10+ Bài văn phân tích Chiều tối (điểm cao)

Bài văn phân tích Chiều tối điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Bài văn phân tích Chiều tối (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Bài văn phân tích Chiều tối

I. Mở bài:

- Giới thiệu về Hồ Chí Minh – một nhà cách mạng vĩ đại đồng thời là một nhà thơ lớn với tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu con người.

- Giới thiệu tập thơ Nhật ký trong tù và hoàn cảnh sáng tác bài thơ Chiều tối (viết trong thời gian Người bị giam cầm và chuyển lao tại Trung Quốc).

- Dẫn dắt vào vấn đề: Bài thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh qua bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt đời thường.

II. Thân bài:

1. Hai câu thơ đầu: Bức tranh thiên nhiên buổi chiều tối:

Nguyên tác:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.”

- Không gian: Rộng lớn, bao la với hình ảnh bầu trời, cánh chim, áng mây → gợi cảm giác cô đơn, mệt mỏi.

- Thời gian: Chiều tối – khoảnh khắc cuối ngày, gợi sự mệt mỏi, nghỉ ngơi.

Quảng cáo

- Hình ảnh cánh chim:

+ Là hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ điển, mang ý nghĩa biểu tượng cho sự mỏi mệt, khao khát tìm chốn nghỉ ngơi.

+ Gợi liên tưởng đến sự mệt mỏi, vất vả của người tù trên đường chuyển lao.

- Hình ảnh áng mây cô đơn:

+ Trôi lững lờ trên bầu trời, mang theo sự cô độc, lẻ loi.

+ Gợi cảm giác về hành trình vô định, xa xôi của người tù.

- Nghệ thuật:

+ Bút pháp tả cảnh ngụ tình: cảnh vật mang nỗi lòng của nhân vật trữ tình.

+ Hình ảnh thiên nhiên đơn sơ mà giàu ý nghĩa.

→ Nội dung: Bức tranh thiên nhiên mang nét buồn, cô đơn nhưng vẫn toát lên phong thái ung dung, lạc quan của Hồ Chí Minh.

2. Hai câu thơ cuối: Bức tranh sinh hoạt đời thường:

Quảng cáo

Nguyên tác:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”

Hình ảnh cô gái xay ngô:

- Một hình ảnh đời thường, bình dị, khỏe khoắn, tràn đầy sức sống.

- Thể hiện sự quan tâm của Bác đối với cuộc sống của người lao động.

- Hình ảnh bếp lửa hồng:

+ Điểm sáng trong bức tranh chiều tối, xua tan sự u tối, mệt mỏi.

+ Gợi cảm giác ấm áp, sum họp, hạnh phúc → thể hiện tinh thần lạc quan của Người.

- Điệp vòng (“ma bao túc” – “bao túc ma”):

+ Tạo nhịp điệu liên hoàn, thể hiện sự vận động nhịp nhàng của cối xay ngô.

+ Gợi ý nghĩa tượng trưng cho sự tiếp diễn của cuộc sống, của niềm tin và hi vọng.

Quảng cáo

- Nghệ thuật “nhãn tự” – chữ “hồng”:

+ Điểm sáng của toàn bài thơ, làm nổi bật sự chuyển động từ tối → sáng, từ buồn → vui.

+ Mang ý nghĩa biểu tượng về niềm tin vào tương lai tươi sáng.

→ Nội dung: Bác không chỉ yêu thiên nhiên mà còn yêu cuộc sống, con người lao động. Dù trong cảnh tù đày, Người vẫn hướng về ánh sáng, niềm tin và hi vọng.

III. Kết bài:

- Khái quát lại nội dung bài thơ: Chiều tối thể hiện tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh gian khổ.

- Nghệ thuật đặc sắc: bút pháp cổ điển kết hợp hiện đại, tả cảnh ngụ tình, sử dụng nhãn tự “hồng” làm điểm sáng cho bài thơ.

- Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh: yêu thiên nhiên, yêu con người, kiên cường, lạc quan trong mọi hoàn cảnh.

Bài văn phân tích Chiều tối - mẫu 1

Bài thơ Chiều tối được sáng tác vào năm 1942, khi Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và giải qua nhiều nhà tù. Tác phẩm không chỉ tái hiện cảnh thiên nhiên nơi núi rừng Trung Quốc mà còn thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời của người chiến sĩ cộng sản.

Hai câu thơ đầu phác họa bức tranh thiên nhiên vùng sơn cước:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.”

Bức tranh thiên nhiên được mở ra với hình ảnh cánh chim bay về tổ và áng mây lững lờ trôi trên bầu trời rộng lớn. “Quyện điểu” (chim mỏi) gợi lên sự mệt mỏi sau một ngày dài kiếm ăn, đồng thời phản ánh tâm trạng người tù trên con đường dài chưa biết điểm dừng. Hình ảnh “cô vân” (chòm mây cô đơn) trôi chậm giữa không trung càng tô đậm không gian rộng lớn và cảm giác lẻ loi. Tuy nhiên, dù đang trong hoàn cảnh gian khổ, Hồ Chí Minh vẫn giữ phong thái ung dung, lạc quan, thể hiện qua điểm nhìn bao quát, quan sát thiên nhiên với tâm hồn thư thái.

Nếu hai câu thơ đầu gợi lên nét buồn man mác thì hai câu sau lại mở ra một khung cảnh đầy sức sống:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”

Hình ảnh cô gái xay ngô giữa núi rừng không chỉ mang đến nét đẹp lao động giản dị mà còn là biểu tượng cho sức sống con người. Nhịp điệu xoay vòng của cối xay ngô được thể hiện qua điệp vòng “ma bao túc – bao túc ma”, tạo nên sự chuyển động liên tục, gợi cảm giác nhịp nhàng và bền bỉ. Đặc biệt, chữ “hồng” ở cuối bài thơ làm điểm nhấn, tượng trưng cho ánh sáng, hơi ấm và niềm tin vào tương lai. Sự chuyển đổi từ không gian chiều muộn tĩnh lặng sang khung cảnh sinh hoạt đời thường đã thể hiện tư tưởng lạc quan và tình yêu cuộc sống của Hồ Chí Minh.

Về nghệ thuật, bài thơ mang đậm phong cách cổ điển với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, bút pháp chấm phá và tả cảnh ngụ tình. Đồng thời, tư tưởng cách mạng và tinh thần lạc quan lại là nét hiện đại, làm nên sự khác biệt trong thơ Hồ Chí Minh.

Như vậy, Chiều tối không chỉ là bức tranh thiên nhiên và đời sống bình dị, mà còn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của một người chiến sĩ kiên cường, lạc quan dù trong hoàn cảnh tù đày gian khổ.

Bài văn phân tích Chiều tối - mẫu 2

Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà lãnh đạo tài ba mà còn là một nhà thơ lớn của dân tộc. Chiều tối là một trong những bài thơ đặc sắc được trích từ tập Nhật ký trong tù, sáng tác năm 1942 khi Người bị giải qua nhiều nhà lao ở Trung Quốc. Bài thơ không chỉ tái hiện bức tranh thiên nhiên vùng sơn cước mà còn thể hiện tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác.

Hai câu thơ đầu mở ra một không gian thiên nhiên rộng lớn và tĩnh lặng:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.”

Bức tranh thiên nhiên buổi chiều được khắc họa qua hình ảnh cánh chim bay về tổ và chòm mây lẻ loi trôi giữa bầu trời rộng lớn. “Quyện điểu” (chim mỏi) không chỉ là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca cổ điển mà còn phản ánh nỗi vất vả của những người tù phải di chuyển không ngừng. Áng mây cô đơn trôi lững lờ trên bầu trời không chỉ gợi vẻ đẹp thơ mộng mà còn phần nào thể hiện tâm trạng của Bác trên hành trình đầy gian nan.

Nếu hai câu thơ đầu mang âm hưởng cổ điển, gợi lên sự cô đơn thì hai câu sau lại mở ra một cảnh đời sống sinh hoạt gần gũi:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”

Hình ảnh cô gái xay ngô buổi tối mang đến hơi thở của cuộc sống lao động bình dị. Nhịp điệu xoay vòng của cối xay được thể hiện qua điệp vòng “ma bao túc – bao túc ma”, tạo cảm giác sự chuyển động liên tục, không ngừng nghỉ. Chữ “hồng” ở cuối bài thơ như một điểm sáng, tượng trưng cho sự ấm áp, niềm tin và hy vọng. Dù trong hoàn cảnh gian khổ, Hồ Chí Minh vẫn hướng về ánh sáng, về sự sống, thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng.

Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, kết hợp giữa bút pháp tả cảnh ngụ tình cổ điển với tư duy hiện đại. Đặc biệt, sự chuyển động của hình ảnh từ tĩnh sang động, từ thiên nhiên đến con người đã làm nổi bật tinh thần nhân văn sâu sắc của bài thơ.

Chiều tối không chỉ là bức tranh thiên nhiên giản dị mà còn phản ánh tinh thần kiên cường, phong thái ung dung của Hồ Chí Minh. Dù trong hoàn cảnh tù đày khắc nghiệt, Bác vẫn luôn yêu đời, yêu cuộc sống, thể hiện rõ phẩm chất của một người chiến sĩ – thi nhân vĩ đại.

Bài văn phân tích Chiều tối - mẫu 3

Bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh không chỉ là một bức tranh thiên nhiên vùng sơn cước mà còn là sự phản ánh tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng trên hành trình gian nan. Viết trong hoàn cảnh tù đày đầy khắc nghiệt, bài thơ vẫn toát lên tinh thần lạc quan, yêu đời và ý chí kiên cường của Bác.

Không mở đầu bằng cảm xúc cá nhân, Chiều tối vẽ nên bối cảnh thiên nhiên bằng những nét chấm phá tinh tế:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.”

Cánh chim mỏi tìm về tổ gợi lên hình ảnh quen thuộc trong thơ ca xưa, tượng trưng cho sự kết thúc của một ngày. Chòm mây cô đơn trôi lững lờ trên bầu trời không chỉ tô điểm cho cảnh chiều mà còn phản chiếu tâm trạng của người tù viễn xứ. Không gian mở rộng, nhưng lòng người vẫn cô đơn. Tuy nhiên, thay vì chìm trong nỗi buồn, Bác vẫn giữ phong thái bình thản, nhẹ nhàng quan sát thiên nhiên.

Bước chuyển từ thiên nhiên sang cuộc sống con người được thể hiện qua hai câu thơ sau:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”

Hình ảnh cô gái xay ngô buổi tối mang lại cảm giác bình yên, ấm áp. Sự lặp lại của điệp vòng “ma bao túc – bao túc ma” không chỉ diễn tả nhịp điệu lao động mà còn gợi lên dòng chảy không ngừng của thời gian và cuộc sống. Điểm nhấn của bài thơ chính là chữ “hồng” ở cuối bài – một ánh sáng nhỏ bé nhưng đủ sưởi ấm cả không gian và lòng người.

Khác với những bài thơ cổ điển chỉ dừng lại ở vẻ đẹp thiên nhiên, Chiều tối còn hướng về cuộc sống lao động, về con người. Bác không chỉ quan sát, mà còn đồng cảm và trân trọng những giá trị giản dị của cuộc đời. Trong hoàn cảnh tù đày, Người vẫn không để bản thân chìm vào khổ đau mà luôn hướng tới tương lai với niềm tin vững chắc.

Với kết cấu chặt chẽ, hình ảnh hàm súc và nghệ thuật đối lập giữa bóng tối – ánh sáng, tĩnh – động, Chiều tối không chỉ là một bài thơ tả cảnh mà còn là biểu tượng cho tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh. Qua đó, ta cảm nhận được một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu con người và luôn vững vàng trước mọi thử thách.

Bài văn phân tích Chiều tối - mẫu 4

Bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là một bức tranh thiên nhiên mà còn phản ánh sâu sắc tâm trạng của người chiến sĩ trên hành trình gian lao. Được viết trong hoàn cảnh bị áp giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối mùa thu năm 1942, bài thơ vừa mang nét cổ điển vừa thấm đượm tinh thần hiện đại, thể hiện rõ phong thái ung dung và ý chí kiên cường của Bác.

Mở đầu bài thơ, tác giả vẽ nên bức tranh thiên nhiên vùng sơn cước bằng những hình ảnh quen thuộc nhưng giàu sức gợi:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.”

Cánh chim mỏi bay về tổ báo hiệu thời khắc ngày tàn. Đây là hình ảnh thường thấy trong thơ ca cổ điển, không chỉ miêu tả thời gian mà còn gợi lên sự mệt mỏi, khao khát nghỉ ngơi của con người sau một ngày dài. Song hành với đó là hình ảnh “cô vân” – chòm mây lẻ loi trôi chậm trên nền trời rộng lớn. Chữ “cô” mang đến cảm giác cô đơn, lẻ loi, như chính tâm trạng của người tù trên đường đi đày. Dẫu vậy, thay vì bi lụy, Bác vẫn giữ thái độ ung dung, bình thản, quan sát cảnh vật với con mắt của một thi nhân yêu thiên nhiên.

Nếu như hai câu thơ đầu mang đậm chất cổ điển với bút pháp tả cảnh ngụ tình, thì hai câu sau lại thể hiện tinh thần hiện đại, hướng về cuộc sống lao động của con người:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”

Bóng dáng cô gái xay ngô xuất hiện giữa không gian núi rừng tĩnh lặng, tạo nên một nét chấm phá đầy sinh động. Nhịp điệu lao động được thể hiện qua điệp vòng “ma bao túc – bao túc ma”, khiến ta cảm nhận được sự chuyển động không ngừng của cuộc sống. Đặc biệt, chữ “hồng” ở cuối bài thơ trở thành điểm nhấn rực rỡ, làm sáng bừng cả không gian vốn trầm lắng.

Hình ảnh bếp lửa hồng không chỉ đơn thuần là ánh sáng về mặt thị giác, mà còn gợi lên sự ấm áp của lao động, của gia đình, của cuộc sống đời thường giản dị mà Bác luôn hướng về. Trong hoàn cảnh bị giam cầm, Người không than vãn hay bi quan mà luôn tìm thấy vẻ đẹp của sự sống, của niềm tin vào tương lai. Đây chính là tinh thần lạc quan cách mạng, là bản lĩnh kiên cường của một người chiến sĩ vĩ đại.

Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, cô đọng nhưng giàu hình ảnh và cảm xúc. Sự kết hợp giữa bút pháp cổ điển và tinh thần hiện đại tạo nên một bài thơ hàm súc, vừa tinh tế trong cách miêu tả thiên nhiên, vừa sâu sắc trong tư tưởng nhân văn.

Như vậy, Chiều tối không chỉ là một bài thơ tả cảnh mà còn thể hiện một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, luôn hướng về ánh sáng. Qua đó, ta càng thấm thía vẻ đẹp của một con người vĩ đại – người chiến sĩ Hồ Chí Minh, dẫu trong hoàn cảnh nào vẫn luôn ung dung, kiên cường và tràn đầy niềm tin.

Bài văn phân tích Chiều tối - mẫu 5

Bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh là một tác phẩm tiêu biểu trong tập Nhật ký trong tù, thể hiện sâu sắc tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, đồng thời phản ánh tinh thần lạc quan, ý chí kiên cường của người chiến sĩ cách mạng. Được viết vào cuối mùa thu năm 1942 trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, bài thơ không chỉ là sự ghi chép về cảnh vật mà còn là sự gửi gắm tâm trạng và lý tưởng sống của tác giả.

Mở đầu bài thơ, Hồ Chí Minh vẽ lên bức tranh thiên nhiên buổi chiều nơi núi rừng:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.”

Hình ảnh cánh chim mỏi bay về tổ vốn là một thi liệu quen thuộc trong thơ ca cổ điển. Trong Mạn hứng của Nguyễn Du, ta cũng bắt gặp cánh chim trong buổi chiều tà:

“Chim hôm thoi thóp về rừng”

Hay trong Tràng giang của Huy Cận:

“Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”

Nhưng nếu các nhà thơ xưa thường mượn hình ảnh cánh chim để diễn tả nỗi buồn man mác, sự cô đơn của con người trước không gian rộng lớn, thì Hồ Chí Minh lại có cái nhìn vừa khách quan vừa tinh tế hơn. Người nhận ra sự mệt mỏi của cánh chim sau một ngày bay lượn, đồng cảm với sự vất vả của thiên nhiên, và qua đó, ẩn chứa nỗi niềm của chính mình – một người tù đang lê bước trong cảnh tha hương, cũng mong mỏi một chốn dừng chân, một nơi để nghỉ ngơi.

Bên cạnh cánh chim là hình ảnh “cô vân” – áng mây lẻ loi trôi chậm trên bầu trời. Chữ “cô” gợi sự đơn độc, lạc lõng, còn “mạn mạn” diễn tả chuyển động chậm rãi, gợi cảm giác không định hướng. Phải chăng đó cũng chính là tâm trạng của tác giả – một con người đang đi trên con đường cách mạng đầy gian nan, nhưng vẫn giữ được sự ung dung, bình thản. Chính phong thái đó khiến bài thơ không hề nhuốm màu bi lụy mà vẫn toát lên sự kiên cường của một bậc đại nhân.

Nếu như hai câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên đượm màu cổ điển, thì hai câu cuối lại là bức tranh sinh hoạt đời thường, mang đậm tinh thần hiện đại:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”

Không gian chuyển từ rộng lớn, bao la của núi rừng sang khung cảnh ấm cúng của một xóm nhỏ. Giữa khung cảnh ấy, nổi bật lên hình ảnh cô gái xay ngô, một hình ảnh đời thường nhưng lại mang đến sức sống mạnh mẽ. Nếu như thiên nhiên trong hai câu đầu gợi lên sự tĩnh lặng, thì đến đây, nhịp sống con người lại hiện lên với sự chuyển động liên tục của cối xay ngô. Điệp vòng “ma bao túc – bao túc ma” không chỉ mô phỏng âm thanh đều đặn, nhịp nhàng của cối xay mà còn mang ý nghĩa biểu tượng cho vòng quay bất tận của cuộc sống.

Điểm sáng nhất trong bài thơ chính là chữ “hồng” ở cuối bài. Nếu như câu thơ nguyên tác chỉ dùng một chữ duy nhất thì bản dịch lại chuyển thành “bếp lửa hồng”, phần nào làm mất đi sự hàm súc của nguyên tác. Chữ “hồng” không chỉ là ánh lửa trong thực tế mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự ấm áp, cho niềm tin và hy vọng. Giữa cảnh đêm tối, giữa chốn lao tù lạnh lẽo, chữ “hồng” như một điểm sáng sưởi ấm tâm hồn người tù, thể hiện tư thế lạc quan, kiên định trước nghịch cảnh.

Nhìn tổng thể, bài thơ Chiều tối không chỉ là sự ghi chép về hành trình gian lao của Hồ Chí Minh mà còn thể hiện một tinh thần lớn – tinh thần của một người chiến sĩ cách mạng, luôn tìm thấy ánh sáng ngay cả trong bóng tối. Từ thiên nhiên đến con người, từ cánh chim bay về tổ đến ánh lửa hồng nơi xóm núi, tất cả đều chứa đựng một triết lý sâu sắc: cuộc sống luôn vận động, dù khó khăn nhưng vẫn hướng về sự ấm áp, tươi sáng.

Đọc Chiều tối, ta không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của một bức tranh thiên nhiên, mà quan trọng hơn, ta thấy được một tâm hồn ung dung, bản lĩnh của Hồ Chí Minh. Người không để hoàn cảnh chi phối mình, không để nghịch cảnh làm mất đi tinh thần lạc quan. Trong tù đày, trong gian khổ, Người vẫn ung dung ngắm nhìn cánh chim, vẫn rung động trước vẻ đẹp của cuộc sống đời thường. Chính tinh thần ấy đã làm nên một nhà cách mạng vĩ đại, một thi nhân lớn, một con người có nhân cách cao đẹp mà bao thế hệ sau đều ngưỡng mộ.

Bài văn phân tích Chiều tối - mẫu 6

Bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh không chỉ là một bức tranh thiên nhiên và đời sống con người nơi thôn dã, mà còn là sự phản ánh sâu sắc tinh thần thép và vẻ đẹp tâm hồn của một người chiến sĩ cách mạng. Giữa hoàn cảnh gian khổ trên con đường chuyển lao, Người vẫn giữ được sự ung dung, lạc quan, biến những điều bình dị trong cuộc sống thành cảm hứng nghệ thuật.

Ngay từ hai câu đầu, ta bắt gặp một bức tranh thiên nhiên rộng lớn, vừa tĩnh lặng vừa gợi cảm xúc sâu xa:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.”

Hình ảnh cánh chim bay về tổ vốn là một thi liệu quen thuộc trong thơ ca phương Đông, thường được dùng để diễn tả buổi chiều tà. Trong thơ Nguyễn Du, ta cũng bắt gặp hình ảnh chim bay về rừng vào lúc hoàng hôn:

“Chim hôm thoi thóp về rừng.”

Huy Cận cũng từng viết về cánh chim trong Tràng giang:

“Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”

Nhưng nếu như ở Nguyễn Du hay Huy Cận, cánh chim gợi lên sự buồn bã, cô đơn, thì trong thơ Hồ Chí Minh, cánh chim lại mang ý nghĩa khác. Đó không chỉ là một nét chấm phá cho bức tranh thiên nhiên mà còn thể hiện nhịp sống của muôn loài, sự vận động không ngừng nghỉ của tạo hóa. Cánh chim mệt mỏi tìm về chốn nghỉ cũng giống như con người sau một ngày lao động vất vả trở về tổ ấm. Ở đây, nhà thơ không miêu tả nỗi buồn của riêng mình mà dường như đang quan sát, đồng cảm với thiên nhiên xung quanh.

Hình ảnh “cô vân” – đám mây lẻ loi trôi chầm chậm giữa bầu trời rộng lớn – lại càng làm nổi bật không gian tĩnh lặng của buổi chiều tà. Chữ “cô” gợi lên sự đơn độc, còn “mạn mạn” lại diễn tả chuyển động chậm rãi, mơ hồ. Phải chăng, đám mây ấy cũng chính là ẩn dụ cho hình ảnh người tù tha phương, vô định giữa dòng đời? Tuy nhiên, nếu trong thơ cổ, đám mây thường gắn với tâm trạng buồn bã của con người, thì trong thơ Hồ Chí Minh, đó chỉ là một nét chấm phá cho bức tranh thiên nhiên, không nhuốm màu bi thương mà vẫn có sự ung dung, nhẹ nhàng của một bậc đại nhân.

Từ không gian thiên nhiên, bài thơ chuyển sang bức tranh sinh hoạt đời thường:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”

Nếu như hai câu đầu gợi sự tĩnh lặng, thì đến đây, cuộc sống con người lại hiện lên với những chuyển động nhịp nhàng. Giữa núi rừng hiu quạnh, hình ảnh cô gái xay ngô xuất hiện, mang đến hơi ấm của lao động, của sự sống. Động tác “ma bao túc” (xay ngô) lặp đi lặp lại như vòng quay bất tận của cuộc sống, gợi lên sự bền bỉ, cần mẫn của con người lao động. Điệp vòng trong câu thơ cũng tạo nên nhịp điệu đều đặn, khiến ta như cảm nhận được âm thanh của chiếc cối xay đang xoay vòng.

Nhưng điều đặc biệt nhất trong bài thơ lại nằm ở chữ “hồng” cuối cùng. Trong màn đêm đang dần buông xuống, giữa cảnh núi rừng heo hút, ánh lửa từ bếp nhà ai đó bỗng bừng lên, tỏa hơi ấm. Nếu như câu thơ nguyên tác chỉ có một chữ “hồng”, thì bản dịch thơ lại chuyển thành “bếp lửa hồng”, làm giảm đi tính hàm súc của câu thơ gốc. Chữ “hồng” không chỉ là ánh sáng thực tế mà còn là biểu tượng cho niềm tin, cho sự ấm áp của cuộc sống con người.

Trong hoàn cảnh tù đày, trên hành trình đầy gian khổ, Hồ Chí Minh vẫn hướng về những điều tích cực. Người không để nghịch cảnh làm lu mờ đi niềm lạc quan, không để gian nan cản trở tinh thần yêu đời. Bài thơ bắt đầu bằng bóng chiều chạng vạng, với những nét cô đơn, lặng lẽ, nhưng kết thúc lại bằng ánh sáng của sự sống, của niềm tin. Điều đó cho thấy bản lĩnh của một con người luôn tìm thấy ánh sáng ngay cả trong bóng tối.

Chiều tối không chỉ đơn thuần là một bài thơ tả cảnh mà còn thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù khó khăn đến đâu, con người vẫn luôn hướng về phía trước, tìm thấy niềm vui trong những điều giản dị nhất. Hình ảnh cánh chim mỏi, đám mây cô đơn, rồi ánh lửa hồng bừng sáng – tất cả đều như một hành trình vượt qua gian khổ để đi đến tương lai tươi sáng. Và chính tinh thần ấy đã làm nên một Hồ Chí Minh – một người chiến sĩ, một thi nhân, một con người có nhân cách vĩ đại khiến bao thế hệ sau phải học hỏi và noi theo.

Bài văn phân tích Chiều tối - mẫu 7

Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng vĩ đại mà còn là một thi nhân xuất sắc, với những vần thơ mang đậm tinh thần thép và vẻ đẹp tâm hồn. Chiều tối (Mộ) là một trong những bài thơ tiêu biểu của tập Nhật ký trong tù, thể hiện tinh thần lạc quan, phong thái ung dung và tình yêu cuộc sống của Người ngay cả trong hoàn cảnh gian khổ. Bài thơ vừa là bức tranh thiên nhiên trữ tình, vừa là lời khẳng định về sức mạnh nội tâm của người tù cách mạng.

Hai câu thơ đầu tiên mở ra một không gian bao la, khoáng đạt của buổi chiều tà nơi núi rừng:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.”

Cánh chim nhỏ chao liệng giữa bầu trời rồi tìm về chốn ngủ, một hình ảnh quen thuộc trong thơ ca cổ điển, biểu trưng cho sự kết thúc của một ngày. Nếu trong thơ Nguyễn Du, hình ảnh chim bay về tổ mang nỗi buồn man mác:

“Chim hôm thoi thóp về rừng”

hay trong thơ Huy Cận gợi sự hiu quạnh:

“Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”,

thì trong thơ Hồ Chí Minh, cánh chim không chỉ gợi chiều tà mà còn thể hiện nhịp sống tự nhiên, tiếp nối của vạn vật. Đó không phải là cánh chim mệt mỏi, cô đơn, mà là cánh chim tràn đầy sức sống, đang trở về với mái ấm sau một ngày dài.

Bên cạnh cánh chim, bầu trời chiều còn hiện lên với hình ảnh “cô vân” – đám mây lẻ loi trôi chầm chậm qua không trung. Nếu đặt trong hoàn cảnh thực tế, có thể thấy đây là một sự đồng điệu giữa cảnh vật và con người. Người tù xa lạ nơi đất khách, lê bước trên con đường gập ghềnh, cũng như áng mây cô độc giữa khoảng trời rộng lớn. Thế nhưng, mây vẫn trôi, cánh chim vẫn bay, còn người tù vẫn tiến bước, không dừng lại. Trong thơ Hồ Chí Minh, thiên nhiên không chỉ là bối cảnh mà còn phản chiếu phong thái ung dung, chủ động của người chiến sĩ cách mạng.

Nếu hai câu đầu là bức tranh thiên nhiên rộng lớn, mênh mang, thì hai câu sau lại chuyển sang một cảnh tượng ấm áp, gần gũi của đời sống con người:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”

Hình ảnh cô gái xay ngô xuất hiện đầy bình dị, dân dã. Giữa núi rừng hoang vu, trong ánh hoàng hôn buông xuống, con người vẫn miệt mài lao động, cần mẫn với công việc thường nhật. Điểm đặc biệt của câu thơ là cách dùng từ đảo ngữ “ma bao túc” (xay ngô), vừa diễn tả động tác lặp đi lặp lại của người lao động, vừa tạo nhịp điệu cho câu thơ, làm nổi bật sự bền bỉ của con người trước dòng chảy của cuộc sống.

Tuy nhiên, dấu ấn nghệ thuật đặc sắc nhất của bài thơ lại nằm ở chữ “hồng” cuối cùng. Câu thơ gợi lên hình ảnh bếp lửa hồng rực trong màn đêm, tỏa hơi ấm giữa chốn núi rừng lạnh lẽo. Nếu phần đầu bài thơ mang chút tĩnh lặng, cô đơn, thì đến cuối bài, không gian lại tràn ngập sức sống. Ánh lửa ấy không chỉ là hình ảnh thực mà còn là biểu tượng cho niềm tin, hy vọng, và tinh thần kiên cường của con người.

Trong hoàn cảnh của Hồ Chí Minh, bếp lửa hồng còn có ý nghĩa đặc biệt. Giữa những ngày dài bị giải đi trong xiềng xích, giữa chặng đường lưu đày đầy gian khổ, ánh lửa của cuộc sống đời thường vẫn khiến Người ấm lòng. Đó là biểu hiện của một tinh thần thép: luôn tìm thấy ánh sáng trong bóng tối, luôn hướng về phía trước dù hoàn cảnh có khắc nghiệt đến đâu.

Chiều tối không chỉ là một bài thơ tả cảnh mà còn là một bài thơ thể hiện rõ phong cách nghệ thuật và tư tưởng nhân sinh của Hồ Chí Minh. Bài thơ mang đậm dấu ấn của thơ ca cổ điển, từ bút pháp tả cảnh ngụ tình đến cách sử dụng hình ảnh thiên nhiên mang tính ước lệ. Tuy nhiên, bên cạnh nét cổ điển, bài thơ vẫn có sự hiện đại, thể hiện qua cách nhìn nhận thiên nhiên và con người một cách tích cực, lạc quan.

Không chỉ là người tù đang lê bước trên con đường giải đi, Hồ Chí Minh còn là một thi nhân với tâm hồn nhạy cảm trước cái đẹp của thiên nhiên và đời sống. Giữa những khó khăn, gian khổ, Người không than vãn mà vẫn tìm thấy niềm vui, tìm thấy ánh sáng. Đó chính là bản lĩnh kiên cường, là tinh thần của một người chiến sĩ cách mạng vĩ đại.

Có thể nói, Chiều tối là bài thơ vừa mang vẻ đẹp cổ điển, vừa thấm đượm tinh thần hiện đại. Hình ảnh thiên nhiên rộng lớn, hình ảnh lao động gần gũi, và đặc biệt là ánh sáng của bếp lửa hồng cuối bài – tất cả đã làm nên một bài thơ sâu sắc, giàu ý nghĩa. Bài thơ không chỉ phản ánh tinh thần thép của Hồ Chí Minh mà còn gửi gắm một thông điệp mạnh mẽ: trong mọi hoàn cảnh, con người vẫn luôn có thể tìm thấy niềm vui, tìm thấy ánh sáng và niềm tin để bước tiếp trên hành trình phía trước.

Bài văn phân tích Chiều tối - mẫu 8

Bài thơ Chiều tối (Mộ) không chỉ là một bức tranh thiên nhiên giản dị mà còn là biểu tượng của tinh thần lạc quan, ý chí kiên cường của Hồ Chí Minh trong những ngày bị giam cầm. Qua bốn câu thơ ngắn gọn, Người đã thể hiện sự hòa quyện giữa thiên nhiên, con người và tư tưởng cách mạng.

Hai câu thơ đầu mở ra không gian rộng lớn của buổi chiều nơi miền sơn cước:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.”

Bầu trời buổi hoàng hôn hiện lên với hai hình ảnh quen thuộc: cánh chim mỏi mệt bay về tổ và áng mây lững lờ trôi giữa không trung. Nếu cánh chim trong thơ Nguyễn Du gợi sự mệt mỏi (“Chim hôm thoi thóp về rừng”), trong thơ Huy Cận lại gợi sự cô đơn (“Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”), thì trong thơ Hồ Chí Minh, cánh chim vẫn bay, vẫn tìm về chốn nghỉ ngơi sau một ngày dài. Đó là hình ảnh thiên nhiên giản dị nhưng mang sức sống, thể hiện quy luật vận động của vạn vật.

Bên cạnh đó, hình ảnh “cô vân” – đám mây cô đơn trôi chầm chậm qua bầu trời – tạo nên nét chấm phá nhẹ nhàng, nhưng lại mang nhiều tầng ý nghĩa. Trong cảnh chiều tà, áng mây lẻ loi gợi liên tưởng đến hình ảnh người tù trên hành trình lưu đày, bị xiềng xích nhưng vẫn ung dung, tự tại, không bị hoàn cảnh khuất phục. Chính sự chuyển động chậm rãi của áng mây đã góp phần tạo nên nhịp thơ thong dong, khoan thai, phản ánh phong thái điềm tĩnh của Hồ Chí Minh giữa gian lao.

Nếu hai câu đầu là bức tranh thiên nhiên khoáng đạt, thì hai câu sau lại mở ra một khung cảnh ấm áp, đời thường:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”

Hình ảnh cô gái miền sơn cước đang xay ngô giữa núi rừng hoang vu làm cho bức tranh thiên nhiên thêm phần sinh động. Giữa không gian chiều tà tĩnh lặng, sự xuất hiện của con người lao động đem đến hơi thở của cuộc sống, tạo nên sự đối lập giữa sự vắng vẻ của thiên nhiên và sự bền bỉ, miệt mài của con người.

Điểm nhấn của bài thơ nằm ở chữ “hồng” cuối cùng – ánh lửa bừng lên trong màn đêm. Bếp lửa không chỉ mang ý nghĩa thực mà còn mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đó là ánh sáng của sự sống, của niềm tin và hy vọng. Đối với Hồ Chí Minh, giữa chốn lao tù, ngọn lửa ấm áp ấy như một lời động viên, nhắc nhở rằng dù hoàn cảnh có khắc nghiệt thế nào, vẫn luôn có ánh sáng dẫn lối. Chữ “hồng” đã làm cho bài thơ không rơi vào sự u buồn mà kết thúc bằng một hình ảnh đầy ấm áp và lạc quan.

Bài thơ Chiều tối mang đậm phong cách thơ Đường với kết cấu chặt chẽ, hình ảnh ước lệ, ngôn từ hàm súc. Tuy nhiên, bên cạnh nét cổ điển, bài thơ vẫn thể hiện tinh thần hiện đại ở cách nhìn nhận thiên nhiên và con người. Nếu trong thơ xưa, thiên nhiên thường là nơi con người tìm đến để ẩn dật, thoát ly thực tại, thì trong thơ Hồ Chí Minh, thiên nhiên luôn gắn với cuộc sống lao động, thể hiện tinh thần tích cực.

Không chỉ là người tù đang bị áp giải, Hồ Chí Minh còn là một thi nhân với tâm hồn rộng mở, nhìn thấy vẻ đẹp ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Bài thơ thể hiện phong thái ung dung của Người, đồng thời khẳng định một chân lý: ánh sáng của niềm tin sẽ luôn dẫn lối, giúp con người vượt qua mọi thử thách.

Bài văn phân tích Chiều tối - mẫu 9

Chiều tối là một trong những bài thơ tiêu biểu trong Nhật ký trong tù, thể hiện rõ phong thái ung dung, tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh dù đang bị áp giải trong cảnh tù đày. Với chỉ bốn câu thơ ngắn gọn nhưng hàm súc, bài thơ vừa khắc họa thiên nhiên hoang sơ của vùng sơn cước vừa phản ánh đời sống lao động giản dị của con người, đồng thời bộc lộ tâm hồn thi nhân đầy yêu đời của Bác.

Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên khi trời sắp tối:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.”

Hai hình ảnh quen thuộc – cánh chim bay về tổ và áng mây trôi lững lờ – đã gợi lên một không gian buổi chiều vắng lặng và có phần trầm buồn. Cánh chim xuất hiện nhiều trong thơ ca cổ điển như một biểu tượng của sự mỏi mệt sau một ngày dài, cũng như nỗi khắc khoải, cô đơn của con người khi chiều tà buông xuống. Còn áng mây cô đơn trôi giữa trời lại mang nét lặng lẽ, phiêu du, một cách gián tiếp phản ánh tâm trạng của nhà thơ trên hành trình gian lao. Tuy nhiên, dù đang bị giam cầm, bị áp giải từ nhà lao này sang nhà lao khác, Bác vẫn giữ cho mình một ánh nhìn khoáng đạt, không bị hoàn cảnh làm lung lay tinh thần.

Nếu hai câu đầu là bức tranh thiên nhiên mang chút cô quạnh, thì hai câu cuối lại mở ra một khung cảnh ấm áp của đời sống con người:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”

Giữa không gian miền núi vắng lặng, hình ảnh cô gái đang xay ngô hiện lên với dáng vẻ chăm chỉ, cần mẫn. Động tác quay cối xay ngô lặp đi lặp lại không chỉ tái hiện một nhịp sống lao động bình dị mà còn tạo ra sự đối lập với cảnh chiều tà trước đó. Quan trọng nhất, hình ảnh ánh lửa hồng trong câu cuối bài thơ mang một ý nghĩa đặc biệt. Nó không chỉ là ánh sáng thực của bếp lửa mà còn là ánh sáng của niềm tin, của hi vọng và sự sống. Một ngày lao động dẫu có vất vả đến đâu, khi đêm xuống, con người vẫn quây quần bên ánh lửa ấm áp, tượng trưng cho sự sum vầy và hạnh phúc.

Chữ “hồng” cuối bài chính là nhãn tự, là điểm sáng làm thay đổi toàn bộ không khí của bài thơ. Từ cái lạnh lẽo, u tịch của cảnh chiều nơi núi rừng, bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh tràn đầy sức sống. Điều này thể hiện rõ tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh. Dù bị tù đày, dù phải đối mặt với bao gian khổ, Người vẫn luôn hướng về sự sống, về ánh sáng của niềm tin và ý chí kiên cường.

Bài thơ mang đậm phong cách cổ điển ở thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, bút pháp chấm phá, hình ảnh thiên nhiên mang tính ước lệ. Tuy nhiên, nét hiện đại của bài thơ lại thể hiện ở cách nhìn nhận con người và cuộc sống. Thay vì chỉ ngắm thiên nhiên như trong thơ cổ, Hồ Chí Minh đã đưa vào đó hình ảnh con người lao động, thể hiện tinh thần gắn bó với đời sống thực tế. Bài thơ không chỉ nói về thiên nhiên hay con người mà còn là lời khẳng định của một ý chí kiên cường, một tinh thần luôn vững vàng trước mọi thử thách.

Bài văn phân tích Chiều tối - mẫu 10

Trong hành trình tù đày đầy gian khổ, giữa những ngày tháng bị giải từ nhà lao này sang nhà lao khác, Hồ Chí Minh vẫn giữ một tâm hồn lạc quan, rộng mở trước thiên nhiên và cuộc sống. Chiều tối là một trong những bài thơ đặc sắc của Nhật ký trong tù, thể hiện rõ nét tinh thần ấy. Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, bài thơ vừa vẽ nên một bức tranh thiên nhiên vùng sơn cước, vừa khắc họa hình ảnh con người lao động trong ánh sáng của niềm tin và hi vọng.

Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên buổi chiều muộn:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.”

Cảnh chiều tà hiện lên với hai hình ảnh quen thuộc: cánh chim bay về tổ và chòm mây trôi lặng lẽ giữa bầu trời. Đây là những hình ảnh thường gặp trong thơ ca cổ điển, biểu trưng cho sự vận động của thời gian và cũng gợi nên một nỗi buồn man mác. Cánh chim bay mỏi mệt sau một ngày kiếm ăn, cũng giống như con người mong muốn tìm một chốn dừng chân sau những hành trình dài. Còn áng mây cô đơn lững lờ giữa không gian bao la lại như một ẩn dụ cho chính tác giả, một người tù chính trị đang trên đường lưu đày, lặng lẽ giữa cuộc đời bôn ba. Tuy nhiên, điểm đặc biệt trong thơ Hồ Chí Minh là dù cảnh có phần hiu quạnh, tâm trạng có chút suy tư, nhưng tuyệt nhiên không có bi lụy hay u sầu. Câu thơ mang dáng vẻ ung dung, phóng khoáng, thể hiện sự hòa hợp của con người với thiên nhiên.

Nếu hai câu đầu là bức tranh thiên nhiên mang chút lặng lẽ, thì hai câu sau lại mở ra một không gian khác, ấm áp hơn, tràn đầy hơi thở của sự sống:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”

Hình ảnh cô gái miền sơn cước cần mẫn bên cối xay ngô làm cho bức tranh thơ trở nên sinh động. Nhịp điệu của công việc được thể hiện rõ qua điệp vòng trong câu thơ (ma bao túc - bao túc ma), gợi lên sự tiếp nối không ngừng nghỉ của vòng quay lao động. Chính giữa không gian miền núi vốn tĩnh lặng, con người hiện lên như một điểm nhấn của sự sống, làm tan đi cảm giác cô liêu của cảnh vật.

Đặc biệt, chữ “hồng” cuối bài thơ chính là điểm sáng rực rỡ, làm thay đổi toàn bộ sắc thái của bài thơ. Nếu như những câu trước mang gam màu trầm lắng của chiều tà, thì đến đây, bài thơ bừng lên sức sống. Ánh lửa hồng không chỉ là ánh sáng thực của bếp lửa mà còn là biểu tượng cho hơi ấm, niềm tin, hi vọng. Trong hoàn cảnh tù đày gian khổ, Hồ Chí Minh không để mình chìm đắm trong nỗi cô đơn mà vẫn hướng về sự sống, hướng về con người với một tình cảm ấm áp.

Về nghệ thuật, bài thơ mang đậm phong cách cổ điển với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, hình ảnh giàu tính ước lệ, bút pháp chấm phá gợi nhiều hơn tả. Tuy nhiên, nét hiện đại của bài thơ lại nằm ở cách nhìn nhận con người. Trong thơ cổ, con người thường chỉ xuất hiện như một phần của thiên nhiên, nhưng trong Chiều tối, hình ảnh con người trở thành trung tâm, là nguồn sáng làm bừng lên sức sống của cả bài thơ. Điều này phản ánh rõ tinh thần nhân văn của Hồ Chí Minh: dù trong hoàn cảnh nào, Người vẫn luôn dành sự quan tâm cho những người lao động bình dị, trân trọng những giá trị đời thường.

Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên và cuộc sống mà còn là một bài học sâu sắc về tinh thần lạc quan. Giữa chặng đường gian lao, giữa bao thử thách khắc nghiệt, Hồ Chí Minh vẫn giữ vững phong thái ung dung, vẫn nhìn đời bằng ánh mắt đầy yêu thương. Và chính từ sự lạc quan ấy, Người đã tìm thấy ánh sáng của niềm tin, ánh sáng của hi vọng, dù trong hoàn cảnh tối tăm nhất.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 12

Bộ giáo án, đề thi, bài giảng powerpoint, khóa học dành cho các thầy cô và học sinh lớp 12, đẩy đủ các bộ sách cánh diều, kết nối tri thức, chân trời sáng tạo tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên