfao của khúc nhạc ca dao năm nào đã được thổi hồn theo làn gió:

Sông kia bên lở bên bồi
Bên lở thì đục bên bồi thì trong
Sông kia nước chảy đôi dòng
Biết rằng bên đục bên trong bên nào

Chỉ có điều nếu ca dao rạch ròi phân tách làn nước đục trong giữa hai bờ bao quanh khúc sông nhỏ, thì Hà Thu lại đặc biệt hơn, thi sĩ không khắc họa làn nước mát lành, được “uốn quanh” bởi bãi đất xanh tốt, như quê hương biết bao đời tựa người mẹ dịu dàng, hiền hòa vẫn âm thầm ôm ấp từng con người nơi đây vậy. Chẳng những thế, đến với bức tranh chan chưa nỗi nhớ nơi chôn rau cắt rốn của chính mình, nhà thơ còn nhẹ nhàng điểm xuyết khung cảnh yên bình của những buổi trưa vàng yên ả vài ba “cánh cò” cõng nắng qua sông, vội vã “chòng chành” chẳng vững chắc ấy mà sao đáng yêu quá! Từ lấy “chòng chành” vì thế hiện lên trên trang thơ bỗng thật đặc biệt, thi vị và nhiều ý nghĩa, phải chăng nó không chỉ khắc họa nét đẹp chao nghiêng cánh của con cò, hay ẩn sau hình ảnh ấy còn gợi nét tần tảo của những người thôn quê phồn hậu, là bóng dáng của cả miền nhớ trong trái tim mỗi người xa quê giống như có thi sĩ đã viết:

Cánh cò chở gió quê hương
Chở lời ru mẹ từ miền ấu thơ
Chở hơi sương sớm mịt mờ
Chở chiều hoang phế bơ vơ một mình.

Có lẽ dù cánh cò nhỏ ấy bước vào trang thơ của Hà Thu với thông điệp ra sao thì cũng thật đặc biệt và đẹp đẽ, khiến ta say mê mà đắm mình trong cảnh bình yên nơi làng quê bình dị ấy. Đàn cò giờ đây như phím đàn lúc trầm lúc bổng, tựa làn khói trắng vẽ hình lên tấm thảm xanh khổng lồ, rồi góp cùng khung trời mộng mơ, yên ả, nhà thơ đã khẽ đưa bút vẽ lên trời biếc vài cánh diều tuổi thơ năm nảo năm nao đang ngân nga trong gió điệu khúc du dương về cuộc sống ngọt ngào, gọi ai đó quay về mà vui, nhớ da diết biết bao kí ức đã từng trôi qua chẳng thể trở lại. Để sau đó, hướng theo dòng chảy của ý thơ, ánh mắt thi nhân chậm lại neo đậu nơi cánh đồng xanh mượt mà, mơn mởn cỏ soi mình trong nắng với “đàn bò” thủng thẳng, ung dung “gặm cỏ” như gợi nét no đủ, trù phú, giàu có mà thật ấm áp nơi làng quê nép mình ven sông. Thế mới thấy, cái tài tả cảnh của thi sĩ không chỉ bằng ngôn từ tinh tế mà có lẽ được cất lên từ chsinh tấm lòng và trái tim tha thiết, luôn thủy chung một lòng hướng về quê hương “thanh đạm”, giản dị, trong veo như nước mùa thu mà lại luôn ấm áp “chan hòa” tình nghĩa, đủ đầy những “yêu thương” của tình người ăm áp ngập tràn, đủ phủ lấp mọi nhọc nhằn, vất vả, gian lao. Có lẽ, thi ca không ít những vẫn thơ viết về quê hương, nhưng êm ả tựa cơn gió mát, ngọt ngào như lời ru trong tâm tình của Hà Thu thì quả là hiếm hoi và đặc biệt, chẳng thế mà cái lạ ấy vượt qua biết bao kiệt tác để len lỏi vào tim ta khiến ta nhớ mãi không thôi.

Gió cứ mang cánh diều lên cao, mưa chảy hết cát bụi, nhộn nhịp của đời sống, nắng hanh khô bờ mi ướt lạnh nơi lá non còn đọng vài giọt sương đêm, thế nhưng chắc chắn dù vạn vật có thể đổi thay, trăm sự sống có thể biến mất chỉ có tình yêu gia đình, quê hương nơi trái tim con người là sẽ mãi vẹn nguyên như ban đầu. Chẳng vậy mà, trở về kí ức của làng quê yêu dấu Hà Thu mới có dịp bày tỏ lòng mình để ngợi ca, bộc bạch hết tâm tình tha thiết, say đắm về nguồn sống của nơi mình sinh ra trong lời hát:

Bức tranh đẹp tựa thiên đường

Hồn thơ trỗi dậy nặng vương nghĩa tình.

Có lẽ, tác giả không được nhắc đến với cách sử dụng ngôn từ độc đáo, hay nhất về quê hương, nhưng chắc chắn tình cảm yêu thương mà thi sĩ dành cho mảnh đất in dấu tuổi thơ của mình sẽ còn đọng lại mãi trong trái tim ta với bức tranh trù phú, lộng lẫy, nhưng cũng dung dị qua phép so sánh “đẹp tựa” chốn “thiên đường”, bồng lai tiến cảnh chí có trong miến cổ tích của những giấc mơ mà nhà thơ mang lại. Lời khẳng định ấy, cũng chính là tiếng gọi từ trái tim nhà thơ đang mời chào bạn đọc về với thiên nhiên thanh bình nơi mình sống, hay ẩn sau đó còn chất chứa âm vang khơi gợi cảm xúc của chính tâm hồn thi sĩ, để rồi từ đó cất cánh bay cao trên ngòi bút để lại cho đời những áng thi ca “vương” vấn mãi, một “nghĩa tình” đẹp đẽ, dạt dào sức sống về quê hương.

Người xưa nói “hãy xúc động hồn thơ để ngọn bút có thần”, và có lẽ với nỗi niềm xúc động dâng trào một cách mãnh liệt xuất phát từ lòng yêu quê hương thiết tha, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh quê hương mang dáng điệu, tâm hồn, hình ảnh bằng một ngọn bút có thần vô cùng độc đáo. Thế nên, tác phẩm “Bức họa quê hương” của Hà Thu khép lại mà dư âm vẫn còn vương vấn trong tâm hồn mỗi bạn đọc, khiến ta thầm cất lời cảm ơn, trân trọng tiếng thơ của tác giả đã giúp mỗi chúng ta nhận ra vẻ đẹp dung dị, gần gũi mà gắn bó của miền quê yêu dấu luôn trong trái tim mình!

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 18

Trương Nam Hương là một nhà thơ khá nổi tiếng. Một trong những tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến là bài thơ Trong lời mẹ hát:

Mở đầu bài thơ, tác giả gợi nhắc về tuổi thơ của chủ thể trữ tình - người con:

“Tuổi thơ chở đầy cổ tích
Dòng sông lời mẹ ngọt ngào
Đưa con đi cùng đất nước
Chòng chành nhịp võng ca dao”

Khổ thơ gợi liên tưởng về hình ảnh người mẹ đang bế đứa con nằm trên chiếc võng. Từng nhịp võng chòng chành, tiếng mẹ hát ru vang lên ngọt ngào đã đưa con vào giấc ngủ.

Tiếp đến, tác giả đã nêu ra những hình ảnh xuất hiện trong lời ru của mẹ, đầy quen thuộc và thân thương:

“Con gặp trong lời mẹ hát
Cánh cò trắng, dải đồng xanh
Con yêu màu vàng hoa mướp
“Con gà cục tác lá chanh”.

Đó là cánh đồng xanh mướt, cánh cò trắng bay lượn. Đó là những màu vàng của hoa mướp, con gà cục tác, lá chanh. Đó còn là lũy tre huyền thoại, dây trầu, vầng trăng hay hương cau. Tất cả đều thuộc về quê hương quen thuộc của con.

Nhắc đến lời ru, người con nhớ về hình ảnh của mẹ hiện lên với công việc vất vả, cuộc đời lam lũ:

“Con nghe thập thình tiếng cối
Mẹ ngồi giã gạo ru con
Lạy trời đùng giông đừng bão
Cho nồi cơm mẹ đầy hơn…

Con nghe dập dờn sóng lúa
Lời ru hóa hạt gạo rồi
Thương mẹ một đời khốn khó
Vẫn giàu những tiếng ru nôi.

Áo mẹ bạc phơ bạc phếch
Vải nâu bục mối chỉ sờn
Thương mẹ một đời cay đắng
Sao lời mẹ vẫn thảo thơm.”

Cả cuộc đời mẹ luôn vì con. Hình ảnh “áo mẹ bạc phơ bạc phếch” cho thấy nỗi vất vả, đắng cay của mẹ. Và người con lại thêm thương mẹ nhiều hơn.

“Thời gian chạy qua tóc mẹ
Một màu trắng đến xôn xao
Lưng mẹ cứ còng dần xuống
Cho con ngày một thêm cao”

Thời gian chảy trôi qua tóc mẹ, làm cho mái tóc xanh mượt giờ trở nên bạc trắng, tấm lưng thẳng giờ đã còng dần xuống. Dấu vết của thời gian đã in hằn lên cơ thể của mẹ. Và mẹ càng già đi thì cũng là lúc con ngày càng trường thành.

“Mẹ ơi trong lời mẹ hát
Có cả cuộc đời hiện ra
Lời ru chắp con đôi cánh
Lớn rồi con sẽ bay xa…”

Người con đã bộc lộ những tình cảm chân thật của mình dành cho người mẹ. Lời ru của mẹ chính là sức mạnh, chắp cánh cho con bay xa hơn. Dù có bay xa đến đâu, mẹ vẫn dõi theo con, động viên và chờ đợi con trở về trong vòng tay âu yếm.

Như vậy, bài thơ Trong lời mẹ gửi gắm một tình mẫu tử thật thiêng liêng, đẹp đẽ. Trương Nam Hương đã đóng góp thêm một bài thơ hay viết về mẹ.

Bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích - mẫu 19

Có nhận định cho rằng “Không chỉ yêu thương đồng cảm, bằng sức sống mãnh liệt và thiết tha với cuộc sống, Hồ Xuân Hương đã truyền sức sống, lòng yêu cuộc sống cho những người cùng giới với mình. Do đó thơ Hồ Xuân Hương thể hiện một bản lĩnh mạnh mẽ”, phải chăng cái mạnh mẽ của nữ sĩ họ Hồ chính là thời khắc bà sẵn sàng phá tan lề lối, xiềng xích bửa vây người phụ nữ để đòi hỏi tự do, hay vùng lên đấu tranh với những chất chứa quá nhiều phẫn uất trong kiếp “lấy chồng chung” đeo bám cuộc đời bà và những người phụ nữ như bà suốt bao năm tháng qua. Có lẽ dù sao đi nữa thì tiếng thơ của “bà chúa thơ Nôm” năm nào vẫn là một nốt nhạc đẹp, đầy thổn thức gieo vào trái tim bạn đọc hàng thế kỉ cho tới tận bây giờ, thế nên khi nhắc tới thơ ca mà thi sĩ ấy đã gửi gắm vào đời, ta không thể không nói đến tiếng lòng cất lên từ một người phụ nữ bênh vực cho những người phụ nữ, một trong những vần điệu hay nhất về âm vang ấy phải kể là thi phẩm “Bánh trôi nước” – niềm kiêu hãnh, tự hào về cái đẹp ở đời.

Thơ là đời, thơ mang nhựa sống tâm hồn, đem cái đẹp trong tim và nâng niu khát vọng mạnh mẽ đáng trân trọng. Nếu nói như vậy thì thơ Hồ Xuân Hương quả là giọt nước trong veo giữa cả một dòng suốt vẩn đục, tựa vì sao nhỏ bé, kiên cường trước màn đêm thăm thẳm, bao la. Chẳng thế hay sao mà khi viết về người phụ nữ nét bút nữ sĩ luôn hướng đến khai thác vẻ đẹp toàn bích ở mọi góc độ khiến ta phải thán phục:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non.

Có lẽ khi đọc những vần thơ đầu nếu một người chưa từng biết đến Hồ Xuân Hương, không nghe đôi phím nhạc gai góc, ngang ngạnh trong các sáng tác của bà sẽ dễ dàng nói đây là bài ca dao quen thuộc với chủ đề “thân em” hay được dùng trong văn học dân gian. Thế nhưng, người tinh tế và say mê cái đẹp trong các thi phẩm của “Bà chúa thơ Nôm” sẽ dễ dàng phát hiện ra, dù lấy cùng đề tài với ca dao xưa mà thơ của bà vẫn khác quá, lạ lắm, độc đáo vô cùng. Chẳng độc đáo sao dân gian ví von về người phụ nữ thường so sánh có khi nâng niu như:

“Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giũa chợ biết vào tay ai?”

Hay lúc xót xa với:

“Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào giếng nước hạt ra ruộng cày”

Rồi tủi cực cùng:

“Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”

Song cái hay của thi sĩ họ Hồ là ở chỗ, có rất nhiều hình tượng được người xưa đem ra mổ xẻ, ẩn ý nói tới người phụ nữ giống “hạt mưa”, “tấm lụa”, “giếng nước”... thế mà hình ảnh của bà lại thường gần gũi, thân thuộc đến mức ta như thấy nó mỗi ngày tựa chiếc “bánh trôi”, hay “quả mít”, nhưng lại đan xen chút lạ lẫm quá vì chả ai đem ra mà nói như bà cả. Vậy mới thấy, dù đi cùng một con đường song nhà thơ vẫn dành cho mình một khoảng trời thật khác biệt, dù chọn thi liệu đã quá cũ lại đem đến hơi thở đời sống lại rất mới. Cái mới ấy xuất phát từ tư tưởng dám phản kháng khẳng định, gai góc, khinh đời của một người phụ nữ mà dân gian vẫn thường nói nhìn với đôi mắt chê bai “Liễu yếu đào tơ”, “mặt hoa da phấn” không làm được gì. Do đó, khi đọc những tiếng nhạc đầu tiên trong bài thơ “Bánh trôi nước” ta bỗng như du mình về quá khứ với “thân em”, cùng thân phận bèo bọt, rẻ rúm, chẳng đáng giá của người phụ nữa trong xã hội xưa được hiện lên đẹp đẽ thanh sơ qua hình ảnh “Vừa trắng lại vừa tròn” thật đặc biệt. Câu thơ có vẻn vẹn bảy chữ ngắn ngủi, ấy vậy mà thi sĩ dành riêng hai tiếng để nói tới sự “vừa” vặn, hài hòa đáng yêu của người phụ nữ, đó là cái “vừa” xinh với bóng dáng “trắng” hồng nơi má đào, hay mang nét đẹp trong “trắng” tinh khôi tựa nắng sớm mai về cốt cách thanh tao khiến bao người mê đắm. Dù là cách hiểu nào thì cặp từ hô ứng “vừa- vừa” ấy cũng thật khéo phô vẽ một cách đầy ẩn ý về hình ảnh người phụ nữ hiện nên giữa dòng đời đầy tối tăm, đau đớn này. Mặt khác, mỗi người đọc hôm nay khi nghe âm điệu của tiếng “tròn” cất lên trong lời thơ, cũng đầy băn khoăn và bối rối. Chúng ta sẽ ngạc nhiên bởi sao cô gái hiện trên trang thơ ấy đầy đặn, tròn trịa, kì lạ quá, thât khác với dáng vẻ “mình hạc sương mai” mà ta vẫn luôn hướng đến ở thực tại. Song nếu đắm mình trong âm hưởng và văn hóa của thơ ca xưa ta sẽ hiểu rằng hình mẫu lí tưởng mà con người trong văn học Trung đại hướng tới phải là vẻ phúc hậu, đầy sức sống tựa Thúy Vân mà đại thi hào Nguyễn Du từng khơi lên:

“Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”

Do vậy, việc khai phá và khắc họa bóng dáng về hình ảnh người phụ nữ mà Hồ Xuân Hương hướng tới đó là cái đẹp chuẩn mực đong đếm đủ đầy cả về hình thức lẫn tâm hồn khiến ta nâng niu, trân trọng. Song, không chỉ dừng lại bằng nét chấm phá về “thân em” trong câu thơ, mà thi sĩ còn mượn quá trình miêu tả việc làm ra một chiếc bánh trôi thông thường qua thành ngữ “bảy nổi ba chìm” để nói lên số phận đầy sóng gió, bi kịch, ngổn ngang của biết bao cô gái khi xưa. Chẳng bi kịch ngổn ngang sao, chiếc bánh trôi kia phải trải qua hết nóng bức, sục sôi đến ngâm mình trong lạnh giá, lúc “nổi” lúc “chìm” qua bao thời gian mới được trắng trong, khác nào người phụ nữ đứng trước bão táp mưa sa của cuộc đời, giông tố bủa vây mà hiên ngang nhận lấy, sẵn sàng vật lộn cùng với “nước non” đấu tranh trên nền số phận? Vậy nên, đọc tiếng thơ mà ta như đọc cả một bầu trời ngổn ngang những tủi hờn, đau đớn của nữ sĩ cũng như những người chung phận giống bà, để rồi thấm, đau, hiểu, và trân trọng cho họ.

Vạn vật trong vũ trụ sinh ra thật đặc biệt, chẳng đặc biệt sao mà dáng vẻ của hình ảnh này lại được liên tưởng mà gửi gắm cái đẹp ẩn ý, sâu xa nơi khác. Thế nên, chiếc bánh trôi hiện hữu trong bài thơ cũng khiến ta có nhiều suy ngẫm, khám phá để mở hết lớp ngôn từ mà tận hưởng trọn vẹn ý thơ đẹp đẽ nơi thi sĩ dâng tặng cho đời. Như ta biết trong văn hóa ẩm thực Việt Nam chiếc bánh trôi nhỏ bé, giản dị được làm vào ngày 3 tháng 3 âm lịch hay còn gọi là tết Hàn Thực, với ý nghĩa dâng lên tổ tiên tựa một biểu hiện của lòng biết ơn, sự thành kính và tri ân. Mặc dù ngày tết Hàn Thực bắt nguồn từ Trung Quốc nhưng khi sang nước ta, nó đã được Việt hóa theo lối sống của dân tộc. Hơn nữa, bánh trôi nước hay bánh chay đều có nguồn gốc từ Việt Nam chứ không phải bắt nguồn từ Trung Quốc như nhiều người vẫn nghĩ, với hình ảnh bánh trôi, bánh chay giống như bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ trong truyền thuyết năm nào. Thế mà, giờ đây chiếc bánh tròn xinh ta vẫn hay bắt gặp lại mang một thông điệp thật đặc biệt gắn liền với người phụ nữa ở xã hội xưa, đẹp đẽ, trắng trong, song đau xót thay họ lại chẳng thể tự quyết định số phận của cuộc đời mình bởi:

“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

Tiếng thơ vang lên ta như bắt gặp hình ảnh bàn tay khéo léo của người làm bánh hiện ra khẽ lăn đều, xoay thật tròn với sự pha bột vừa vặn để tạo nên một thành phẩm đẹp mắt và thơm ngon. Song ẩn ý sau xa hơn hình ảnh này còn gửi gắm nỗi niềm thật khó giãi bày, vô định về số phận trái ngang của người phụ nữ nếu họ may mắn gặp được người cẩn thận, chu đáo, tỉ mỉ thì trân trọng, yêu thương như nâng niu chiếc bánh tròn trịa, trắng ngần. Kẻ vô tâm, hời hợt, thì chỉ mang đau thương, thổn thức, uất hận cho họ tựa sự vụng về để “rắn” hay “nát” của người “nặn” ra chiếc bánh xấu xí, méo mó. Chiếc bánh kia muốn đẹp hay không còn phải nhờ vào cái tâm của người làm ra nó. Người phụ nữ cũng vậy họ hạnh phúc hay không lại chẳng thể tự quyết định cho chính mình, đó là nỗi đau, niềm thương, tiếng khóc gửi đời và xót mình của Hồ Xuân Hương năm nào trong cái xã hội trọng nam khinh nữ lúc bấy giờ. Sinh ra làm phận nữ nhi đã là một thiệt thòi, lại càng bất hạnh khi niềm vui của bản thân cũng không thể lựa chọn, nếu có phúc phần may mắn, lấy được người chồng biết sẻ chia, yêu thương thì cuộc đời họ mới đón an nhiên. Ngược lại, gặp phải người chồng độc đoán,ích kỉ thì cuộc đời họ sẽ là những đắng cay, bất hạnh. Đọc đến đây, ta bất chợt thấy lòng lặng lại, nhói đau khi nhớ đến lời thơ thi sĩ cũng từng viết về sự nổi trôi, vô định mà cuộc đời đem đến cho bà:

“Quân tử có thương thì đóng cọc

Xin đừng mân mó nhựa ra tay”

(“Quả mít” – Hồ Xuân Hương)

Cái hay và đẹp của cả hai bài thơ vang lên giữa bầu trời thi ca Trung đại chính là lời khẳng định về thân phận, giá trị và phẩm hạnh của người phụ nữ. Song nếu ở bài thơ “Quả mít” gắn với sự gai góc, sắc lẹm của một tâm hồn đã chịu nhiều tổn thương sâu sắc cất lên đanh thép, đầy dọa nạt “quân tử” là người hiểu biết, có học nếu yêu “thương” thật lòng mà thưởng thức cái ngon của múi mít kia thì nên trân trọng giữ gìn, như nâng niu người phụ nữ của cuộc đời mình, còn không chỉ là đo, đếm “mâm mó” cho vui sẽ chỉ nhận lấy “nhựa ra tay” thật khó chịu, kết quả đau đớn phải trả giá cho những chơi đùa, bông cợt mà họ dành cho những người phụ nữ xuất hiện trong cuộc đời mình. Thì “bánh trôi nước” lại là lời khẳng định nhẹ nhàng, duyen dáng ý nhị hơn bao giờ hết, không chấp nhận sự khinh rẻ, coi thường của người đời và xã hội, song người phụ nữ hiện lên trang thơ lại khẳng định, dù rơi vào hoàn cảnh nào, dù bị nhào nặn “rắn” hay “nát” thì họ sẽ không bao giờ để mất đi nét đẹp trong tâm hồn mình, họ vẫn là họ kiêu sa, lộng lãy và tràn đầy sức sống giống như cái “son” sắt, ngọt ngào của chiếc bánh trôi trắng tròn trong “non nước” này. Có thể thấy, khép lại trang thơ là khép lại bao trăn trở, băn khoăn về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa nhưng lại mở cho ta những cánh cửa thật đặc biệt bước vào tâm hồn họ để thấy rằng dẫu có thế nào, số phận chông chênh ra sao những người phụ nữ vẫn luôn giữ một tâm hồn, cốt cách cao đẹp, trong sạch ” tấm lòng son” đầy bản lĩnh.

Bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt trang trọng, hình ảnh sinh động mang nhiều liên tưởng độc đáo, Hồ Xuân Hương đã bộc lộ tâm nguyện muốn lên tiếng bênh vực cho chính mình và những người phụ nữ như mình trong tác phẩm “Bánh trôi nước” một cách rất độc. Trang thơ ấy không chỉ là tiếng lòng thiết tha, sự giãi bày và gửi gắm tâm tư của nữ sĩ mà còn là sợi dây kết nối những tâm hồn đồng điệu, là khúc ca sẽ mãi ngân lên trong dòng chảy thời gian vô tận này. Đúng như quy luật tồn tại và giá trị bất hủ của thơ ca bao đời nay: “Từ bao giờ cho đến bây giờ, từ Hômerơ cho đến Kinh thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế” (Hoài Thanh).

Xem thêm các bài Soạn văn 8 Chân trời sáng tạo hay nhất, ngắn gọn khác:

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 8

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Soạn văn 8 hay nhất, ngắn gọn của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sgk Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo Tập 1 và Tập 2 (NXB Giáo dục).

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Tài liệu giáo viên