10+ Phân tích bi kịch của người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương
Viết bài văn phân tích bi kịch của người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Phân tích bi kịch của người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương (mẫu 1)
- Dàn ý Phân tích bi kịch của người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương
- Phân tích bi kịch của người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương (mẫu 2)
- Phân tích bi kịch của người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương (mẫu 3)
- Phân tích bi kịch của người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương (mẫu 4)
10+ Phân tích bi kịch của người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương
Phân tích bi kịch của người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 1
Nhà thơ Huy Cận từng viết:
'Chị em tôi, như nắng lịch sử rực rỡ
Nắng cho đời, đó là nắng cho thơ'
Hiện nay, vị trí của phụ nữ được ca ngợi và tôn vinh rất nhiều. Hình ảnh phụ nữ Việt Nam đã góp mặt ở nhiều lĩnh vực và để lại những dấu ấn sáng tạo trong văn thơ hiện đại. Tuy nhiên, đáng tiếc là trong xã hội cũ, phụ nữ phải trải qua những số phận đau đớn và đáng thương: Văn học thời đó thường nhắc đến số phận của phụ nữ, và một ví dụ điển hình là nhân vật Vũ Nương trong 'Chuyện người con gái Nam Xương'.
Người phụ nữ xưa thường được miêu tả trong văn học với vẻ đẹp. Từ ngoại hình đến tính cách, mỗi người mang một vẻ đẹp riêng, mỗi thân phận có những đặc điểm ngoại hình độc đáo.
Tác phẩm 'Chuyện người con gái Nam Xương' là lời nói đồng cảm, tôn trọng, và khen ngợi của tác giả dành cho con người, đặc biệt là phụ nữ. Câu chuyện xoay quanh cuộc đời và số phận đau thương của Vũ Thị Thiết, một cô gái xinh đẹp và dịu dàng từ Nam Xương. Nguyễn Dữ không vẽ Vũ Nương như một người phụ nữ yêu nước hay một mỹ nhân nơi cao cấp. Nàng là người phụ nữ bình thường với ước mơ che lấp cuộc sống - điều làm đầy đẹp cuộc sống của nàng.
Mỗi bước đi trong câu chuyện là cơ hội để hiểu rõ hơn vẻ đẹp của Vũ Nương được tác giả tập trung thể hiện. Trong những ngày khó khăn, mặc dù chồng là Trương Sinh, một người giàu có và nghi ngờ, nàng khéo léo duy trì sự hòa hợp trong gia đình. Khi chồng đi lính, ước mơ lớn nhất của nàng không phải là sự nghiệp phồn thịnh mà là ngày chồng trở về mang theo hai chữ 'bình yên'.
Khi chồng phải xa, Vũ Nương trở thành một người mẹ ân cần, làm dâu chu đáo, chăm sóc mẹ chồng vô cùng tận tình. Trong những lúc mẹ chồng yếu đuối, hay khi mẹ chồng qua đời, Nguyễn Dữ viết những lời khen ngợi đẹp nhất về Vũ Nương, đặt vào miệng chính mẹ chồng nàng những lời ý nghĩa: 'sau này, khi trời đánh giá lòng lành, phúc đức sẽ ban cho, giống như dòng nước tươi tốt, con cháu đông đảo, xanh tươi đẹp không kém con nước, chắc chắn con không làm phụ lòng mẹ'.
Người phụ nữ hiếu nghĩa và tận tụy không chỉ là người mẹ mẫu mực mà còn là người vợ trung thành. Trong thời gian chồng đi chiến trận, người phụ nữ trẻ xinh đẹp này luôn chờ đợi chồng, nuôi dưỡng con: 'Ba năm chia lìa giữ cho trái tim không vết thương, nàng vẫn giữ vững vẻ đẹp trẻ trung, không hề chút nỗi buồn'. Dưới bàn tay của Nguyễn Dữ, Vũ Nương trở thành người được mọi người yêu mến bởi tính cách và phẩm hạnh của mình. Trong tâm hồn ông, Vũ Nương là người của gia đình, đức hạnh của nàng là đức hạnh của một người vợ hiền lành, làm dâu chu đáo, người yêu thương cuộc sống gia đình và nỗ lực giữ gìn, bảo vệ hạnh phúc. Có một câu tục ngữ nó
'Hoa thơm là nhờ sự chăm sóc
Người ngoan được mọi người quý trọng'
Hay:
'Công lao của gái thì chồng không nên phụ lòng'
Nhưng công lao của Vũ Nương không chỉ bị lãng quên mà còn phải đối mặt với sự đắng cay của số phận. Nàng đơn độc chăm sóc gia đình, đối mặt với gánh nặng vật chất mà không một ai hiểu. Khi giặc bị đánh bại và chồng trở về, hạnh phúc dường như trở thành ác mộng khi bóng tối của ghen tuông bao trùm, khiến Trương Sinh lạc lõng, mù quáng. Một lời nói ngây thơ của đứa trẻ đã làm anh hiểu lầm vợ mình. Trương Sinh không chỉ không lắng nghe mà còn tàn bạo và đuổi Vũ Nương đi mà không cho nàng giải thích. Bị đẩy vào bước đường tuyệt vọng, Vũ Nương không còn cách nào khác ngoài việc tìm đến cái chết để kết thúc cơn ác mộng. Bi kịch của Vũ Nương không chỉ là trường hợp riêng biệt mà là biểu tượng của số phận đau khổ của nhiều phụ nữ, là kết quả của nhiều nguyên nhân do chế độ phong kiến tạo ra. Nguyễn Dữ đã đưa ra một khía cạnh tổng quan về đau khổ của người phụ nữ, như đã được thể hiện trong câu ca dao
'Người phụ nữ giống như hạt mưa xa
Hạt rơi xuống giếng, hạt trải qua đồng'
Trong tác phẩm này, sự sáng tạo của tác giả hiển nhiên qua việc mô tả chi tiết về cái bóng oan trái để phê phán xã hội phong kiến và thể hiện số phận bi đát của người phụ nữ trong xã hội đó. Cái bóng là một chi tiết nghệ thuật độc đáo, đầy ý nghĩa. Chi tiết này được sử dụng để thắt nút câu chuyện, đẩy các mâu thuẫn đến đỉnh điểm. Cái bóng xuất hiện trong lời đùa của Vũ Nương khi nói chuyện với con. Trong những ngày xa chồng, Đản luôn hỏi về bố. Vũ Nương giữ cho con một ý niệm đầu tiên về cha để con không cảm thấy thiếu vắng, luôn thấy hình ảnh cha gần bên. Vũ Nương chỉ vào cái bóng trên tường và nói với con rằng đó là cha Đản. Trong những ngày xa cách, nàng luôn nghĩ về chồng, trong suy nghĩ của nàng, chồng luôn ở bên cạnh, vợ chồng như hình với bóng. Vũ Nương chỉ vì muốn con vui mừng, giảm bớt buồn phiền và giúp con vượt qua cảm giác cô đơn khi lớn lên. Tuy nhiên, không ngờ trò chơi nhỏ này đã làm tan nát cuộc sống của nàng, khiến nàng phải đối diện với hàng loạt nỗi đau và sự bất hạnh. Cái bóng đã đưa đến cho nàng nhiều đau khổ, sỉ nhục. Chính vì cái bóng mà nàng mất đi chồng, Đản mất đi mẹ
Nếu truyện được kể theo trình tự thời gian, chi tiết về chiếc bóng nên xuất hiện trước khi Trương Sinh trở về. Tuy nhiên, Nguyễn Dữ lại có sự ém ái khéo léo đặc biệt. Ông giữ lại chi tiết này, rồi đột ngột hé mở ở một điểm đặc biệt, tạo ra cơn bão tinh thần và khuấy động cảm xúc. Không còn gì ngăn cản được sự tức giận của Trương Sinh, kẻ ghen tuông. 'Thú vui nghi gia nghi thất, niềm hạnh phúc duy nhất, ước mong cuối cùng của Vũ Nương bị phá hủy trong chớp nhoáng. Chi tiết về cái bóng, mặc dù không phải là một nhân vật, nhưng nó đã đóng góp quan trọng vào câu chuyện, trở thành một chi tiết nghệ thuật quan trọng khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn. Cách mà chi tiết cái bóng thắt nút và mở nút câu chuyện đã làm cho cái chết của Vũ Nương trở nên thêm bi đát và đồng thời tố cáo xã hội nam chủng tràn ngập bất công với phụ nữ.
Bình đã rơi, trâm đã gãy, liễu đã tàn trước gió, sen đã rụt trong ao, người thiếu phụ trung tình nhưng số mệnh chỉ còn cách duy nhất là tìm đến cái chết để giải bày tấm lòng trong sáng của mình.
Người phụ nữ đẹp thường sống trong một xã hội phong kiến thối nát, với hệ thống quan lại đê tiện, chế độ trọng nam phụ nữ khinh, đặt ra nhiều thách thức và bất công. Đẹp đẽ và hiền lành họ trở nên đau khổ hơn, phải chịu đựng sự chen lấn và không công bằng nhiều hơn. Đây thực sự là một quy luật không công bằng của thời đại đó - 'Hồng nhan bạc phận'. Đau lòng cho số phận của nàng. Nàng đã tự làm mình chìm xuống dòng sông Hoàng Giang để kết thúc cuộc sống của mình. Và thế giới sẽ kể thêm một câu chuyện bi kịch về số phận của người phụ nữ. Một bi kịch về vẻ đẹp bị huỷ hoại một cách đạm bạc.
Tấm bi kịch này là sự đầu hàng trước số phận, nhưng cũng là lời buộc tội về sự ghen tuông ích kỷ, sự tàn bạo và phi lý của nam giới cùng với luật lệ phong kiến hà khắc, tạo điều kiện cho sự độc ác và bất công. Đây cũng là lễ giáo phong kiến khắc nghiệt với tư tưởng nam chủng độc đoán, biến Trương Sinh thành một bạo chúa gia đình... Hàng nghìn năm trôi qua trên bờ sông Hoàng Giang, nỗi đau và ám ảnh về một người phụ nữ trẻ trung, xinh đẹp, hiếu nghĩa, trung tình nhưng lại bị bạc mệnh làm tan nát!
Nguyễn Dữ tập trung nhấn mạnh những đặc điểm đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua hình tượng Vũ Nương. Từ cử chỉ, lời nói, đến thái độ, Vũ Nương được hình dung là người thuần khiết, trung hậu, đầy lòng nhân ái, hiếu thảo nhưng vẫn giữ được tính cách mạnh mẽ và tự trọng. Đó là một tâm hồn đẹp, mang đậm bản sắc văn hóa. Thông điệp là hãy quan tâm đến số phận của phụ nữ, tôn trọng và tránh xa những hiểu lầm đáng tiếc để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Giữ cho hạnh phúc lâu bền là một thách thức, đòi hỏi sự hiểu biết, tôn trọng và tránh xa những hiểu lầm.
Câu chuyện về Vũ Nương có thể kết thúc nhưng dư âm về sự bất công, căm hận xã hội phong kiến vẫn còn đọng mãi. Thời đại đó, nơi nam giới được trọng dụng còn phụ nữ bị đối xử bất công và tàn nhẫn. Tuy nhiên, những người phụ nữ ấy vẫn giữ được vẻ đẹp, tính tình tốt, và lòng nhân ái. Các tác phẩm văn học thể hiện hình ảnh đó, là những tác phẩm giữ lại những giá trị xã hội tốt đẹp. Trong môi trường phong kiến suy đồi, số phận của người phụ nữ trở nên nhỏ bé, nhưng họ vẫn là nguồn cảm hứng cho sự trân trọng những giá trị tốt đẹp trong xã hội hiện đại.
Dàn ý Phân tích bi kịch của người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương
1. Mở bài
- Giới thiệu nhà văn Nguyễn Dữ cùng tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương.
- Tóm lược bi kịch của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa => Những nét đẹp của Vũ Nương trong tác phẩm của Nguyễn Dữ.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp của Vũ Nương
- Vũ Nương là cô gái xinh đẹp: tư dung tốt đẹp.
- Là cô gái có đức tính tốt đẹp: thùy mị, nết na.
→ Khiến chàng Trương đem lòng yêu mến và cưới về làm vợ.
- Ngày chồng tòng quân: nàng đau lòng, dặn dò và mong chồng bình an trở về.
- Khi chồng ra trận: ở nhà một lòng một dạ chăm sóc con trai và chăm sóc mẹ chồng những ngày cuối đời.
→ Là người vợ hiền lành, đảm đang, đầy đủ “công - dung - ngôn - hạnh” đáng ngưỡng mộ.
→ Là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ với những phẩm hạnh tốt đẹp.
b. Số phận bi kịch của Vũ Nương
- Nguyên nhân: khi chồng bế con ra thăm mộ mẹ, đứa nhỏ đã tiết lộ bố nó đêm nào cũng đến thăm nó → Trương Sinh đem lòng nghi ngờ, ghen tuông.
- Khi Trương Sinh về nhà đã chửi mắng nàng và đuổi nàng đi mặc cho nàng van xin và thanh minh.
→ Người phụ nữ không được tự quyết định số phận của mình mà phải phụ thuộc vào người đàn ông tỏng gia đình. Tuy mình bị oan nhưng không được thanh minh.
- Để chứng minh tấm lòng chung thủy của mình Vũ Nương đã nhảy sông tự tử.
→ Đau khổ, xót thương trước số phận bất hạnh của nàng sau những điều tốt đẹp nàn dã làm cho nhà chồng.
Sau này, khi Trương Sinh hiểu ra oan khuất của nàng đã vô cùng đau xót nhưng nàng không thể trở về nhân gian được nữa mà mãi ở lại nơi thủy cung. → Đây được coi là cái kết vừa có hậu vừa đoản hậu của Vũ Nương: có hậu vì cuối cùng nàng cũng được minh oan và khiến cho người làm nàng đau khổ là Trương Sinh nhận ra lỗi lầm, ân hận về lỗi lầm đó; đoản hậu vì nàng không được quay lại nhân gian để sống tiếp kiếp người, để nhận lại phúc đức sau những nghĩa cử cao đẹp nàng đã làm.
3. Kết bài
- Khẳng định lại vẻ đẹp, số phận của Vũ Nương và giá trị của tác phẩm.
- Bày tỏ suy nghĩ của bản thân về nàng Vũ Nương nói riêng cũng như số phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến trước đây.
Phân tích bi kịch của người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 2
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
Xuyên suốt chiều dài của triền đê mang tên “Văn học”, ta bắt gặp hình ảnh người phụ nữ dẫu có “quốc sắc thiên hương” đến đâu, có phẩm hạnh hoàn mỹ và tài năng hơn người đi chăng nữa thì số kiếp và hạnh phúc của họ vẫn bị vùi dập tả tơi bởi những định kiến của một xã hội hoen ố và mục ruỗng, những tục lệ “trọng nam khinh nữ”. Bằng ngòi bút mang cái “hồn” của riêng mình, Nguyễn Dữ đã khiến trái tim người đọc muôn đời không khỏi tiếc thương khi nhớ về số phận bi ai của Vũ Nương.
Từ thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam đã bắt đầu có những biểu hiện suy thoái, Nguyễn Dữ bất mãn và bất lực trước thời cuộc, chán ghét cảnh quan trường điên đảo nên lui về ở ẩn. Theo Nguyễn Đăng Na nhận xét : “Ông là cha đẻ của loại hình truyền kì Việt Nam”, là người “phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự vào quỹ đạo văn chương nghệ thuật”. “Chuyện người con gái Nam Xương” là câu chuyện thứ 16 của “Truyền Kì Mạn Lục”.Từ một sự tình có thật trong dân gian, Nguyễn Dữ đã thể hiện thật tài tình, trọn vẹn vẻ đẹp của Vũ Nương. Nàng thật sự là một người phụ nữ hoàn mỹ, đẹp người đẹp nết, làm tròn bổn người vợ, người mẹ và nàng dâu thảo. Vũ Nương là khuôn vàng, thước ngọc của người phụ nữ, nàng xứng đáng sống trong hạnh phúc và vui vẻ. Thế nhưng ” Hạnh phúc trong cuộc đời Vũ Thị Thiết là một thứ hạnh phúc vô cùng mong manh, ngắn ngủi . Mong manh như sương như khói , ngắn ngủi như kiếp sống của đoá phù dung sớm nở, tối tàn ” (Đồng Thị Sáo).
Vũ Nương phải gánh chịu nỗi dày vò cả về thể xác lẫn tinh thần. Trước cảnh đất nước binh đao loạn lạc, phu quân phải đi đến nơi biên ải xa xôi, cả giang sơn nhà chồng đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của người thiếu phụ. Nàng thầm lặng mà sinh con ra, rồi lại một mình tần tảo nuôi nấng, dạy dỗ con thơ. Biết mẹ chồng đau ốm vì nhớ thương con, nàng tận tâm tận tụy chăm sóc, “hết sức thuốc thang, lễ bái và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn “. Khi mẹ chồng vĩnh biệt thế gian nàng cũng hết lòng xót thương, lo liệu ma chay tế lễ như đối với cha mẹ ruột. Một mình Vũ Nương đảm đương tất cả, nàng vừa là mẹ, là dâu con. Nàng lo toan mọi việc lớn nhỏ như “một đấng nam nhi” duy nhất trong gia đình. Những ngày sống trong cảnh “chăn đơn gối chiếc”, sự cô đơn, lẽ loi cùng nỗi nhớ kéo dài theo năm tháng cứ cứa từng vết khiến trái tim nàng rỉ máu. Nàng khắc khoải nhớ nhung Trương Sinh “thổn thức tâm tình thương người đất thú”. Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức. Hình ảnh “bướm lượn đầy vườn” vốn gợi cho ta một khung cảnh đẹp, cũng rất mơ hồ hay “mây che kín núi” thơ mộng nhưng cũng man mác. Giống như tâm trạng của nàng bấy giờ, lệ sầu phủ kín tâm can, nỗi buồn “không thể nào ngăn được”. Quả là lấy cảnh mà lột tả đươc cái tình của con người. Nỗi nhớ triền miên của người thiếu phụ cũng được nhắc đến trong thi phẩm “Chinh Phụ Ngâm” – Đoàn Thị Điểm:
“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
Vũ Nương phải chịu sự ràng buộc của lễ giáo khắc khe, ngặt nghèo, chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh. Nàng đã có quyền lựa chọn đâu khi xã hội phong kiến vẫn có đó tư tưởng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Chàng xin mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng bởi thế đồng tiền đã phát huy uy lực của nó khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Còn Vũ Nương, nàng nương tựa vào Trương Sinh cũng vì cái thú vui “nghi gia nghi thất” . Đây là một cuộc hôn nhân không chứa chan ái tình và cũng chẳng có âm hưởng của sự rung động cất lên từ hai trái tim chân thành. Chính bức tường vô hình mang tên “giàu – nghèo” đã đàn áp quyền lợi của người phụ nữ và là cái thế để Trương Sinh mặc nhiên đối xử vũ phu, tàn bạo với nàng.
Trở về sau ba năm cách biệt, ngỡ đâu vị thần hạnh phúc sẽ gõ cửa gia đình nàng. Thế nhưng, chính vì thói đa nghi và ghen tuông che mờ lí trí, Trương Sinh mù quáng tin vào những lời nói ngây thơ của bé Đản mà đinh ninh phán cho Vũ Nương cái danh “vợ hư”. Trương Sinh bỏ ngoài tai những lời khuyên can của mọi người và cũng chẳng thèm đếm xỉa tới lời biện bạch của nàng. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”, chàng đã nhẫn tâm mắng nhiếc và đánh đuổi vợ đi. Phải chăng xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, bất công và tàn bạo, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào huyết quản đã dung túng cho phép người người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng, mặc nhiên định đoạn thậm chí giẫm đạp lên quyền sinh, quyền tử và phẩm giá cao quý của người vợ. Vũ Nương đức hạnh, ngoan hiền vậy mà lại phải mang bản án ô nhục, nhuốc nhơ “hư thân mất nết”. Thuở xưa, nàng Thị Kính còn biết ngọn nguồn nỗi oan khuất của mình. Còn Vũ Nương, đến khi gieo mình xuống đáy sông nàng vẫn chẳng hiểu vì sao lại bị người từng đầu ấp tay gối với mình mắng nhiếc và đánh đuổi đi. Nỗi oan của nàng thấu tận trời xanh vậy mà nàng cũng chẳng được quyền phản kháng, bảo vệ chính mình.
Với Vũ Nương, “cái thú vui nghi gia nghi thất” chính là lí tưởng, mục đích sống và tồn tại của nàng. Để rồi khi điểm tựa ấy bị vùi dập tả tơi bởi nỗi oan thất tiết “Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.”. Với hàng loạt những hình ảnh ước lệ ngụ ý chỉ sự lụi tàn, thê lương của mối nhân duyên đổ vỡ đã lột tả thành công nỗi thất vọng, ê chề, đau đáu xâm chiếm cõi lòng của nàng. Vũ Nương quyết định trầm mình xuống sông Hoàng Giang để rửa sạch nỗi oan khuất, giải bày tấm lòng ngay thẳng, tấm thân trinh bạch của mình. Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử vậy mà Trương Sinh cũng chẳng một chút động lòng hay ân hận, day dứt. Hãn hữu lắm trong cái xã hội ấy, một hành lang đạo lí hay một ai đó đứng ra bảo vệ, chở che cho thân phận bèo dạt mây trôi của Vũ Nương nói riêng và những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung. Rõ ràng chính xã hội cũ đã sinh ra bao Trương Sinh với thói độc đoán là nguyên nhân của những khổ đau mà người phụ nữ phải gánh chịu.
Vũ Nương còn là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa, “sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh”. Chiến tranh loạn lạc đã đẩy gia đình nàng vào cảnh li tán, vợ chồng xa cách đôi người hai ngả. Ngày qua ngày, niềm tin dành cho nhau cứ thế mà kiệt quệ, dẫn đến hiểu lầm. Có lẽ, trận chiến chính là cửa ải thử thách tình yêu và niềm tin của Trương Sinh dành cho vợ. Và chàng đã thất bại, mù quáng nghĩ oan và vu khống cho Vũ Nương. Rõ ràng, chiến tranh phong kiến chính là ngòi nổ tiếp tay cho những bi kịch, giông bão trong cuộc đời người phụ nữ bất hạnh ấy.
Ở chốn “làng mây cung nước” nàng được sống một cuộc đời bất tử và sung mãn, một cuộc đời mà biết bao người trần mắt thịt mong ước. Thế nhưng, Vũ Nương chẳng hề tận hưởng kiếp sống ấy và nàng cũng chẳng thể chạm tay đến thứ hạnh phúc thật sự. Bởi nàng “bất tử” nên nỗi nhớ gia đình cứ đeo đẳng nàng mãi. Nỗi đau đáu ấy trở thành một vết sẹo trong tim nàng mà chẳng có một hào nhoáng xa hoa nào có thể chữa khỏi. Bên cạnh đó, sự trở về của Vũ Nương trên sông Hoàng Giang rất lộng lẫy nhưng lại ở rất xa, rất mơ hồ “lúc ẩn lúc hiện” và “chỉ trong phút chốc”. Cảnh đoàn tụ chỉ là ảo ảnh nhanh chóng tan biến. Còn việc Vũ Nương “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”, nỗi khổ đau li biệt cho cả gia đình nàng, lứa đôi chia lìa hai cõi âm – dương là sự thật, là mãi mãi. Với kết thúc không trọn vẹn, Nguyễn Dữ đã cho thấy một quan niệm rằng hạnh phúc khó có, khó giữ mà đã đổ vỡ rồi thì sẽ chẳng thể nào hàn gắn lại được, như bát nước đã đổ đi thì chẳng thể vớt lại cho đầy.
Khép lại những trang viết thăng trầm của “Chuyện người con gái Nam Xương” , ta không khỏi thán phục trước những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. Tác giả xây dựng tình huống truyện bất ngờ là lời nói ngây thơ của bé Đản, hình ảnh “chiếc bóng” vô tri vô giác đã đẩy đưa số kiếp của Vũ Nương rơi vào vực sâu bi kịch, gia đình chịu cảnh chia lìa tang thương.Tác phẩm không kể lại chuyện đời một cách khô khan và cứng nhắc mà là sự chung hòa giữa tự sự và trữ tình kết hợp với những yếu tố kì ảo hoang đường. Đây là cách thức kể chuyện độc đáo, dẫn lối người đọc dấn thân vào các tình tiết.
“Chuyện người con gái Nam Xương” thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Qua số phận và cuộc đời của Vũ Nương, tác giả đã phản ánh kiếp sống bi thương của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Đồng thời, tác phẩm còn là tiếng kêu đanh thép lên án chế độ phong kiến với thói trọng nam khinh nữ, chồng chúa vợ tôi đầy bất công. Truyện còn tố cáo chiến tranh loạn lạc, phi nghĩa gây ra bao đau thương, tan vỡ cho những mái ấm gia đình. Trang truyện đã cho ta thấy cái tài cái tâm của người nghệ sĩ, niềm cảm thương sâu sắc của tác giả trước những phận đời “hồng nhan đa truân”, quẫn quanh trong bi kịch nối tiếp bi kịch.
Phân tích bi kịch của người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 3
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi cho lụy đến nàng.”
(Lê Thánh Tông)
Lấy cảm hứng từ câu chuyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã dùng ngòi bút nhân đạo của mình để viết lên “Chuyện người con gái Nam Xương” trong một hiện thực xã hội đương thời đầy bất công oan trái. Tác phẩm như tiếng nói mạnh mẽ tố cáo xã hội phong kiến bất công, nghiệt ngã đã gây ra bi kịch đau đớn, đồng thời là tiếng nói ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Điều ấy được thể hiện sâu sắc qua nhân vật Vũ Nương.
Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tài năng, kiến thức uyên bác mà còn chất chứa những hoài bão nguyện vọng thầm kín về khát vọng hạnh phúc, sự công bằng trong cuộc sống. “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện trích trong “Truyền kì mạn lục” - một “thiên cổ kì bút” ngàn đời, được viết từ cốt truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau để bộc lộ vẻ đẹp đời sống và tính cách nhân vật. Nguyễn Dữ đã giới thiệu “Vũ Thị Thiết người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Chỉ bằng một câu văn ngắn, Nguyễn Du đã khái quát một cách đầy đủ và trọn vẹn vẻ đẹp tâm hồn của Vũ Nương, ở nàng hội tụ đầy đủ cả công - dung - ngôn - hạnh. Chàng Trương cũng bởi mến cái dung hạnh ấy, nên mới xin với mẹ trăm lạng vào cưới về.
Không chỉ là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đức hạnh, Vũ Nương còn là một người vợ yêu chồng, thủy chung với chồng và luôn khao khát hạnh phúc gia đình. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng luôn giữ gìn khuôn phép dù chồng nàng đa nghi, phòng ngừa quá mức nhưng gia đình chưa từng xảy ra bất hoà. Cưới nhau chưa được bao lâu, Trương Sinh phải ra trận bởi chàng là con nhà hào phú nhưng thất học nên phải đi lính buổi đầu. Khi tiễn chồng đi, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa đằm thắm: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Nàng vô cùng cảm thông và xót xa cho những nỗi gian lao, vất vả mà chồng sẽ phải chịu đựng chốn xa trường. Những lời nói của Vũ Nương khiến ta không khỏi rơi nước mắt, nghẹn ngào, xúc động.
Xa chồng là thế, nhưng nàng vẫn là người vợ hết mực chung thuỷ với chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Ngày qua tháng lại, thời gian thấm thoát thoi đưa, nàng nhớ chồng khôn nguôi, nỗi nhớ dài dằng dẵng không thể ngăn được. Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì lòng nàng dường như quặn thắt lại đầy xót xa.
Sau khi xa chồng vừa đầy tuần thì nàng hạ sinh một đứa con trai, đặt tên là Đản. Không chỉ là một người vợ thủy chung son sắt, nàng còn là một người mẹ hiền, hết lòng nuôi dạy con cái. Nàng hết lòng và tận tâm bù đắp cho đứa con trai sự thiếu vắng tình cha. Nàng đã chỉ cái bóng trên tường và bảo rằng đó là cha Đản, để con có thể cảm nhận hạnh phúc của một mái ấm gia đình.
Chính trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, đức tính hiếu thảo của Vũ Nương lại càng bộc lộ rõ hơn. Khi ấy, mẹ chồng cũng vì nhớ con trai mà sinh bệnh nặng. Nàng đã tận tình chăm sóc mẹ chồng già yếu, ốm đau. Nàng hết sức thuốc than lễ bế thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn, bởi yếu tố tâm linh đối với người xưa là rất quan trọng. Nhưng việc gì đến rồi cũng sẽ đến, bà mẹ không qua khỏi. Trước khi rời xa cõi đời, bà đã để lại lời trăng trối cuối cùng như một sự cảm tạ và ghi nhận công lao của Vũ Nương đối với gia đình: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp…. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Sự hiếu thảo của Vũ Nương với mẹ chính khiến ta nhớ đến nhân vật Thúy Kiều trong "Truyện Kiều” của Nguyễn Du, một cô gái sẵn sang bản thân mình để cứu cha và em. Những người phụ nữ ấy thật đáng để chúng ta tôn trọng và yêu thương.
Qua một năm sau, Trương Sinh đã được trở về nhà. Chàng hay tin mẹ đã qua đời, con vừa học nói. Bi kịch của Vũ Nương đã bắt đầu từ giây phút đứa con ngây thơ nói về người cha của mình, rằng đó là “một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”.
Nhưng trong sự oan ức ấy, nàng vẫn hiện lên rất cao cả, giàu lòng vị tha và trân trọng nhân phẩm, tình nghĩa. Khi bị Trương Sinh nghi oan, nàng đã tìm mọi cách để chồng hiểu cho tấm lòng thủy chung và trong sạch của mình. Nhưng thật đáng tiếc, Trương Sinh như đẩy nàng đến bước đường cùng khiến Vũ Nương mượn dòng nước Hoàng Giang để rửa nỗi oan nhục. Nàng đã phải chết oan ức nhưng nàng không hề oán trách, hận thù. Nghe chàng Phan - một anh chàng cùng làng kể về gia đình, về nhà cửa, nàng vẫn ứa nước mắt ra mà khóc, vẫn nặng lòng thương nhớ chồng con, nhớ nhung quê hương, vẫn quả quyết “ắt có ngày tìm về quê cũ”. Dù cuộc sống của nàng đã gắn liền với chốn cung nước, nàng vẫn khao khát được phục hồi danh dự, mong muốn chàng Trương lập dàn giải oan cho mình ở bến Hoàng Giang và nàng đã trở về trong lễ giải oan để nói lời tạ từ. Cuộc đời Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của người phụ nữ người vợ thủy chung, một người mẹ thương con, một người con dâu hiếu thảo. Ở bất kỳ cương vị nào, nàng cũng làm rất hoàn hảo.
Một người phụ nữ như Vũ Nương đáng lẽ phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, ấm êm như các cách nàng đã vun vén và khao khát, nhưng nàng lại chịu đựng một số phận bất hạnh, một nạn nhân của bi kịch, của hạnh phúc gia đình tan vỡ và quyền sống bị chà đạp.
Trước hết, nàng là nạn nhân của xã hội phong kiến khi lấy phải người chồng đa nghi, hay ghen, cuộc hôn nhân ấy như một sự báo hiệu về những sóng gió trong cuộc sống của nàng sau này. Không chỉ vậy, nàng còn là nạn nhân của xã hội phong kiến phi nghĩa. Nàng lấy chồng chưa được bao lâu thì chiến tranh phong kiến đã chia cắt tổ ấm hạnh phúc của nàng. Một mình nàng gánh vác mọi công việc gia đình, vừa là một người mẹ hiền, vừa là một người con thảo. Xã hội với những hủ tục phong kiến lạc hậu, hà khắc ấy cũng đã khiến nàng mang tiếng là “thất tiết” và đẩy nàng đến đường cùng, điều đó chính là nguyên nhân cho cái chết của Vũ Nương.
Nhưng bi kịch lớn nhất của đời nàng là khi Trương Sinh trở về, chỉ vì câu nói vô tình của con nhỏ mà chồng đã nghi ngờ và khẳng định nàng thất tiết, lăng nhăng. Nàng có biện bạch, thanh minh bao nhiêu, hàng xóm nói giúp nàng đi chăng nữa, Trương Sinh vẫn bỏ ngoài tai và ghen tuông một cách mù quáng, hắn "lấy lời nói bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, rồi đánh đuổi đi".
Đến mức này, Vũ Nương đã quá đau khổ, thanh minh rằng: "Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.” Thật đau khổ và tủi nhục biết bao! Nàng không hiểu vì sao mình lại bị đối xử tàn nhẫn, bất công như vậy. Giờ đây “...bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Người vợ chờ chồng đằng đẵng suốt cả năm trời mà lại bị phủi phui hết những công lao và tình nghĩa thì cuộc đời còn gì ý nghĩa nữa đối với nàng Vũ Nương ấy?
Chính sự đa nghi và hồ đồ của Trương Sinh đã dồn nàng đến bi kịch đau đớn nhất cuộc đời: đó chính là cái chết oan nghiệt. Nàng đã tắm gội chay sạch, chạy ra bến Hoàng Giang và than với trời đất: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ". Và rồi, nàng gieo mình xuống dòng sông trong nỗi tuyệt vọng đắng cay.
Tất cả những tấn bi kịch của Vũ Nương như một lời tố cáo xã hội phong kiến, một xã hội xem trọng quyền uy của kẻ giàu và người đàn ông, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ.
Như vậy, bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện, miêu tả nhân vật , kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình, “Chuyện người con gái Nam Xương” đã giúp người đọc cảm nhận được những nét đẹp tâm hồn ở nhân vật Vũ Nương, vừa là một người vợ thủy chung, vừa một người mẹ thương con và một người con dâu hiếu thảo.
Qua đó, Nguyễn Dữ muốn gửi gắm sự ngợi ca, trân trọng đối với những người phụ nữ trong xã hội xưa. Quả thật, ngòi bút của ông chứa chan cái tâm cái tài của một nghệ sĩ lớn. Thời gian vẫn cứ trôi đi nhưng những trang viết của Nguyễn Dữ “nằm ngoài sự băng hoại của thời gian”, khẳng định được chỗ đứng của mình trong kho tàng văn chương dân tộc.
Phân tích bi kịch của người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 4
“Phũ phàng chi bấy hóa công
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Trên chặng đường phát triển của văn hoc trung đại Việt Nam, ta bắt gặp không ít tác phẩm viết về nỗi niềm của người phụ nữ. Từ nỗi nhớ da diết, khắc khoải của người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm” tới niềm cô đơn, cay đắng của người cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc”. Đến với thể loại truyền kì, tác phẩm tiêu biểu nhất viết về số phận người phụ nữ chính là “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
Nguyễn Dữ sinh ra vào cuối thế kỉ XV và sáng tác chủ yếu ở đầu thế kỉ XVI. Có thời gian dài sống ở kinh đô nên ông được chứng kiến nhiều thăng trầm của xã hội, con người. Ông đã chọn truyện truyền kì – một thể loại văn xuôi kết hợp giữa hiện thực và kì ảo để phản ánh hiện thực đời sống, gửi gắm những tư tưởng nhân sinh của mình. Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” có nguồn gốc từ truyện dân gian “Vợ chàng Trương”, thuộc thiên thứ 16 của tập truyện “Truyền kì mạn lục”. Nhân vật chính là Vũ Nương được Nguyễn Dữ khắc họa đầy đủ cả về vẻ đẹp và số phận, tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Nguyễn Dữ đã đứng trên quan điểm nhân đạo để ngợi ca, đề cao những vẻ đẹp ở người phụ nữ, nhất là những người phụ nữ bình dân. Nhân vật Vũ Nương mang trong mình cả vẻ đẹp ngoại hình và phẩm chất vô cùng đáng quý. Nguyễn Dữ không dành quá nhiều câu chữ để tả chân dung Vũ Nương nhưng chỉ qua chi tiết nàng có “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” và Trương Sinh “xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”, người đọc vẫn có thể thấy rõ Vũ Nương là một người phụ nữ rất xinh đẹp. Ở nàng toát lên vẻ đằm thắm, hiền hậu của một người phụ nữ nơi thôn dã.
Đi liền với một dung mạo đẹp, Vũ Nương còn có những phẩm chất vô cùng đáng quý. Nhà văn đã đặt Vũ Nương vào những tình huống cụ thể để làm nổi bật tính cách, tâm hồn của nhân vật. Trong xã hội phong kiến, “Công – dung – ngôn – hạnh” được coi là thước đo chuẩn mực cho cốt cách của người phụ nữ. Vũ Nương mang trong mình đầy đủ những yếu tố ấy. Trong mối quan hệ vợ chồng, nàng là người vợ khéo léo, nhu mì, yêu thương chồng và thủy chung hết mực. Biết Trương Sinh có tính hay ghen, nàng luôn “giữ gìn khuôn phép” nên gia đình được yên ấm, chưa từng phải thất hòa. Hành động của Vũ Nương khi tiễn chồng đi lính đã cho thấy niềm khao khát hạnh phúc, tình yêu chân thành, tấm lòng nhân hậu mà Vũ Nương dành cho chồng. Người xưa có câu: “Một người làm quan, trăm họ được nhờ” nên ở xã hội xưa, có rất nhiều người coi việc tham gia chiến tranh là một cơ hội để đổi đời, thăng quan tiến chức. Ta đã từng bắt gặp trong “Chinh phụ ngâm” hình ảnh người vợ tiễn chồng ra trận với hi vọng đem về phú quý:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.
Nhưng ở đây, Vũ Nương không cầu mong vinh hiển. Nàng đã rót chén rượu đầy, dặn dò chồng bằng những lời tha thiết, cảm thông với nỗi vất vả của chồng, mong chàng trở về bình an. Trong những ngày Trương Sinh chiến đấu nơi sa trường, nàng càng bộc lộ là một người thủy chung, yêu chồng hết mực. Mỗi khi thấy “bướm lượn đầy vườn”, “mùa xuân mây che kín núi”, nàng lại chạnh lòng thương nhớ chồng.
Trong mối quan hệ với mẹ chồng và con cái, Vũ Nương còn là dâu thảo, mẹ hiền. Mẹ chồng già yếu, đổ bệnh nên nàng hết sức thuốc thang, thường xuyên lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Khi bà mất, nàng lo tang ma chu đáo, hiếu nghĩa tròn đầy. Mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu tưởng như mang tính chất ràng buộc, hiếm khi hòa thuận. Thế nhưng những lời trăng trối cuối cùng của mẹ chồng đã khẳng định công lao của Vũ Nương với gia đình chồng. Không chỉ vậy, khi là một người mẹ, Vũ Nương cũng hết sức thương con. Nàng một mình nuôi dạy con, chăm sóc nhà cửa. Nàng đã trỏ bóng mình trên tường và nói đó là người cha để an ủi, dỗ dành bé Đản khi thấy con trông ngóng cha. Qua những chi tiết trên, ta thấy Nguyễn Dữ đã dành cho nàng thái độ trân trọng, ngợi ca hết mực. Vũ Nương thực sư là người xinh đẹp, nết na, hiền hậu, đảm đang, có tấm lòng nhân hậu, hết mực yêu thương gia đình.
Với những nét đẹp trên, những tưởng Vũ Nương sẽ có một cuộc đời yên ấm, hạnh phuc nhưng ngờ đâu, số phận nàng lại là chuỗi ngày tăm tối, bi kịch. Vũ Nương vừa là nạn nhân của chiến tranh phong kiến phi nghĩa vừa là nạn nhân của chế độ nam quyền. Vũ Nương sống vào thời kì đất nước loạn lạc, chiến tranh nổ ra liên miên, đời sống nhân dân cơ cực. Hoàn cảnh đất nước, thời đại chính là một phần nguyên nhân đem đến bất hạnh cho Vũ Nương, khiến vợ chồng chia lìa và đẩy nàng đến bi kịch về sau.
Không chỉ vậy, việc xuất thân là “con kẻ khó” còn khiến nàng bị mua bán như một món hàng qua “trăm lạng vàng”. Dẫu nàng có dịu dàng, đôn hậu đến bao nhiêu để thì trong gia đình vẫn ngầm tồn tại sự phân biệt giai cấp, trọng nam khinh nữ. Chế độ nam quyền đã sản sinh ra những người đàn ông gia trưởng, bảo thủ như Trương Sinh và trói buộc người phụ nữ vào cái khuôn “Tam tòng tứ đức”. Trước cơn thịnh nộ của Trương Sinh, Vũ Nương không thể phản kháng. Khi Trương Sinh trở về nghi ngờ nàng thất tiết nàng chỉ có thể khóc và thanh minh bằng những lời lẽ tha thiết, dịu dàng, nhắc nhở đến tình nghĩa vợ chồng. Vũ Nương chỉ biết chờ mong chồng hiểu cho tấm lòng của mình. Dẫu Trương Sinh có mắng nhiếc, đánh đuổi, không cho cơ hội giãi bày, nàng cũng không hề oán giận. Họ hàng, làng xóm đứng ra bảo vệ Vũ Nương vẫn không thể cứu vãn gia đình nàng khỏi nguy cơ tan vỡ. Cuối cùng, nàng đau đớn, tuyệt vọng, chỉ còn cách mượn tạm nước sông Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch. Nàng “tắm gội chay sạch” rồi ra bờ sông nói lời nguyện cầu mong thần linh chứng giám. Hành động này thể hiện cố gắng bảo vệ danh dự, tiết hạnh vô cùng mãnh liệt của Vũ Nương. Đối với nàng, lòng tự trọng là thứ quý giá còn hơn cả sinh mạng.
Tấm lòng son sắt của Vũ Nương còn được thể hiện vào sau khi nàng được Linh Phi cứu. Dù được sống cuộc đời an nhàn, bất tử nhưng lòng nàng lúc nào cũng hướng về quê hương, không nguôi mong nhớ về gia đình. Chi tiết nàng gặp lại Phan Lang dưới thủy cung và gửi chiếc thoa cho thấy tấm lòng vị tha, nhân hậu. Về sau, khi Trương Sinh đã tỉnh ngộ, Vũ Nương không một lời oán hận, trách móc: “Đa tạ tình chàng. Thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Lúc này, tất cả đã quá muộn màng. Nỗi oan khuất, đau khổ của Vũ Nương không phải là một số phận cá biệt mà là đại diện tiêu biểu cho biết bao phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công, tàn bạo.
Với việc xây dựng được tình huống truyện độc đáo, ngôn ngữ đối thoại, chi tiết mang tính thắt nút và mở nút, xây dựng nhân vật đặc sắc cùng miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế và kết hợp hài hòa giữa hiện thực và kì ảo, Nguyễn Dữ đã khắc họa chân thực về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Tác giả ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp của họ và lên án, tố cáo xã hội phong kiến với chế độ nam quyền, sự phân biệt giai cấp và chiến tranh phi nghĩa đã tước đi hạnh phúc con người.
“Chuyện người con gái Nam Xương” đã vẽ nên bức tranh hiện thực sinh động và đặt ra vấn đề quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, ngòi bút nhà văn hướng về người phụ nữ và đưa họ vào vị trí trung tâm tác phẩm. Tác phẩm thực sự là “một áng “thiên cổ kỳ bút”, cho riêng thể loại truyện ngắn Việt nam một truyện ngắn vừa là đột khởi vừa là đỉnh cao vời vợi trong muôn đời.” (Nguyễn Đình Chú).
Xem thêm các bài Soạn văn 9 Kết nối tri thức hay nhất, ngắn gọn khác:
Viết bài văn phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều
Viết bài văn phân tích đoạn Kiều thề nguyền cùng Kim Trọng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Viết bài văn phân tích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Viết bài văn phân tích đoạn Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều trong Truyện Kiều
Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 9 hay khác:
- Soạn văn 9 Kết nối tri thức (hay nhất)
- Soạn văn 9 Kết nối tri thức (ngắn nhất)
- Giải lớp 9 Kết nối tri thức (các môn học)
- Giải lớp 9 Chân trời sáng tạo (các môn học)
- Giải lớp 9 Cánh diều (các môn học)
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Soạn văn 9 Kết nối tri thức của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sgk Ngữ văn 9 Tập 1 và Tập 2 (NXB Giáo dục).
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT