10+ Phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều
Viết bài văn phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều (mẫu 1)
- Dàn ý Phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều
- Phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều (mẫu 2)
- Phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều (mẫu 3)
- Phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều (mẫu 4)
- Phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều (mẫu 5)
- Phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều (mẫu 6)
10+ Phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều
Phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều - mẫu 1
Nếu Xuân Diệu - nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới của nền văn học Việt Nam hiện đại lấy con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của thiên nhiên thì đại thi hào Nguyễn Du lại lấy thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp của con người. Sự khác biệt này được ông thể hiện tài hoa qua đoạn trích miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều. Đoạn trích về chị em Thúy Kiều đã khắc họa vẻ đẹp của những trang tuyệt thế giai nhân, đồng thời thể hiện tài năng miêu tả chân dung nhân vật bậc thầy của Nguyễn Du. Tác phẩm này đã làm nên tên tuổi Nguyễn Du và lưu danh ông đến hàng thế kỉ sau.
Đoạn trích nằm ở phần I – Gặp gỡ và đính ước của tác phẩm Truyện Kiều. Mở đầu đoạn trích, tác giả đã giới thiệu một cách trực tiếp về thân thế, và thứ bậc trong gia đình của chị em Thúy Kiều:
"Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười".
Họ là con gái đầu lòng của Vương viên ngoại - một gia đình xếp vào hạng "thường thường bậc trung" của triều nhà Minh ở Trung Quốc. Thúy Kiều là chị cả, tiếp đến là cô em gái Thúy Vân. Cả hai nàng đều là những người con gái đẹp. Vẻ đẹp ấy được so sánh ngang bằng với vẻ đẹp của công chúa Hằng Nga trên cung trăng. Dáng vóc của hai nàng thanh tú như cành mai, tinh thần, tâm hồn trong trắng như tuyết. Tuy rằng mỗi người có những nét đẹp khác nhau nhưng đó đều là vẻ đẹp toàn diện "mười phân vẹn mười". Thử hỏi trong nhân gian có mấy ai đẹp một cách hoàn hảo đến như thế?
Theo trình tự thông thường, đáng lẽ ra Nguyễn Du phải miêu tả lần lượt vẻ đẹp của người chị rồi mới miêu tả vẻ đẹp của người em nhưng ở đây ông đã làm điều ngược lại. Phải chăng đây là một dụng ý của tác giả? Thúy Vân được Nguyễn Du dành trọn bốn câu thơ để khắc họa vẻ đẹp "trang trọng" của người con gái:
"Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da".
Thúy Vân đẹp một cách "trang trọng", "đoan trang" khác với người phụ nữ bình thường. Khuôn mặt nàng tròn, đầy đặn như ánh trăng đêm rằm mỗi tháng. Nổi bật trên gương mặt thanh tú ấy là đôi lông mày cong, nở nang. Vẻ đẹp của Thuý Vân khiến hoa, ngọc cũng mỉm cười để nhường chỗ cho nàng. Đến cả mây cũng thua nàng về sự óng ả, mềm mượt của mái tóc, tuyết cũng thua nàng về độ trắng của màu da. "Trăng", "hoa", "ngọc", mây", "tuyết" được coi là chuẩn mực của cái đẹp trong quan niệm xưa. Nguyễn Du dùng những thứ ấy để miêu tả vẻ đẹp của nàng Vân đã giúp chúng ta nhận thấy rõ Thuý Vân đẹp một cách cao sang, quyền quý. Dân gian ta thường hay ví trắng như tuyết, dường như tuyết là trắng nhất. Vậy mà màu da của Thúy Vân khiến tuyết cũng phải nhường. Có vẻ như thiên nhiên đều cúi đầu, nép mình trước vẻ đẹp kiêu sa, đứng đắn của nàng. Hai động từ "thua", "nhường" đã thể hiện rất rõ điều ấy. Con người thường hay tin vào số phận, đã có nhiều người đọc đến những câu thơ này cho rằng Thúy Vân sẽ có một cuộc đời êm ấm, ít sóng gió hơn người chị gái của mình bởi vẻ đẹp làm thiên nhiên thán phục.
Khác với vẻ đẹp quý phái của Thúy Vân, Kiều đẹp một vẻ "sắc sảo mặn mà":
"Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh".
"Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười" nhưng "so bề tài sắc" thì Thúy Kiều lại có phần đẹp hơn, tài năng hơn cô em gái. Tác giả chỉ khắc họa vài nét tiêu biểu trên gương mặt Thúy Kiều nhưng cũng đủ để bạn đọc thấy được vẻ đẹp cuốn hút của nàng. Điểm cuốn hút nhất khi chúng ta nhìn vào ngoại hình của người con gái đó là đôi mắt. Kiều sở hữu một đôi mắt trong như làn nước mùa thu và đôi lông mày thanh như dáng núi mùa xuân. Đôi lông mày của nàng được Thanh Tâm Tài Nhân miêu tả: "Thúy Kiều mày nhỏ mà dài, mắt trong mà sáng, mạo như trăng thu, sắc tựa hoa đào". Chính vẻ đẹp riêng biệt ấy đã khiến cho hoa, liễu nảy sinh lòng ghen ghét, đố kị. Tạo hóa đánh ghen với vẻ đẹp của Thúy Kiều. Biện pháp nghệ thuật nhân hóa cùng các động từ "ghen", "hờn" đã thể hiện thái độ không vừa lòng của tạo hóa. Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Kiều bằng ngôn từ giàu hình ảnh và giàu sức gợi, đồng thời ông cũng dự báo trước về số phận bạc bẽo của nàng. Thủ pháp đòn bẩy miêu tả Thúy Vân trước rồi mới đến Thúy Kiều có tác dụng làm nổi bật lên bức chân dung của nàng Kiều. Đối với Thúy Vân, tác giả chỉ khắc họa nàng ở vẻ đẹp ngoại hình nhưng đối với Thúy Kiều, ông đã khắc họa nàng cả ở vẻ đẹp của ngoại hình lẫn tài năng thiên phú:
"Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân".
Cái đẹp của nàng làm cho người khác say mê mà đánh mất cả thành cả nước. Nguyễn Du đã khẳng định trong nhân gian duy nhất chỉ Thúy Kiều mới có được vẻ đẹp như vậy. Còn về tài năng thiên phú thì may mắn có người ngang sức với Thúy Kiều. Sự thông minh của nàng được trời phú nên nàng thông thạo cả cầm, kì, thi, họa. Thúy Kiều thuộc lòng các cung bậc: Cung, thương, giốc, chủy, vũ trong ngũ âm. Tài năng nổi bật nhất và cũng là tài năng không ai sánh kịp được nàng là tài đàn Hồ cầm. Nàng đã sáng tác một bản nhạc cho riêng mình có tên "Bạc mệnh". Bản nhạc đó cất lên khiến bất cứ ai nghe cũng thương xót, não lòng.
Nguyễn Du đã dành bốn câu thơ cuối đoạn trích để thể hiện tính cách kiêu sa, cao quý của hai chị em:
"Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai".
Theo tục lệ của Trung Quốc, những thiếu nữ đến tuổi 15 bắt đầu cài trâm nghĩa là họ đã đến tuổi lấy chồng. Mặc dù như vậy nhưng hai chị em vẫn "Êm đềm trướng rủ màn che" và mặc cho những chàng trai tới ngỏ ý. "Mặc ai" không hoàn toàn là vô cảm mà đó là cách từ chối đài các, kiêu sa của Thúy Kiều và Thúy Vân. Dù đã đến tuổi "cập kê" nhưng họ không tơ tưởng đến đấng phu quân của đời mình.
Ở đoạn trích này, thể thơ lục bát nhịp nhàng kết hợp với bút pháp ước lệ tượng trưng đã giúp Nguyễn Du khắc họa được chân dung của hai tuyệt thế giai nhân với những vẻ đẹp riêng biệt. Có thể nói nhà thơ thật tài tình trong việc miêu tả vẻ đẹp của hai chị em Kiều. Đồng thời ông cũng thể hiện bức tranh số phận với những gam màu khác nhau của họ.
Dàn ý Phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều
I. Mở bài
+ Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du (đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới).
+ Truyện Kiều là tác phẩm gây tiếng vang, trở thành kiệt tác văn học Việt Nam.
+ Đoạn trích Chị em Thúy Kiều không chỉ khắc họa vẻ đẹp của những trang tuyệt thế giai nhân mà còn thể hiện tài năng miêu tả chân dung nhân vật bậc thầy của Nguyễn Du.
II. Thân bài
1. Khái quát vấn đề chung
+ Miêu tả nhân vật, khắc họa tính cách và số phận của con người là tài năng của Nguyễn Du, đây là thành công lớn của ông.
+ Miêu tả nhân vật chính diện: sử dụng bút pháp lý tưởng hóa nhân vật. Miêu tả nhân vật phản diện: bút pháp hiện thực hóa. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều thể hiện vẻ đẹp toàn bích tới chuẩn mực Á Đông là hai nàng Vân, Kiều.
2. Phân tích vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân (4 câu)
- Ban đầu, Nguyễn Du gợi tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều từ hình ảnh thiên nhiên: mai, tuyết. Bút pháp ước lệ gợi ấn tượng về vẻ đẹp với cốt cách như mai, thanh tao, và cốt cách trong trắng, tinh khôi như tuyết
- Bốn câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân: thanh cao, duyên dáng, trong trắng.
+ Câu thơ “Vân xem trang trọng khác vời” khái quát được vẻ đẹp cao sang, quý phái của nàng.
+ Vẻ đẹp của Vân sánh với những thứ đẹp nhất từ tự nhiên như hoa, mây trắng, tuyết, ngọc.
+ Chân dung của Thúy Vân đẹp từ khuôn mặt, nụ cười, mái tóc, làn da, với phong thái điềm đạm (các chi tiết so sánh, ẩn dụ thú vị trong thơ).
→ Vẻ đẹp của Vân hơn mọi chuẩn mực của tự nhiên, khiến tự nhiên cúi đầu chịu ‘thua”, “nhường”, ắt hẳn cuộc đời nàng sẽ được an ổn, không sóng gió.
3. Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều (12 câu tiếp theo)
- Tác giả tả vẻ đẹp Thúy Vân trước để làm nổi bật vẻ đẹp Thúy Kiều:
+ Kiều càng sắc sảo mặn mà: Vẻ đẹp của Thúy Kiều mặn mà về tâm hồn, sắc sảo về trí tuệ.
+ Tác giả sử dụng lối ước lệ tượng trưng: thu thủy, xuân sơn để đặc tả riêng đôi mắt trong sáng, long lanh của Kiều.
+ Thúy Kiều gợi lên là trang tuyệt thế giai nhân với vẻ đẹp khiến tự nhiên phải ganh ghét, đố kị: hoa ghen, liễu hờn.
+ Cái tài của Thúy Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến: cầm, kì, thi, họa.
+ Nhấn mạnh tài đàn của nàng, đặc biệt cung đàn bạc mệnh của nàng (Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân) là tiếng lòng của trái tim đa sầu, đa cảm.
→ Chân dung Thúy Kiều khiến tạo hóa ganh ghét, tài hoa thiên bẩm, tâm hồn đa sầu đa cảm dự báo số phận trắc trở, nghiệt ngã đầy sóng gió bởi “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”.
- Nguyễn Du miêu tả Thúy Vân trước rồi miêu tả Thúy Kiều, thủ pháp đòn bẩy này làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều.
- Sử dụng tài tình các tính từ miêu tả vẻ đẹp Vân, Kiều (vẻ đẹp mang số phận): mặn mà, trang trọng, sắc sảo...
- Các biện pháp so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, đối xứng, liệt kê, tăng tiến, điển tích điển cố... được sử dụng linh hoạt trong đoạn trích.
→ Bút pháp ước lệ tượng trưng là cách thể hiện con người quen thuộc trong thơ ca trung đại (miêu tả qua những công thức, chuẩn mực có sẵn được quy ước trong nghệ thuật)
III. Kết bài
+ Đoạn trích khắc họa rõ nét chân dung chị em Thúy Kiều nhờ bút pháp ước lệ tượng trưng, thủ pháp đòn bẩy và các biện pháp tu từ.
+ Nguyễn Du thể hiện cảm hứng nhân văn qua việc đề cao con người, ca ngợi vẻ đẹp tài năng của con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh.
Phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều - mẫu 2
Khi khẳng định giá trị của “Truyện Kiều”, nhà thơ Chế Lan Viên đã từng ca ngợi: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Có thể nói, Đoạn Trường Tân Thanh với những dòng lục bát tuyệt diệu là niềm tự hào cho nền văn chương Việt Nam. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du, những phong cảnh tuyệt vời trong thiên nhiên, cỏ cây, những bức tranh tâm trạng đã hiện ra tạo thành một thế giới thơ đầy quyến rũ. Bằng tấm lòng và sự nâng niu, trân trọng, mến yêu nhân vật chân thành, ông đã để lại cho đời những rung cảm nghệ thuật trước cái đẹp thật sâu sắc. Đến với đoạn trích miêu tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều trong phần đầu Gặp gỡ và đính ước, một lần nữa ta hiểu thêm về nghệ thuật miêu tả của Tố Như thần tình ra sao và trái tim Nguyễn chan chứa yêu thương biết nhường nào!
“Đầu lòng hai ả tố nga,
………
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Đoạn trích có kết cấu chặt chẽ như một truyện ngắn cổ điển. Mở đầu là bốn câu giới thiệu chung về hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.
“Đầu lòng hai ả tố nga
………
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Hai cô con gái đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại đi vào trang thơ của Nguyễn Du đều xinh đẹp, tươi tắn cả hai, hệt như những nàng “tố nga”. Lời giới thiệu chng về hai chị em đã khắc họa vẻ thanh cao, trong trắng từ hình dáng bên ngoài cho đến tam hồn bên trong. Thứ bậc trong gia đình cũng đã được Nguyễn Du thể hiên qua lời giới thiệu khá giản dị: “Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”. Đặc biệt, ông chú trọng gây ấn tượng ở tinh thần, cốt cách của hai Kiều: cốt cách thanh tao, duyên dáng như mai và tâm hồn, phẩm hạnh trắng trong, thuần khiết như tuyết. Hình ảnh ẩn dụ nằm trong phép tiểu đối không chỉ đặc tả được cái thần của bức tranh thiếu nữ: cả hai đều trinh trắng, sáng trong mà còn khơi gợi xúc cảm thẩm mỹ cho người đọc về vẻ kiều diễm của hai chị em. Hai người họ với những vẻ đẹp không hoàn toàn như nhau mà là mỗi người đẹp theo một vẻ nhưng đều là những vẻ đẹp hoàn mỹ. Từ vóc dáng cho đến tâm hồn, Thúy Kiều và Thúy Vân đều đạt đến mức vẹn toàn thật là tuyệt đối như tác giả đã nhận định: “mười phân vẹn mười”. Điều ấy cho thấy ý thức lí tưởng hóa cao độ của nhà thơ bởi lẽ ở đời mấy ai được “mười phân vẹn mười”. Câu thơ không chỉ nhằm thống báo vẻ đẹp hoàn thiện của Thúy Vân, Thúy Kiều mà còn chất chứa niềm ngưỡng mộ trước cái đẹp rất riêng của mỗi người.
Những ước lệ của văn chương cổ đi vào câu chữ của Nguyễn Du với biết bao tình cảm mến yêu, trân trọng. Lời khen chia đều cho cả hai, nét bút muốn đặc tả “mỗi người một vẻ”. Chính vì thế mà liền sau đó, thi sĩ tập trung khắc họa từng người. Đầu tiên, chân dung Thúy Vân hiện ra với bốn câu thơ.
“Vân xem trang trọng khác vời,
………
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Chỉ vẻn vẹn bốn dòng thơ, Nguyễn Du đã thể hiện thật tài hoa vẻ đẹp tươi tắn, trẻ trung của một cô gái đang độ trăng tròn. Ở Vân cũng khẳng định ngay từ câu thơ đầu cái điểm hơn người: vẻ đẹp của Vân là vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang nhưng cũng là sự “trang trọng khác vời”. Để rồi, sau đó là sự cụ thể hóa ở khuôn mặt tròn đầy, ngời sáng như vầng trăng đêm rằm, đôi lông mày cân đối, sắc nét như con ngài. Hiện diện trên khuôn mặt tươi sáng ấy là nụ cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo như ngọc. Hay là phải chăng “ngọc thốt” ở đây là để chỉ những lời nói của nàng quý giá và đáng trân trọng như ngọc ngà? Một từ “thốt” thôi mà có thể giúp ta nhận ra vẻ dịu dàng , hiền thục hiếm thấy của Thúy Vân. Thật là tài tình! Không những thế, nàng còn sở hữu cả một mái tóc đen óng, nhẹ hơn mây và làn da mịn màng, trắng hơn cả tuyết. Quả là một vẻ đẹp hoàn hảo, cao sang, quý phái! Sắc đẹp của Thúy Vân sánh ngang với những nét kiều diễm, sáng trong của trăng hoa, ngọc vàng, mây tuyết,…, những báu vật tinh khôi, trong trẻo của đất trời. Chỉ thoáng nhìn hình dáng, thoáng nghe Vân chuyện trò, chúng ta cũng dễ dàng cảm nhận được tất cả sự dịu dàng, đoan trang của một cô gái khuê các. Có lẽ, Nguyễn Du cũng đã rất có dụng ý khi sử dụng những tính từ chỉ độ tròn đầy, viên mãn để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân: “đầy đặn”, “nở nang”. Một vẻ đẹp căng tròn của tuổi trẻ! Về mặt này, con mắt nhìn của Nguyễn Du cũng thật “tinh đời”! Dựng lên hình ảnh của Thúy Vân với một vẻ đẹp phúc hậu, quý phái khiến thiên nhiên, tạo vật cũng phải “thua”, “nhường”, nhà thơ đã giúp ta nhận ra đấy là một vẻ đẹp có được sự hòa hợp, êm đềm với thế giới chung quanh. Thêm vào đó là giọng thơ nhẹ nhàng, êm dịu nên Thúy Vân là hiện thân của cuộc đời yên ả, ấm êm. Từ những thông điệp nghệ thuật trên, phải chăng đó là dự cảm về một cuộc sống bình lặng, suôn sẻ, hạnh phúc trong tương lai?
Nếu Nguyễn Du dành đôi nét tài hoa cho Thúy Vân thì với Thúy Kiều, tác giả dùng hết tâm lực để có những nét vẽ thần kì, công phu hơn.
“Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Câu chuyển tiếp cho ta thấy từ sắc đến tài, Kiều hơn hẳn Thúy Vân, đó không phải là cái đẹp hiền lành, phúc hậu mà trái lại vừa sắc sảo, lộng lẫy, vừa mặn mà, duyên dáng, yêu kiều. Thì ra, Thúy Vân đã sắc nước hương trời, Thúy Kiều còn rực rỡ hơn thế nữa. Bằng thủ pháp đòn bẩy, Nguyễn Du đã mượn vẻ đẹp của Thúy Vân làm nền để nêu bật vẻ đẹp, tài năng của Thúy Kiều, giúp người đọc hình dung rõ hơn về bức chân dung của nàng bằng cái nhìn của riêng mình. Thực tế, đến Thúy Kiều, ta thấy Nguyễn Du rất ít tả mà chỉ gợi. Ông lại thêm một lần nữa chứng tỏ cốt cách nghệ thuật của một nghệ sĩ bậc thầy. Bởi, nếu bây giờ nhà thơ cũng lặp lại trình tự tả y hệt như tả Thúy Vân thì hóa ra quá đỗi vụng về. Đặc biệt, sức gợi của vẻ đẹp Thúy Kiều toát lên từ đôi mắt: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”. Nguyễn Du dường như chỉ nói về đôi mắt của nàng. Đôi mắt trong, sáng ngời, gợi tình như sóng nước mùa thu và đôi mày cong cong mềm mại, thanh tú như dáng núi mùa xuân. Cách miêu tả khiến khi đọc lên, ta như thấy có ánh sáng và làn sóng xao động bên trong. Chỉ vậy thôi mà bao ẩn ý. Đôi mắt nhìn đời, nhìn người sâu thẳm. Đôi mắt dạt dào, ẩn chứa bao tình cảm lai láng: biết yêu thương, căm hận, nhức nhối, sẻ chia,… Đôi mắt thể hiện một đời sống nội tâm phong phú. Đôi mắt “tinh đời” chứ không như đôi mắt đẹp mà vô hồn, vô cảm của Thúy Vân. Thì ra, cụ Nguyễn Du cố tình bỏ sót đôi mắt nàng Vân là vì lẽ đó. Một lần nữa, ta lại thấy nhà thơ sử dụng tối đa nghệ thuật ẩn dụ và tiểu đối trong thơ cổ điển cũng với ý nghĩa tượng trưng để tô đậm, tạo ấn tượng về nhan sắc của Kiều nhưng không gây rườm rà, phức tạp mà trái lại giá trị diễn đạt vẫn hay và tự nhiên. Nhan sắc nàng tuyệt mĩ đến nỗi: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Thêm một lần nữa thiên nhiên được sử dụng để nói về vẻ đẹp của người thiếu nữ. Thiên nhiên vốn là vẻ đẹp vĩnh cửu vậy mà cũng phải “ghen”, “hờn” trước một nàng Kiều “sắc sảo mặn mà”. Hoa không tươi thắm bằng dung nhan của nàng, liễu kém phần tươi non so với sức sống, tuổi trẻ mơn mởn của Kiều. Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp nhân hóa để thổi linh hồn vào câu thơ làm ý thơ thêm phần sống động và trước mắt ta hiện ra một náng Kiều trẻ trung với tuổi xuân tràn đầy như hoa vừa đang độ nở, liễu đến kì xanh tươi. Mà cũng vì thế mà ta càng thấp thỏm hơn khi nghĩ tới tương lai của đời Kiều. Liệu với vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” ấy, Kiều sẽ phải sống thế nào trong bể đời vốn “Thiên địa phong trần, hồng nhan đa truân”.
Bút pháp miêu tả của Nguyễn Du tài hoa ở chỗ ông không chỉ miêu tả ngoại hình để thể hiện tính cách, mà còn thông qua đó dự đoán số phận, cuộc đời nhân vật. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du dùng cặp từ “thua, nhường” để miêu tả Thúy Vân và cặp từ “ghen, hờn” để miêu tả Thúy Kiều. Ảnh hưởng, tác động của nét đẹp hai Kiều với tạo hóa lại đi theo hai hướng khác nhau. Tả Vân, câu thơ Kiều thanh thản bao nhiêu thì khi tả Kiều, câu chữ Tố Như lại trăn trở bấy nhiêu. Như vậy đó, chỉ mới mươi câu Kiều mà đã giúp ta thấu hiểu tấm lòng ưu ái sâu sắc, bao la của nhà thơ nhân đạo Nguyễn Du: ông yêu thương, nâng niu tất cả. Có điều, với Thúy Kiều là cả một sự yêu thương, nâng niu đầy băn khoăn, lo lắng so với Thúy Vân. Thật vậy, trong Truyện Kiều, có lúc Nguyễn Du đã để sư bà Tam Hợp đạo cô đoán định tương lai bất ổn của Kiều qua lời thơ:
“Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
Ở không yên chỗ, ngồi không vững vàng”
Chuyện thế thái, nhân tình cũng thật sâu sắc trong cách nhìn, cách cảm của Nguyễn Du. Miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du còn đề cao trí tuệ và tài năng của nàng, cho thấy rằng Kiều không phải chỉ có nhan sắc tuyệt trần mà còn là người con gái vốn có thiên tư thông minh bẩm sinh và rất mực tài hoa.
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
………
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Tài năng của Kiều đã đạt tới mức lí tưởng. Làm thơ, vẽ tranh, ca ngâm, âm nhac, mọi thứ Kiều đều tỏ ra thành thạo. Đặc biệt, nàng rất sành chơi Hồ cầm. Nguyễn Du một lần nữa lại rất công phu khi dành cho Kiều các chữ: “vốn sẵn tính trời”, “đủ mùi”, “làu bậc”, “ăn đứt” gợi lên sự hoàn mỹ của nàng. Tài năng của Thúy Kiều qua cách khắc họa của Nguyễn Du họa chăng chỉ có thể so sánh với tài thơ vè xuất sắc của cung nữ tròn tác phẩm “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều.
“Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương”
Quả là “Sắc đành đòi một tài đành họa hai”! Lại thêm một lần nữa ta hiểu tại sao Nguyễn Du không miêu tả cái tài của Thúy vân. Tạo hóa đã dành cả cho Thúy Kiều, để rồi lại tỏ ra đố kị mà đan tâm chơi trò nhỏ nhen.
“Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”
Câu chữ, lời thơ chất chứa sự ngợi ca, ngưỡng mộ mà nỗi băn khoăn, lo lắng cứ xốn xang trên mỗi từ ngữ của Tố Như. Có lúc ông đã phải thốt lên rằng:
“Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần”
Nhưng làm sao khác được, “Thiên bạc mệnh” ai oán đã vận vào Kiều mất rồi. Trái tim yêu thương mênh mông của Nguyễn Du cũng chẳng thể nào bảo vệ được Kiều trước vòng xoáy nghiệt ngã của định mệnh.
Đoạn trích khép lại trong bốn câu miêu tả cuộc sống phong lưu, khuôn phép trong đức hạnh, mẫu mực của hai chị em Kiều.
“Phong lưu rất mực hồng quần,
………
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Vẻ đẹp chung của hai chị em được đúc kết lại trong cuộc sống nhung lụa, phú quý. Hai cô gái họ Vương đang ở vào giai đoạn đẹp nhất, thơ mộng nhất của đời người, đó là tuổi dậy thì vô tư, trong trắng. Đã đến tuổi cài trâm nhưng hai thiếu nữ không hề quan tâm đến những chuyện “ong bướm”, tâm hồn như băng tuyết, họ đang sống trong cảnh êm đềm của một gia đình gia phong, nề nếp. Một lần nữa, Nguyễn Du khẳng định lại nếp sống phong lưu, đài các của hai chị em Kiều. “Êm đềm”, “mặc ai” là phong thái cao giá của người đẹp chứ nào phải sự vô cảm trước những rạo rực của tuổi trẻ. Chữ dùng của Nguyễn Du tinh tế lắm chứ đâu phải buông lơi hờ hững, vô tình!
Chỉ với hai mươi bốn câu thơ lục bát, chúng ta cũng đủ thấy tài năng, sáng tạo bậc thầy của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Ngòi bút của ông linh hoạt vô cùng, khi vẽ chi tiết, khi chỉ lướt qua; khi tả, khi gợi, kết hợp nhuần nhuyễn tính ước lệ của sách vở và cách nói dân gian; vừa làm nghệ thuật, vừa gởi gắm tâm tư, tình cảm. Để người đời yêu mến Tố Như và nhân vật của ông khi đến với Truyện Kiều, đều cảm nhận được một ẩn ý sâu sắc: ẩn sau bức chân dung mĩ nữ là tiếng lòng chan chứa yêu thương của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều - mẫu 3
Đọc "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du thì có mấy ai là không nhớ đến vẻ đẹp sắc nước hương trời của hai người con gái đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại trong trích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều trong phần đầu Gặp gỡ và đính ước:
"Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười."
Chỉ với bốn câu thơ thôi, với bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên đã làm rõ cho chúng ta thấy được hình ảnh hai người con gái xinh đẹp, dáng vẻ mảnh mai, thanh tao như mai; tâm hồn thuần khiết như tuyết. Vẻ đẹp ấy đã đạt đến độ mười phân vẹn mười nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Du muốn tô đậm nhạt cho vẻ đẹp ấy "mỗi người một vẻ", không ai lấn át ai.
Trước hết là vẻ đẹp đoan trang, đầy đặn và phúc hậu nhưng cũng không kém phần yêu kiều của Thúy Vân:
"Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét mày nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da."
Có thể từng đường nét trên khuôn mặt Thúy Vân là một kì công của tạo hóa, đạt đến độ chuẩn mực của nét đẹp thời xưa: gương mặt tròn đầy, tươi sáng như ánh trang, đôi mày thanh thoát, miệng cười chúm chím như hoa, lời nói trong trẻo như ngọc thốt, mái tóc óng ả như mây, làn da trắng mịn như tuyết. Sắc đẹp của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên nhưng tạo hòa lại hài hòa, êm dịu với vẻ đẹp ấy: mây thua, tuyết nhường. Chỉ cần đọc đến đây thôi ta có thể dự thấy một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ cho một tương lai của Thúy Vân. Qua bước tranh chân dung, Nguyễn Du đã gửi đến những thông điệp về tương lai của Thúy Vân qua bức tranh này
Tả Vân thật kĩ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác họa thông thoáng
"Kiều càng sắc sảo mặn mà
So về tài sắc lại là phần hơn."
Đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của Vân để làm nổi bật nhan sắc của Kiều. Thúy Kiều mang vẻ sắc sảo của tài năng, trí tuệ, cái mặn mà của nhan sắc. Khác với Thúy Vân, Nguyễn Du chọn miêu tả đôi mắt của Kiều, chọn phần cửa sổ tâm hồn để miêu tả cho tâm hồn và trí tuệ
"Làn thuy thủy nét xuân sơn."
Câu thơ chỉ miêu tả đôi mắt nhưng gợi được lên cả một bức tranh sơn thủy, diễm lêm. Bức tranh ấy có làn thu thủy - làn nước mùa thu, có nét xuân sơn - dáng núi mùa xuân. Cũng như khuôn mặt Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh, có đôi lông mày thanh tú khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Vẻ đẹp ấy vượt trội thiên nhiên, khiến muôn hoa cảnh sắc ghen ghét, dỗi hờn. Ngược lại với Vân, đên đây thôi ta cũng có thể dự cảm một tương lai của Kiều, khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của định mệnh.
"Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bạc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương."
Không chỉ có sắc, Kiều còn biết cầm - kì - thi - họa. Nàng giỏi âm luật đến mức làu bậc. Để đặc tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du sử dụng hàng loạt các từ ở mức tuyệt đối: vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi. Không những giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn có thể sáng tác nhạc. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp giữa sắc - tài - tình và đã đạt đến mức siêu phàm, lý tưởng. Chính bởi Kiều quá toàn mĩ, hoàn thiện nên trong xã hội phong kiến khó mà có chỗ đứng cho nàng. Và Cung Bạc mệnh nàng tự sáng tác cho mình như dự đoán một cuộc đời hồng nhan mà bạc mệnh của Kiều.
Mặc dù tài sắc của Thúy Kiều, Thúy Vân khác nhau dự báo về tương lai, cuộc sống khác nhau nhưng đức hạnh hai nàng đều đáng trân trọng, điều này thể hiện ở bốn câu cuối
"Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai."
Mặc dù đã đến tuổi cập kê nhưng "hai ả tố ngã" đã và đang sống trong nề nếp, gia giáo, cuộc sống của các thiếu nữ khuê phòng không hề có biểu hiện của một tình yêu thiếu đúng đắn.
Như vây, tác giả đã khắc họa được chân dung hai người thiếu nữ với tất cả sắc, tài, tình, mệnh. Đằng sau bức tranh chân dung Thúy Kiều là tấm lòng ngợi ca trân trọng của tác giả - đó là một biểu hiện của tinh thần nhân văn trong Truyện Kiều, qua đây ta hiểu thêm và trân tringj thêm vẻ đẹp của con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều - mẫu 4
Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ miêu tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều trích trong “Đoạn trường tân thanh” tức Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. Hai mươi tư câu thơ lục bát đã vẽ nên sắc, tài, đức hạnh của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.
Với ngòi bút của một kỳ tài diệu bút Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai nàng giai nhân tuyệt thế:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân”
Vân là em, Kiều là chị. Hai chị em Vân và Kiều (con đầu lòng của gia đình Vương viên ngoại) đều là những ả tố nga - những người con gái đẹp. Vẻ đẹp của hai nàng là vẻ đẹp thanh tao của mai, là sự trắng trong, tinh sạch của tuyết:
“Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên vẻ đẹp hài hoà, hoàn hảo cả về hình thức lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp của hai nàng đều đến mức tuyệt mĩ mười phân vẹn mười nhưng mỗi người lại mang một vẻ riêng. Nguyễn Du đã lấy những gì đẹp đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả hai chị em. Thuý Kiều và Thuý Vân đều mang vẻ đẹp lí tưởng, theo khuôn mẫu và vượt lên trên khuôn mẫu.
Sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời,”
Hai chữ trang trọng trong câu thơ đã nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của Vân. Vẻ đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời:
“Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói. Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như vầng trăng, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng bềnh hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý phái. Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu: mây thua, tuyết nhường. Với vẻ đẹp như thế, Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ và một tính cách điềm đạm. Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận.
Tả Vân thật kỹ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác hoạ thông thoáng bởi ông không muốn là người thợ vẽ vụng về:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Sắc đẹp của Kiều được đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của Vân để thấy được sự hơn hẳn của Kiều về vẻ sắc sảo của tài năng trí tuệ, bởi cái mặn mà của nhan sắc. Không tả khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười, làn da, mái tóc như Thuý Vân mà Nguyễn Du đã thật tài tình khi chọn đôi mắt Kiều để đặc tả bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ:
“Làn thu thủy nét xuân sơn,”
Câu thơ tả đôi mắt mà gợi lên bức tranh sơn thuỷ, diễm lệ. Bức tranh ấy có làn thu thủy - làn nước mùa thu, có nét xuân sơn - dáng núi mùa xuân. Cũng như khuôn mặt Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh, có đôi lông mày thanh tú mà khiến:
“Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh”
Vẻ đẹp của Kiều không chỉ như thiên nhiên mà còn vượt trội hơn cả thiên nhiên khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Thiên nhiên không còn thua, nhường mà cau mày, bặm môi tức giận, mà đố kỵ hờn ghen. Nếu vẻ đẹp của Vân là những gì tinh khôi, trong trắng nhất của đất trời thì Kiều lại mang vẻ đẹp của nước non, của không gian mênh mông, của thời gian vô tận. Cái đẹp ấy làm cho nghiêng nước, đổ thành:
“Một hai nghiêng nước nghiêng thành,”
Nguyễn Du đã sử dụng những điển tích để cực tả Kiều với vẻ đẹp của trang giai nhân tuyệt thế. Và cũng chính vẻ đẹp không ai sánh bằng ấy như tiềm ẩn những phẩm chất bên trong cao quý là tài và tình rất đặc biệt:
“Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”
Kiều có cả tài cầm - kì - thi - hoạ của những bậc văn nhân quân tử và tài nào cũng đến mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn nàng chơi là cây hồ cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành nghề riêng. Để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ ở mức độ tuyệt đối: “vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi”. Không những giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Cung đàn nàng sáng tác là một thiên “Bạc mệnh”. Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm chất cao đẹp, trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc - tài - tình và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng. Nhưng nhan sắc đến mức hoa ghen, liễu hờn để tạo hóa phải hờn ghen đố kị và tài hoa trí tuệ thiên bẩm làu bậc, đủ mùi cái tâm hồn đa sầu, đa cảm như tự dưng mà có của nàng khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của định mệnh. Chính bởi Kiều quá toàn mỹ, hoàn thiện nên trong xã hội phong kiến kia khó có một chỗ đứng cho nàng. Và cung đàn “Bạc mệnh” nàng tự sáng tác như dự báo một cuộc đời hồng nhan bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi sẽ sóng gió, nổi chìm, truân chuyên. Cũng giống như bức chân dung Thúy Vân, bức chân dung Kiều là bức chân dung mang tính cách số phận.
Nguyễn Du hết lời ca ngợi Vân và Kiều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười nhưng ngòi bút tác giả lại đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Vân chủ yếu đẹp ở ngoại hình còn Kiều là cái đẹp cả về tài năng, nhan sắc lẫn tâm hồn. Điều đó tạo nên vẻ đẹp khác nhau của hai người thiếu nữ và hé mở hai tính cách, dự báo hai cuộc đời khác nhau đang đón chờ hai ả tố nga. Hai bức vẽ chân dung của chị em Thuý Vân và Thuý Kiều đã cho thấy sự tài tình trong ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du.
Kết thúc đoạn thợ là bốn câu lục bát miêu tả cuộc sống phong lưu khuôn phép, mẫu mực của hai chị em Kiều:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”
Hai người con gái họ Vương không chỉ có sắc - tài - tình mà còn có đức hạnh. Sống phong lưu đến mực hồng quần. Cả hai đều đã tới tuần cập kê - tới tuổi búi tóc, cài trâm nhưng vẫn sống trong cảnh:
“Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Hai câu thơ như che chở, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong nhụy trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả vì ai. Nguyễn Du đã buông mành, gạt tất cả mọi vẩn đục cho cuộc đời khỏi cuộc sống phong lưu của hai chị em để đề cao hơn đức hạnh của hai nàng.
Với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy Vân, Thuý Kiều bằng những gì đẹp đẽ, mỹ lệ nhất. Hai bức tranh mỹ nhân bằng thơ đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng và các biện pháp tu từ trong ngòi bút tinh tế của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều - mẫu 5
Về mặt nghệ thuật, văn học trung đại – kể cả truyện văn xuôi và truyện thơ – thường ít miêu tả chân dung. Chẳng hạn tả Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con gái Nam Xương (Truyền kì mạn lục), Nguyễn Dữ chỉ phác hoạ sơ sài "Tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt" – nghĩa là được cả nết lẫn người. Thanh Tâm Tài Nhân – tác giả của Kim Vân Kiều truyện (Trung Quốc), tuy có sáng tạo hơn ở chỗ: không kể bằng ngôn từ của tác giả mà thông qua nhân vật, ở dây là nhân vật Kim Trọng để thấy những nét nổi bật vé hai cô gái họ Vương: "Thuý Kiều mày nhỏ mà dài, mắt trong mà sáng, mạo như trăng thu, sắc tựa hoa đào. Còn Thuý Vân thì tinh thần tĩnh chính, dung mạo đoan trang, có một phong thái riêng khó mô tả".
Tiếp thu, có nghĩa là kế thừa và sáng tạo – kể cả sáng tạo từ một nguyên mẫu của người xưa – Nguyễn Du có một cách làm khác trên những phương hướng làm cho nghệ thuật gần với cuộc đời hơn, cái đẹp gần với cái thực hơn, do đó mà sức sống của nghệ thuật dồi dào, mạnh mẽ hơn. Sự hấp dẫn đối với người đọc vì thế được tăng cường đáng kể. Nói như vậy không có nghĩa la trong văn kể chuyện của Nguyễn Du không còn những vướng cản, những hàng rào, những khuôn mẫu. Chẳng hạn ngay trong trích đoạn này, cách kể của nhà thơ cứ như theo một dàn ý, lớp lang được sắp đặt từ đầu: giới thiệu chung trước, Kiều và Vân tả sau. Sau khi đã miêu tả cụ thể từng người, nhà thơ gộp lại như một kết luận. Đó là nhìn về tổng thể. Nhưng trong cái khối tổng thể ấy, ngòi bút nhà thơ có sự bứt phá và có thể nói ông đã thành công, những thành công rất đáng ghi nhận trong một thời văn chương bùng phát.
Trước khi đi vào phân tích từng phần, nếu cần có một nhận xét chung thì nhận xét đó là: hai mươi bốn câu thơ tả người, tả vẻ đẹp người đặt trong tổng thể Truyện Kiều như một kết cấu riêng rất hoàn chỉnh, hài hoà, đăng đối. Trong dó có cả cái chung (bốn câu đầu và bốn câu cuối), có cả cái riêng (mười sáu câu giữa). Riêng về cái chung, cách miêu tả sự hài hoà đăng đối không chỉ biểu hiện ớ trạng thái cân bằng về số lượng câu, mà cái chính là ở giọng điệu của người kể. Ngay trong giọng điệu, nếu bốn câu đầu có tính chất phẩm bình thì bốn câu kết như là một sự khép mờ. Và dù phẩm bình hay khép mở, giọng thơ vẫn thư thái, thong dong:
Đầu lòng hai ả tố nga
Hai câu thơ đầu mang sắc thái trung tính, chưa mảy may có một nhận xét gì. Sự ra đời của hai cô không có gì khác thường đặc biệt cả. Nhưng đến hai câu sau đó, giọng thơ đã có sự chuyển đổi, giai điệu thơ đã khác: một câu thơ hai nhịp (câu ba): "Mai cốt cách/tuyết tinh thần" giống như một ấn tượng, một cái gì thật khó nói, khó quên. Nhịp 3/3 thay cho nhịp đôi thường lệ, riêng âm điệu thơ với ba thanh trắc liền nhau (cốt, cách, tuyết) trong đó chỉ một từ bắt buộc (tuyết) phái là thanh trắc, diễn tả một thái độ phẩm bình, một ngợi khen hiếm thấy. Sức ám ảnh của thư bắt đầu. Nó tạo được sự chú ý. Sự chú ý này trên hai cấp độ: đó là những vẻ đẹp khác nhau, và cả hai đều hoàn mỹ ("Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười"), đó còn là vẻ đẹp "tinh thần" trong tổng hòa của "cốt cách" – cả hình thức lẫn nội dung. Riêng cấp độ thứ hai còn là sự chỉ dẫn của nhà thơ trong quá trình khám phá vẻ đẹp của hai cô gái về sau.
Nhan sắc của Vân bắt đầu bằng một giọng kể vừa khách quan, vừa như trò chuyện tạo mối giao cảm giữa người nói với người nghe, mà thật là cô đúc:
Vân xem trang trọng khác vời
Từ "xem" xen vào câu kể đã để lại một dấu ấn chủ quan của người kể. Nhưng nhan sắc của Thuý Vân đến độ "khác vời" thì đã là dấu ấn chủ quan lại càng rõ rệt hơn. Hai chữ "khác vời" tương đương với cụm từ "tuyệt vời" ("Cánh hồng bay bổng tuyệt vời"). "Khác vời" là cái đẹp khó lòng nói hết, cái đẹp của nhan sắc, và cả cái đẹp ở ngoài nhan sắc. Bản thân nó là một bài thơ mà ý nghĩa không chỉ ở trong lời. Tuy nhiên, để cụ thể hoá cũng đồng thời để cá biệt hoá vẻ đẹp của Thuý Vân, phải đọc tiếp những câu sau đó. Có nhiều người khi phân tích ba câu thơ tiếp đó thường chỉ chú ý đến: khuôn trăng, nét ngài, hoa cười, ngọc thốt nghĩa là những ngữ danh từ ước lệ mà ít quan tâm hơn đến những vị ngữ kèm theo, như: đầy đặn, nở nang, đoan trang. Theo chúng tôi hiểu, khuôn trăng chỉ khuôn mặt, nét ngài chỉ lông mày, hoa chỉ nụ cười, ngọc chi tiếng nói đã cách điệu lên theo mô thức có sẵn của thơ xưa để từ đó tránh đi những suy diễn quá xa và không đáng có. Ví dụ "khuôn trăng" được giải thích là khuôn mặt tròn trịa (?), lông mày sắc nét, đậm như con ngài (?), tóc đen óng nhẹ hơn mây (?)… giải thích như thế chẳng những không đúng mà còn hạ thấp nhan sắc của Thuý Vân, nó đi vào khuynh hướng dung tục, tầm thường hoá, không trung thành với vẻ thanh cao, trong trắng như "tuyết" trong tinh thần của vẻ đẹp ấy. Chẳng hạn như nếu hiểu "mày ngài" là lông mày đẹp thì đó lại là cái vẻ đẹp của người võ tướng như Từ Hải "Râu hùm, hàm én, mày ngài". Khôi phục lại ba vị ngữ đã nói ở trên, chúng tôi muốn nhấn mạnh vào cách hiểu sau đây: nhà thơ muốn chắt lọc vẻ đẹp của Thuý Vân ở khía cạnh hài hoà, dung hòa giữa dung nhan và đức hạnh. Nhan sắc làm tươi tắn cho đức hạnh (để không là khổ hạnh), ngược lại: đức hạnh làm cho nhan sắc trở nên thùy mị nết na. Nét độc đáo của Thuý Vân nằm trên đường ranh giới ấy để thống nhất một cách tuyệt đối hai khía cạnh rất khó gặp nhau. Trong vở kịch Hăm-lét của Sếch-xpia, trong tâm trạng giả điên, Hăm-lét đã nói với Ô-phê-li-a bằng một câu rất "tỉnh", về cái nghịch lí vừa nêu: "Nếu cô vừa là người đức hạnh lại vừa nhan sắc, thì đức hạnh làm sao có thể nói chuyện được với nhan sắc của cô?". Thực hiện sự thống nhất này là khó, thậm chí là rất khó khi nhà thơ thoát ra ngoài mô hình công thức mà vẫn tả chân thực khá tỉ mỉ, chi tiết vẻ đẹp tinh thần của một nhan sắc trời cho. Toả ra đâu đây một thứ hương thơm dịu dàng, tinh khiết từ cái dáng vẻ phúc hậu, hiền thục của Thuý Vân, vẻ đẹp ấy rất đáng để "Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da". Trước vẻ đẹp của Thuý Vân, thiên nhiên là mây, tuyết cũng nể vì, cảm mến.
Tả Thuý Vân như thế là đã đẹp, đã hay, kết thúc như thế là gọn. Nhưng trong mối liên kết của mạch thơ, người kể chuyện như lấy được dà để tôn vinh một nhân vật thứ hai tiếp nối: "Kiều càng sắc sảo mặn mà". Đó là hai phẩm chất của Thuý Kiều mà Thuý Vân chưa có hoặc có nhưng chưa trọn vẹn: tài và sắc. "Sắc sảo" là trí tuệ, là tài, là khả năng nhận thức nhanh nhạy, thông minh và ứng xử linh hoạt, kịp thời. Tài còn là cầm kì thi hoạ, bốn thú vui tao nhã mà nàng có đủ. Còn "mặn mà" là tình, là sự nồng nàn, say đắm không nhạt nhẽo, vô tâm. Ý thức nhấn mạnh này là dụng công nghệ thuật đã dành (chẳng hạn như tả Thuý Vân trước để đối chiếu), mà còn là thiện cảm của nhà thơ. Thiện cảm này lăng theo cấp số bằng biện pháp điệp ý. "Càng" ở câu trước đã là hơn, nhưng hình như chưa đủ. Cần phải hai năm rõ mười "So bề tài sắc lại là phần hơn". Nhưng "tài sắc" – sự lặp ý bè đôi so với "sắc sảo, mặn mà" là không hoàn toàn trùng khít.
Thật ra, tả tài sắc Thuý Kiều, Nguyễn Du vẫn dựa vào mô phỏng, lấy thiên nhiên làm chuẩn mực để miêu tả con người. Tả Thuý Vân cũng thế. Chỉ có điều: đó là hai vùng thiên nhiên khác. Nếu thiên nhiên dùng để tả Vân là một thiên nhiên viên mãn, ổn định, tròn đầy, thì khi tả Thuý Kiều thiên nhiên sống động hơn, biến hoá hơn. Ấy là chưa nói cách đặc tả, khắc hoạ có trọng tâm hơn, tập trung vào một nét bao trùm: đôi mắt.
Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Đúng là đôi mắt và lông mày, một đôi mắt trong suốt như không màu, một đôi mắt biết khóc, biết cười, một tuổi trẻ tiềm năng đang bừng thức. Nhan sắc ấy không chỉ là nhan sắc, nó đã hoá linh hồn. Khi tả Vân, nhà thơ nói "Vân xem trang trọng khác vời", ấy là cảm nhận chủ quan. Còn "làn thu thuỷ" nhất là "nét xuân sơn" thì vẻ đẹp đến đây là khách quan, tự nó, nằm ngoài khả năng nắm bắt của nhà thơ. vẻ đẹp ở Kiều nhìn chung là vẻ đẹp vượt ngưỡng, không một khuôn mẫu nào có thể ôm trùm – kể cả thiên nhiên, một tiêu chí tối đa cho vẻ đẹp con người của văn chương trung đại.
Tuyệt đối hoá nhan sắc của nhân vật là một cách làm không dễ. Để thuyết phục, để người ta có thể chấp nhận, có một con đường "mềm hoá" mà thi sĩ đã tìm ra: "Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai". Nghĩa là trong sự toàn bích đã có sự hơn thua. Nói tài thua sắc không có nghĩa là tài thường hay "tài hèn". Thua là so với nhan sắc, chứ còn tài ấy cũng rất hiếm hoi trong thiên hạ.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Trong bốn cái tài ấy, có lẽ tài đàn của Kiều là nổi bật. Bởi vì vẫn quen thuộc những động thái tư duy từ khái quát đến cụ thể. Nhưng đến cái cụ thể thì thơ hoạ, hát xướng được dồn chung lại thành một câu. Còn tài đàn sau đó cần đến bốn câu. Và trong bốn câu ấy, câu nào cũng nói đến một bậc kì tài. Khi thì thuần phục (làu), lúc thì nổi bật (ăn đứt) một tài năng trời phú (khúc nhà) nhất là với cung bạc mệnh, "Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân". Người ta thường nói đến vẻ đẹp số phận của nàng Kiều vì "Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh". Không chi vì thiên nhiên giận hờn, ghen tức, mà Kiều cũng như thế:
Đã cho lấy kiếp hồng nhan
Lam cho, cho hại, cho tàn, cho cân
Nhưng nếu xét cho cùng, tiếng đàn mới làm cho đời nàng đau đớn. Rồi tiếng đàn ấy cũng đi suốt mười lăm năm lưu lạc, đi hết cuộc đời. Không phải ngẫu nhiên mà hơn hai trăm năm sau, Tố Hữu nhớ Nguyễn Du là nhớ tiếng đàn ấy:
Tiếng đàn xưa đứt ngang dây
Hai trăm năm lại càng say lòng người.
(Kính gửi cụ Nguyễn Du)
Nhưng, tất cả là câu chuyện về sau. Còn lúc này, ở những trang đầu của cuộc đời hai chị em chưa có một vệt mực nào giây vào, nó còn tinh nguyên, thanh sạch. Bốn câu kết đoạn trở về trạng thái thong dong: "Phong lưu rất mực hồng quần", "Êm đềm trướng rủ màn che"… nghĩa là gần giống bốn câu đầu đoạn. Nhưng như trên đã nói: nếu bốn câu đầu là phẩm bình, nhận xét thì bốn câu cuối có tính chất khép mớ câu chuyện. Đoạn thơ đóng lại mà vẫn có một cái gì đó không yên. "Xuân xanh xấp xỉ…" phải chăng là chút thoáng hồi hộp, đợi chờ, một cái gì đang tới phía ngoài kia, phía "Tường đông ong bướm đi về mặc ai" mà những cô gái "màn che", "trướng rủ" chưa mấy bận tâm thao thức?
Phân tích đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em trong Truyện Kiều - mẫu 6
“Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta. Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, có thể nói rằng ngôn ngữ VN đã trải qua một cuộc thay đổi về chất và đã tỏ rõ khả năng biểu hiện đầy đủ và sâu sắc”. Thật vậy, “Truyện Kiều” là tác phẩm tiêu biểu của vị đại thi hào dân tộc, một “Danh nhân văn hóa lớn của thế giới”. Ở đó, người đọc vừa say mê trước vẻ đẹp toàn vẹn của người thiếu nữ vừa đau đớn, thương xót cho một phận đời bạc bẽo. Đoạn trích miêu tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều nằm ở phần đầu của tác phẩm, khắc họa cuộc sống, vẻ đẹp và dự báo tương lai của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.
Ở những câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du giới thiệu với độc giả hai người con gái của viên ngoại họ Vương:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Thoạt đầu, bốn câu thơ cất lên, người đọc hình dung ra hai thiếu nữ xinh đẹp “hai ả tố nga”, người em tên Thúy Vân còn người chị là Thúy Kiều. Mỗi người mang một nét đặc trưng riêng tựa như hai loài hoa khác nhau, nhưng đều đẹp tuyệt mỹ, tỏa sắc, tỏa hương “mười phân vẹn mười”. Đó là một vẻ đẹp tròn đầy, cả vẻ bề ngoài lẫn nhân cách, tài năng. Cốt cách của họ được Nguyễn Du ví như “mai” như “tuyết”, trong sáng, thanh thuần, mộc mạc.
Vẻ đẹp của người em gái Thúy Vân hiện lên rõ nét, ngắn gọn trong bốn câu thơ tiếp theo:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Nàng Vân có một vẻ đẹp mà không ai có thể có được “khác vời”. Đó là vẻ đẹp đầy sự sang trọng, quý phái, đoan trang, xứng đáng là một thiếu nữ đài các. Nét đẹp của nàng Vân được họa nên bằng các hình ảnh ước lệ, tượng trưng: khuôn mặt tròn trịa, phúc hậu tựa mặt trăng, đôi lông mày rậm rạp, sắc nét.
Những hình ảnh ước lệ như càng làm tăng thêm vẻ đẹp của nàng. Tính cách nhã nhặn, ôn nhu, cười tươi tựa hoa nở, lời nói đều là lời vàng, ý ngọc. Vẻ đẹp đó đã đạt tới mức khiến sự vật xung quanh phải e thẹn, kính nể “mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”. Những hình ảnh nhân hóa “thua, nhường” dự báo cho một cuộc sống êm đềm, thuận lợi của Thúy Vân.
Nhà thơ miêu tả về Thúy Vân như làm nền, đòn bẩy để làm tăng thêm nét đẹp của Thúy Kiều. Khi miêu tả Vân chỉ gói gọn trong bốn câu thơ nhưng khi nói về Kiều, thi nhân đã dành hẳn mười hai câu thơ, đủ để nhận thấy tác giả có cảm tình thế nào với phận hồng nhan, bạc mệnh này:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Vân đã đẹp đến thiên nhiên cũng phải kiêng dè, Kiều lại đẹp hơn nhiều lần: “càng sắc sảo mặn mà”, “phần hơn”. “Sắc sảo” chính là nét đẹp trưởng thành, thông tuệ. Để có thể khắc họa một cách chân thực nhất sắc đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khai thác triệt để thủ pháp ước lệ, các hình ảnh tượng trưng, đặc biệt tập trung vào đôi mắt “làn thu thủy”. Đôi mắt nàng trong trẻo, bình lặng và ẩn chứa nhiều tâm sự.
Từ đôi mắt ấy, ta cảm nhận được một tâm hồn đa sầu, đa cảm, giàu tình yêu thương của nàng. Bên cạnh đôi mắt như làn nước mùa thu, cặp lông mày được ví là “nét xuân sơn”. Như dáng núi mùa xuân, giúp chúng ta liên tưởng đến đôi mày liễu, gọn mảnh, cong, mang đến vẻ đẹp xuân sắc cho cả khuôn mặt. Đó cũng là một nét đẹp tuyệt hiếm có, biểu lộ tính cách nhu thuận, dịu dàng của người phụ nữ.
Nhưng tại sao không trực tiếp ví đôi lông mày của nàng như lá liễu mà phải ví như núi mùa xuân. Bởi cuộc đời nàng cũng truân chuyên, khúc khủy, lên xuống gập ghềnh tựa như núi. Không chỉ như vậy, vẻ đẹp thuần khiết, tự nhiên của nàng còn có thể làm “nghiêng thành, nghiêng nước”, giao tranh kịch liệt mà hoa, liễu cũng phải hờn ghen. Phải chăng số trời đã báo trước về cuộc sống mai sau của Thúy Kiều sẽ không được êm đềm, hạnh phúc, ngược lại luôn phải chịu nhiều điều bất hạnh, bi thương.
Phân tích chị em thúy kiều ta thấy về nhan sắc, Thúy Kiều đã hơn Thúy Vân một bậc còn về tài năng lại càng giỏi hơn mấy phần:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Tư tưởng Nho giáo cho rằng người phụ nữ không cần quá xuất sắc về mọi mặt thì đã có thể hạnh phúc vẹn tròn, tiêu biểu cho hình mẫu của Thúy Vân; còn ngược lại phụ nữ mà vừa có nhan sắc, lại còn có tài giỏi thì bạc mệnh.
Đây là sự ảnh hưởng của tư tưởng thời bấy giờ đến thơ ca của thi sĩ. Nhà thơ cho rằng: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai". Thúy Kiều vốn là thần đồng từ nhỏ, trí thông minh do trời phú. Thêm vào đó, những ngón nghề cầm, kỳ, thi, họa nàng đều thông thạo, giỏi giang.
Mà đặc biệt nhất là tài năng âm nhạc của nàng: “Cung thương làu bậc ngũ âm/Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”. Nàng có thể tự mình sáng tác nhạc, phổ nhạc, viết lên tiếng lòng của kẻ đa sầu cũng là cuộc đời lắm bạc bẽo, đau thương của nàng “một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”, thật khiến cho người ta đau lòng. Cũng bởi “chữ tài đi với chữ tai một vần.”
Khép lại đoạn trích, Nguyễn Du mở ra không gian sống khá giả, êm đềm của hai thiếu nữ:
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê,
Êm đềm trướng rủ màn che.
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
Xinh đẹp, tài năng, đã đến tuổi lấy chồng và được nhiều người theo đuổi “ong bướm đi về”, Kiều và Vân sống trong khuôn phép, gia giáo “trướng rủ màn che”, cứ chuyên tâm sống một đời êm đềm, hạnh phúc.
Phân tích Chị em Thúy Kiều bước đầu cho thấy được tài năng, bút lực của Nguyễn Du. Ông đã thành công khắc họa chân dung hai nhân vật một cách sống động và sắc nét qua thể thơ lục bát truyền thống, kết cấu tinh tế. Bên cạnh đó, bút pháp ước lệ tượng trưng, hình ảnh so sánh nhân hóa đặc sắc được lồng ghép khéo léo đã đưa đến cho người đọc những cảm xúc khó tả; vừa xuýt xoa trước vẻ đẹp hội tủ đủ: sắc, tài , tình, mệnh vừa khiến người ta nhói lòng trước sự báo số mệnh của nàng Thúy Kiều.
“Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc”. Chẳng biết Nguyễn Du sở hữu bao nhiêu tài năng, dành bao nhiêu tâm huyết để vẽ nên bức tranh có một không hai ở “Chị em Thúy Kiều”. Bức tranh tinh tế, sống động, chân thật và gần gũi, mà khi nhìn ngắm người ta có thể cảm nhận được từng hơi thở của thi sĩ, giọt nước mắt thương cảm về số phận phía trước chẳng mấy hoan hỉ của Thúy Kiều. Ngay bây giờ và đến mãi về sau, Truyện Kiều luôn là áng văn chương bất hủ truyền tụng đời đời.
Xem thêm các bài Soạn văn 9 Kết nối tri thức hay nhất, ngắn gọn khác:
Viết bài văn phân tích đoạn Kiều thề nguyền cùng Kim Trọng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Viết bài văn phân tích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Viết bài văn phân tích đoạn Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều trong Truyện Kiều
Viết bài văn phân tích bi kịch của người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương
Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 9 hay khác:
- Soạn văn 9 Kết nối tri thức (hay nhất)
- Soạn văn 9 Kết nối tri thức (ngắn nhất)
- Giải lớp 9 Kết nối tri thức (các môn học)
- Giải lớp 9 Chân trời sáng tạo (các môn học)
- Giải lớp 9 Cánh diều (các môn học)
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Soạn văn 9 Kết nối tri thức của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sgk Ngữ văn 9 Tập 1 và Tập 2 (NXB Giáo dục).
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT