10+ Câu chuyện về nhà bác học (điểm cao)
Câu chuyện về nhà bác học điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Câu chuyện về nhà bác học
- Câu chuyện về nhà bác học (mẫu 1)
- Câu chuyện về nhà bác học (mẫu 2)
- Câu chuyện về nhà bác học (mẫu 3)
- Câu chuyện về nhà bác học (mẫu 4)
- Câu chuyện về nhà bác học (mẫu 5)
- Câu chuyện về nhà bác học (mẫu 6)
- Câu chuyện về nhà bác học (mẫu 7)
- Câu chuyện về nhà bác học (mẫu 8)
- Câu chuyện về nhà bác học (mẫu 9)
- Câu chuyện về nhà bác học (mẫu khác)
10+ Câu chuyện về nhà bác học (điểm cao)
Dàn ý Câu chuyện về nhà bác học
1. Mở bài
- Giới thiệu nhà bác học (có thể là một nhân vật có thật như Newton, Einstein, Edison,… hoặc một nhân vật hư cấu).
- Bối cảnh câu chuyện: Giai đoạn nhà bác học đang nghiên cứu, phát minh hoặc gặp khó khăn trong sự nghiệp.
2. Thân bài
a. Giới thiệu hoàn cảnh
- Nhà bác học đam mê nghiên cứu khoa học từ nhỏ hoặc trong quá trình làm việc.
- Họ phải đối mặt với thách thức lớn (thất bại trong thí nghiệm, sự hoài nghi của người khác, thiếu thốn điều kiện nghiên cứu,…).
b. Diễn biến câu chuyện
- Nhà bác học không bỏ cuộc mà kiên trì thử nghiệm, tìm tòi giải pháp.
- Dần dần, họ khám phá ra manh mối quan trọng hoặc có một bước đột phá.
- Một tình huống quan trọng xảy ra, giúp họ đạt được thành công hoặc tiến gần hơn đến mục tiêu.
c. Cao trào
- Sau nhiều lần thất bại, cuối cùng nhà bác học đạt được kết quả mong muốn.
- Phát minh hoặc công trình nghiên cứu của họ được công nhận, mang lại lợi ích lớn.
3. Kết bài
- Tóm lại ý nghĩa của câu chuyện: Thành công đến từ sự kiên trì và đam mê khoa học.
Câu chuyện về nhà bác học - mẫu 1
Albert Einstein (1879 - 1955) là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất của nhân loại, người khai sinh ra “Thuyết tương đối”. Ông cùng với Newton chính là 2 tri thức lỗi lạc quyết định đến sự phát triển của lý thuyết vật lý hiện đại.
Thế nhưng khi còn nhỏ, Einstein không hề có biểu hiện gì nổi trội, thậm chí là phát triển trí tuệ rất chậm. Năm 4 tuổi, ông vẫn chưa biết nói, cha của Einstein đã tìm mọi cách để giúp con mình phát triển như những đứa trẻ khác.
Trong thời gian đi học, sức học của Einstein rất kém, đuối hơn nhiều so với các bạn bè khác. Thầy Hiệu trưởng trường Einstein theo học cũng quả quyết với cha cậu rằng “thằng bé này mai sau lớn lên sẽ chẳng làm được gì đâu”.
Những lời giễu cợt và sự trêu đùa ác ý của mọi người xung quanh khiến cho cậu bé Einstein rất buồn tủi. Cậu trở nên sợ phải đến trường, sợ phải đối mặt với các thầy cô và bạn bè. Cậu cũng cho rằng mình đúng là đứa trẻ ngốc nghếch thật sự.
Thế nhưng nhờ sự động viên rất lớn của mẹ - một người phụ nữ thông minh, xinh đẹp và có học vấn cao, trí tuệ Einstein phát triển nhanh chóng, cậu bé còn dần khắc phục được tính tự ti và trở nên lạc quan, vui vẻ.
Einstein rất hay nêu ra những câu hỏi lạ lùng, thậm chí có phần quái dị, chẳng hạn như: Tại sao kim nam châm lại chỉ về hướng Nam? Thời gian là gì? Không gian là gì?... Mọi người đều cho rằng cậu bé này là người đầu óc có vấn đề.
Nhưng họ không ngờ rằng, chính những câu hỏi có vấn đề ấy của cậu bé đã giúp Einstein có được thành công sau này.
Câu chuyện về nhà bác học - mẫu 2
Edison là con út trong một gia đình có 7 anh chị em. Bố ông, Samuel Edison là người Hà Lan, bà mẹ Nancy của ông là một giáo viên tiểu học người Scotland. Ông là Người đàn ông sở hữu 1907 bằng phát minh, một kỉ lục vô tiền khoáng hậu trong giới khoa học. Ông cũng đã đọc tới hơn 10.000 cuốn sách và mỗi ngày ông có thể đọc hết 3 cuốn sách. Tưởng nhớ đến ông, chúng ta cùng tìm hiểu về những câu chuyện ngộ nghĩnh của nhà bác học "ngốc" này ...
Edison đã từng ở trong một túp lều tranh, cậu bé nằm sấp trên một đống cỏ tranh, đầu tóc rối bù, dưới bụng là mấy quả trứng gà. Cậu cứ thế nằm im, vẻ mặt đầy chăm chú. Khi mẹ của cậu bé là Bà Nancy tìm hiểu sự việc, thực ra Edison đã nhìn thấy gà mẹ ấp trứng nở thành gà con nên tò mò muốn thử tự mình ấp xem có nở ra gà con được không.
Đến năm 7 tuổi, Edison được cha mẹ cho đi học ở ngôi trường độc nhất trong vùng trường, chỉ có một lớp học 40 học sinh lớn bé đủ cả. Edison được xếp ngồi gần thầy nhất, đó vốn là chỗ cho những học sinh kém cỏi nhất. Trong khi học, Edison không chú tâm trả lời câu hỏi của thầy giáo mà thường đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa với thầy giáo. Vì thế, cậu thường đội sổ và bị bè bạn chê cười.
Thầy giáo của Edison đã từng nói về cậu: “Học trò này điên khùng, không đáng ngồi học lâu hơn”. Từ đó, Edison không đến trường nữa mà ở nhà tự học cùng mẹ.
Thậm chí, thầy hiệu trưởng từng viết những dòng nhận xét: "... trò T. Edison, con trai ông, là một trò dốt, lười và hư. Tốt nhất là nên cho trò ấy đi chăn lợn thì hơn vì chúng tôi thấy rằng trò ấy có học nữa thì sau này cũng không nên trò trống gì... "
Edison khi thấy thí nghiệm khí cầu bay của bố và cậu đã miệt mài tự chế ra mấy loại chất hóa học và bảo người làm thuê của bố là Max thử uống. Sau khi uống thứ thuốc Edison đưa cho, Max gần như ngất lịm người. Nhưng Edison vẫn một mực cho rằng: “Không bay lên được là thất bại của anh ta chứ không phải của mình”!
Năm 12 tuổi, Edison làm nghề bán báo và bán kẹo dạo trên tàu hỏa. Ngày ngày, vừa bán báo, Edison vừa tự mày mò nghiên cứu khoa học. Một lần, trong khi làm thí nghiệm, do không cẩn thận, Edison đã làm cháy toa tàu. Kết quả là cậu bị nhân viên soát vé tàu tát cho một cái ù tai và đuổi khỏi tàu, đồng thời cấm lai vãng đến đường ray nữa. Sự việc này đã khiến cho khả năng thính giác của Edison ngày một kém dần cho đến mãi về sau.
Trong suốt cuộc đời cống hiến tận tụy của mình với những phát minh vĩ đại, nổi tiếng nhất là bóng đèn điện. Edison như là một nhà khoa học tiêu biểu nhất của nước Mỹ và thế giới.
Câu chuyện về nhà bác học - mẫu 3
Hồi đó, Galileo Galilei mới 19 tuổi, còn đang là một sinh viên theo học nghề y. Theo lệ của các trường đại học đương thời, sinh viên nào cũng phải đi lễ nhà thờ. Anh sinh viên Galilei cũng không thể ở ngoài tục lệ ấy. Anh cũng như bao sinh viên khác, tuần lễ nào cũng phải đến nhà thờ. Nhưng có điều, mặc dù phải đi lễ, mà anh vẫn hoàn toàn lãnh đạm với những giáo lí chán ngắt. Trong khi các vị cha cố đang say sưa thuyết trình những điều trống rỗng, thì Galilei lợi dụng thì giờ để suy nghĩ về vấn đề khoa học hấp dẫn đối với anh hơn.
Một buổi, Galilei chợt chú ý đến ngọn đèn treo ở trần nhà thờ đang đu đưa. Chắc rằng khi thắp đèn, người ta đã đụng vào nó nên khi đèn đã được thắp rồi, nó vẫn cứ lúc lắc hoài. Nhưng sao chiếc đèn vẫn đu đua mãi không nghỉ? Và chú ý quan sát, Galilei lại thấy thêm một sự lạ nữa: dao động của chiếc đèn treo mỗi lúc một hẹp dần nhưng thời gian dao động hình như không thay đổi.
Muốn kiểm nghiệm xem điều đó có chính xác không, chàng thanh niên bèn nghĩ cách dùng nhịp đập của tim mình để đo thời gian. Quả nhiên dự đoán đó đã không sai, mỗi lần dao động của đèn treo cũng trùng với một số lần nhất định của mạch đập.
Sau buổi lễ, Galilei quên cả ăn uống, đi kiếm chỉ buộc vào đủ thứ chìa khóa, lọ mực, cục đá,… để làm con lắc, rồi bắt đầu lắc. Thử đi thử lại nhiều lần, Galile khẳng định rằng thời gian để con lắc dao động một lần không phụ thuộc vào trọng lượng của con lắc mà chỉ tùy thuộc độ dài của dây treo. Dây treo con lắc càng dài thì thời gian để con lắc dao động càng lâu; và ngược lại, dây treo con lắc càng ngắn thì thời gian để con lắc dao động càng chóng.
Thế là từ đó, Galileo Galilei đã xây dựng nên các định luật về con lắc [2] và cũng áp dụng ngay phát minh đó vào một việc làm có ích: khám mạch cho người bệnh. Galile đã chế tạo một dụng cụ gọi là “mạch kế” để dùng cho các bác sĩ khám bệnh. Khi bắt mạch cho người bệnh, người thầy thuốc chỉ việc rút ngắn hay thả dài sợi dây treo ở mạch kế sao cho con lắc dao động đều với nhịp tim. Qua độ dài của dây treo, người thầy thuốc sẽ phán đoán được tình hình mạch của người bệnh là nhanh hay chậm mà cho thuốc điều trị.
Câu chuyện về nhà bác học - mẫu 4
Marie Curie là người phụ nữ đầu tiên và cũng là duy nhất trên thế giới hai lần được nhận giải thưởng Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau, được suy tôn là nữ bác học xuất sắc nhất trên toàn thế giới.
Marie Curie là nhà vật lý học, nhà hóa học Pháp gốc Ba Lan, nổi tiếng toàn thế giới về việc nghiên cứu chất phóng xạ. Bà là người phụ nữ đầu tiên và cũng là duy nhất trên thế giới hai lần được nhận giải thưởng Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau, được suy tôn là nữ bác học xuất sắc nhất trên toàn thế giới. Cuộc đời của Marie Curie là một câu chuyện thần kỳ, với rất nhiều sự tích vĩ đại.
Bà đã dành toàn bộ tâm trí, nhiệt tình và sinh mệnh của mình cống hiến cho sự nghiệp khoa học. Bà là tác giả của một tuyên ngôn nổi tiểng: “Trong khoa học, điều quan trọng là phát minh ra cái gì, chứ không phải là bản thân nhà nghiên cứu”…
Marie Curie, sinh ngày 17/11/1867 tại Warsaw, Ba Lan. Ngay từ nhỏ đã bộc lộ tư chất thông minh hơn người và không chùn bước trước bất cứ một khó khăn, thử thách nào để đến với thế giới khoa học rộng lớn, bí hiểm và lý thú. Vì chính phủ Ba Lan thời đó không nhận phụ nữ vào học đại học, Marie Sklodowska đành phải học tại “Trường đại học lưu động” do một số trí thức yêu nước bí mật ở Ba Lan lập ra.
Để có tiền đóng học, Marie phải làm gia sư cho một nhà điền chủ giàu có trong vùng. Sau 5 năm làm gia sư, khi đã 24 tuổi, nhờ sự giúp đỡ từ người chị cả Marie được sang Paris học tại Trường đại học Sorbonne – một trường đại học danh tiếng, coi trọng trí thức và nhân tài, trân trọng người có học vấn cao. Tại đây, Marie đã giành tất cả thời gian và tâm sức cho học tập và nghiên cứu khoa học.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi đến Paris, nhờ những nỗ lực phi thường, Marie đã nhanh chóng trở thành một trong những sinh viên xuất sắc nhất của Trường đại học Sorbonne. Ngay khi đang còn là sinh viên năm thứ ba Marie đã được cấp bằng Thạc sĩ Vật lý và đến năm thứ tư được cấp tiếp bằng Thạc sĩ Số học. Ngoài ra, Marie còn nói, viết thành thạo các thứ tiếng: Pháp, Nga, Anh, Đức và quyết tâm làm luận án Tiến sĩ Vật lý.
Tiền học phí đại học của Marie chủ yếu trông vào số tiền đã dành dụm được trong 5 năm làm gia sư. Cô không có tiền thuê người giúp việc, không có tiền mua thịt, có khi mấy tuần liền chỉ ăn bánh mì với nước trà, thỉnh thoảng mới được ăn một vài quả trứng, một thỏi sôcôla hay một trái táo. Sinh hoạt kham khổ khiến Marie bị bệnh thiếu máu, hay bị ngất. Cô cũng không có thì giờ để tính chuyện yêu đương và hôn nhân.
Song chính trên con đường gập ghềnh và chông gai chinh phục đỉnh cao khoa học, Marie klodowska đã gặp và kết hôn với một nhà khoa học danh tiếng của Pháp: Pierre Curie.
Tình yêu với Pierre Curie là mối tình thứ hai trong cuộc đời của Marie Sklodowska. Năm 19 tuổi, khi đang làm gia sư, Marie đã có mối tình đầu thơ mộng với anh con trai nhà chủ.
Vào kỳ nghỉ hè, Casimir – cậu con trai nhà chủ là sinh viên từ thủ đô về nhà đã đem lòng yêu mến cô gia sư có làn da trắng mịn, tóc vàng óng, đôi mắt to, thông minh đầy sức quyến rũ. Cô còn giỏi khiêu vũ, bơi thuyền, trượt tuyết, cử chỉ nhã nhặn, lại có năng khiếu văn chương. Hai người yêu nhau say đắm và đã bàn đến chuyện kết hôn. Song mối tình của họ không được cha mẹ của chàng trai chấp nhận.
Thêm vào đó, về phía Casimir, do bản tính nhút nhát, nông nổi đã ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ, lập tức bỏ rơi Marie, trở về trường đại học. Sự kết thúc của mối tình đầu ngắn ngủi đã gây cho Marie một cú sốc đến mức tìm đến cái chết. May mà cô bạn thân đã đến kịp.
Những ký ức nặng nề của mối tình đầu cộng với sự bận rộn của việc học hành và nghiên cứu khoa học, Marie hầu như không còn tâm trí để nghĩ đến chuyện yêu đương. Nhưng như một sự bù đắp, khoa học đã đem lại cho cô một người đàn ông giỏi giang, tâm đầu ý hợp.
Vào đầu năm 1894. Marie nhận lời mời của Hội doanh nghiệp Pháp nghiên cứu từ tính của các loại thép. Marie phải nhờ đến sự trợ giúp của một giáo sư Vật lý gốc Ba Lan. Vị giáo sư này đã giới thiệu Marie với Pierre Curie – Trưởng phòng thí nghiệm của Trường Vật lý Paris. Pierre Curie lúc đó đã 35 tuổi, chưa vợ, nổi tiếng về những phát minh về hiện tượng điện áp, về chiếc cân và định luật từ tính mang tên Curie. Nhà Vật lý học tài ba này cũng mang tâm hồn nghệ sĩ, cũng viết văn và làm thơ, yêu âm nhạc, say mê khoa học.
Chỉ vài tháng sau khi gặp gỡ, Marie và Pierre đã yêu nhau và nhanh chóng đi đến hôn nhân. Lễ cưới của họ hết sức đơn giản, không có nhẫn cưới, tiệc cưới, không có cả nghi thức tôn giáo. Họ đạp xe về nông thôn hưởng tuần trăng mật. Ngay cả trong tuần trăng mật, họ cũng nói rất nhiều về lý tưởng, công việc và các thí nghiệm.
Hai năm sau ngày cưới, Marie Curie sinh con gái đầu lòng và chuẩn bị bảo vệ luận án tiến sĩ vật lý. Bà đã chọn hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Urani làm đề tài nghiên cứu. Phải chạy vạy mãi hai vợ chồng Pierre Curie mới mượn được một gian hầm ẩm thấp để làm phòng thí nghiệm. Với hàng ngàn phép tính toán và đo đạc.
Ngót chục năm sau, hai vợ chồng Curie phát hiện ra một nguyên tố phóng xạ mới có cường độ phóng xạ mạnh gấp 400 lần so với Urani nguyên chất. Bà đã dùng tên của Tổ quốc Ba Lan để đặt tên cho nguyên tố đó: Poloni. Ít lâu sau, hai vợ chồng lại phát hiện thêm nguyên tố có cường độ phóng xạ cực mạnh, đó là Radi. Vì tinh luyện Radi từ quặng Pêchbơlăng rất vất vả và tốn kém, hai vợ chồng Curie quyết tâm tìm cách sáng chế.
Sau bốn năm trời với hàng ngàn thí nghiệm, hai vợ chồng Curie đã luyện thành công chất Radi. Với thành công này, năm 1903. Viện Khoa học Hoàng gia London trao tặng hai ông bà Huy chương Devy và một tháng sau Viện Hàn lâm khoa học Thụy Điển trao tặng hai người giải thưởng Nobel Vật lý. Trường đại học Paris phong tặng bà Marie Curie danh hiệu Tiến sĩ khoa học Vật lý xuất sắc.
Nhớ lại thời gian ấy, Marie Curie nói: “Sau khi từ phòng thí nghiệm trở về nhà, đầu óc chúng tôi vẫn cứ còn vương vấn về hiện tượng lạ trong phòng thí nghiệm. Tôi rủ Curie quay lại. Vừa mở cửa, cả hai chúng tôi sững sờ vì muối Radi trong lọ phát ra tia huỳnh quang màu xanh lấp lánh như sao trên bầu trời đêm. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau, ứa nước mắt vì sung sướng.
Gần 4 năm trời ròng rã đó, chúng tôi không có tiền, cũng chẳng một ai giúp đỡ, song tôi có thể nói không chút khoa trương rằng, mấy năm đó là thời kỳ anh dũng và cũng hạnh phúc nhất trong cuộc sống của hai vợ chồng tôi…”.
Năm 1906, một tai họa đã đột ngột giáng xuống cuộc đời của Marie Curie. Trên đường tới Viện Hàn lâm khoa học, Pierre bị tai nạn giao thông và qua đời. Marie Curie không chỉ mất đi một người chồng hết mực yêu thương, mà còn mất đi một chiến hữu đồng cam cộng khổ, một chỗ dựa vững chắc trên con đường vươn tới đỉnh cao khoa học.
Một năm sau, Marie Curie được nhận chức giáo sư thay thế chồng giảng dạy tại Trường đại học và trở thành nữ giáo sư đầu tiên ở Trường đại học Paris. Với nghị lực phi thường, vừa phải một mình nuôi hai con nhỏ, vừa đảm đương công việc dạy học và nghiên cứu khoa học, năm 1911 Marie Curie lại một lần nữa nhận giải Nobel Hóa học. Chính phủ Pháp quyết định tặng bà Huân chương Bắc đẩu bội tinh.
Marie Curie đã hiến thân cho khoa học dũng cảm và vô tư. Sau khi chất Radi xuất hiện, người ta phát hiện tia phóng xạ của nó có thể xuyên qua cơ thể, phá hoại các tế bào bệnh lý, do đó Radi trở thành một vũ khí hữu hiệu chống bệnh ung thư. Giới đầu tư các nước đua nhau trả giá thật cao để mua phương pháp tinh luyện Radi của bà. Có người khuyên bà cách độc quyền lũng đoạn. Nhưng bà không hám lợi. Bà cho rằng phát minh khoa học là để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại, chứ không phải mưu lợi cho cá nhân. Vì thế bà đã công bố cho toàn thế giới biết phương pháp tinh luyện Radi.
Năm 1914, bà được cử làm Giám đốc Viện Radi ở Paris. Đây là cơ sở đầu tiên sử dụng Radi điều trị bệnh ung thư. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Marie Curie cùng con gái là Iren đã ra sức ứng dụng tia Radi để cứu người.
Năm 1921, Marie Curie trên cương vị Giám đốc Viện Radi cùng con gái là Iren sang thăm nước Mỹ. Tổng thống Mỹ đã tặng bà một gram Radi. Bà đã đề nghị ghi rõ trong chứng thư rằng đó là món quà tặng bà để tiến hành nghiên cứu khoa học chứ không phải để làm tài sản riêng.
Năm 1922, bà được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Y học Pháp. Cùng năm này, Ủy ban Quốc tế hợp tác tri thức của Hội Quốc liên tại Geneve bầu bà làm Phó chủ tịch của tổ chức. Bà đã cống hiến cả sinh mạng cho khoa học.
Ngày 14 tháng 7 năm 1934, Marie Curie qua đời. Các bác sĩ cho biết, bà bị trúng độc Radi. Do bị bức xạ lâu dài, nội tạng của bà bị tổn thương nghiêm trọng.Thi hài của bà được mai táng tại ngoại ô Paris, bên cạnh Pie Curie.
Để ghi nhớ cống hiến lớn lao của nữ bác học kiệt xuất trong việc nghiên cứu các nguyên tố mang tính phóng xạ, người ta đã gọi đơn vị cường độ tính phóng xạ là “Curie”! Marie Curie mất đúng vào năm con gái và con rể là Iren Jolit Curie và Federic được tặng thưởng giải Nobel về Hóa học.
Câu chuyện về nhà bác học - mẫu 5
Ngày xửa ngày xưa, cổ Hy Lạp có một nhà toán học nổi tiếng là Acsimet, nhân dân cả nước đều khen ông là người thông minh tài trí.
Có một hôm tại Quốc vương muốn làm một chiếc vương miện mới và tất nhiên là phải thật đẹp rồi. Vua cho gọi một người thợ kim hoàn tới, đưa cho anh ta một thỏi vàng óng ánh yêu cầu anh ta phải làm nhanh cho vua chiếc vương miện.
Không lâu vương miện đã được làm xong, nó được làm rất tinh vi mà lại còn đẹp nữa, vua vô cùng thích thú. Vua đội vương miện lên và đi đi lại lại trước mặt các đại thần. Lúc đó có tiếng thì thầm: “ Vương miện của bệ hạ đẹp quá nhưng ko biết có đúng đều là vàng thật không?” Quốc vương nghe xong liền cho gọi người thợ kim hoàn tới, hỏi: “Chiếc vương miện người làm cho ta có đúng là toàn bằng vàng không?”
Người thợ kim hoàn bỗng đỏ mặt, cúi xuống thưa với vua rằng: “Thưa bệ hạ tôn kính, số vàng Người cho con đã dùng hết, vừa đủ không thừa cũng không thiếu, nếu không tin bệ hạ cho cân lại thử xem có đúng nặng bằng thỏi vàng Người đưa cho con ko ạ.”
Các đại thần đưa vương miện ra cân thử, quả là không thiếu, vua đành phải thả người thợ kim hoàn về. Nhưng vua biết rằng lời nói của người thợ kim hoàn ấy khó có thể tin được vì rằng anh có thể dùng bạc để thay vàng với trọng lượng tương đương mà nhìn bề ngoài không thể phát hiện ra được.
Quốc vương buồn phiền đem chuyện này nói với Ac-si-met, Ac-si-met nói với Quốc vương: “Đây quả là bài toán khó, con xin giúp người làm rõ chuyện này.”
Về đến nhà, Ac-si-met đem cân lại vương miện cùng thỏi vàng, đúng là trọng lượng bằng nhau. Ông đặt chiếc vương miện lên bàn ngắm nghía, ông suy nghĩ đến mức người phục vụ gọi ăn cơm mà vẫn ko biết.
Ông nghĩ: “Vương miện nặng đúng bằng thỏi vàng, nhưng bạc lại nhẹ hơn vàng, nếu như trong vương miện có trộn lượng bạc nặng đúng bằng lượng vàng lấy ra, như vậy chiếc vương miện này sẽ phải lớn hơn chiếc vương miện làm bằng vàng. Làm thế nào để nhận biết được thể tích của chiếc vương miện này và thể tích của chiếc vương miện là toàn bằng vàng cái nào lớn cái nào nhỏ đây ? Chẳng lẽ phải làm một chiếc nữa, như vậy thì thật tốn công sức.” Acsimet lại nghĩ: “Đương nhiên có thể nấu lại chiếc mũ này và đúc thành vàng thỏi để xem nó có to bằng vàng cũ không, nhưng như vậy chắc chắn vua sẽ không đồng ý, tốt nhất phải nghĩ ra cách gì khác để so sánh thể tích của chúng. Nhưng cách gì đây ?
Acsimet thông minh bỗng trở nên trầm lặng, ông vắt óc suy nghĩ mãi mà vẫn chưa tìm ra cách. Ông thường ngồi lặng lẽ cả buổi, mọi người nói ông “đang bí”.
Có một hôm Acsimet đang tắm, vì mải suy nghĩ để nước chảy đầy bồn tắm, sắp tràn cả ra ngoài, ông càng chìm người vào bể thì nước càng tràn ra ngoài nhiều. Acsimet như bừng tỉnh, mắt bỗng sáng lên, ông nhìn nước tràn ra ngoài bể và nghĩ rằng: số nước tràn ra có bằng với thể tích với phần cơ thể của ông chiếm trong bể nước không ? Ông rất vui, lập tức cho nước đầy vào bồn tắm và lại bước vào bồn sau đó làm lại một lần nữa. Ông bỗng vỗ tay reo lên: “Tôi đã phát hiện ra rồi, phát hiện ra rồi !” Ông quên cả mặc quần áo cứ thế reo lên và chạy ra khỏi nhà tắm.
Ngày thứ hai, Ac-si-met đã làm thực nghiệm trước mặt Quốc vương và các đại thần, đương nhiên có mặt cả người thợ kim hoàn để mọi người cùng xem. Ông thả vương miện và thỏi vàng cùng trọng lượng vào hai dụng cụ đựng nước có thể tích bằng nhau được chứa đầy nước, sau đó thu nước tràn ra ngoài vào hai bình đựng. Kết quả cho thấy nước ở bên vương miện tràn ra ít hơn bên thả thỏi vàng rất nhiều.
Acsimet nói: “Mọi người đều đã nhìn thấy. Rõ ràng là vương miện chiếm chỗ ở trong nước nhiều hơn so với thỏi vàng, nếu như vương miện đều là vàng thì lượng nước tràn ra ở hai bên sẽ bằng nhau, cũng tức là thể tích của chúng bằng nhau”.
Người thợ kim hoàn không còn gì để nói nữa, Quốc vương bực tức trừng phạt anh ta. Đức vua rất vui vì Ac-si-met đã giúp vua giải được bài toán khó này, và thưởng hậu hĩnh cho Ac-si-met.
Câu chuyện về nhà bác học - mẫu 6
Không chỉ nổi tiếng trong lĩnh vực toán học, Pytago còn là một nhà tư tưởng lớn với những bài học răn dạy con người mà tiêu biểu là câu chuyện về chiếc cốc dưới đây.
Với bất kì ai từng cắp sách đến trường, chắc chắn đều biết đến nhà toán học nổi tiếng Pytago. Ông được xem là "cha đẻ của số học", và là người đầu tiên thành công trong việc chứng minh tổng 3 góc của một tam giác bằng 180°, nổi tiếng nhất nhờ định lý toán học mang tên ông. (định lí Pytago: trong 1 tam giác vuông, tổng bình phương hai cạnh góc bằng bình phương cạnh huyền).
Nhưng không chỉ tài năng trong lĩnh vực toán học, ông còn là một nhà tư tưởng - triết gia lỗi lạc với những bài học răn dạy các học trò và người dân Hy Lạp. Đặc biệt nhất, phải nhắc đến câu chuyện về chiếc cốc kì lạ mà Pytago đã sáng tạo ra, nhằm dạy dỗ những kẻ tham lam khi uống rượu, luôn rót đầy tràn ly thay vì lấy vừa đủ.
Chiếc cốc này có 1 đường viền chạy xung quanh, được xem là dấu mốc, nếu đổ vừa đủ nước ở mức ngang hoặc dưới đường viền thì không vấn đề gì, nếu ai tham lam đổ cho hẳn đầy cốc thì chất lỏng trong ly sẽ chảy hết ra không còn gì nữa. Sở dĩ có điều kì lạ này là do chiếc cốc được thiết kế rất đặc biệt mà có lẽ chỉ những đầu óc toán học mới có thể nghĩ ra.
Câu chuyện về nhà bác học - mẫu 7
Talet là người đứng đầu trong bảy nhà hiền triết của Hy Lạp. Ông sống ở thành phố Milet trong khoảng thời gian từ năm 625 đến năm 547 trước công nguyên. Ông tuy làm nghề buôn bán thời trẻ nhưng lại có nhiều công trình vĩ đại về toán học, thiên văn học, triết học, chính trị, khoa học tự nhiên. Một trong những giai thoại nổi tiếng là ông từng đo chiều cao của kim tự tháp. Các em có biết ông đã thực hiện điều đó như thế nào?
Talet là một người rất được kính trọng thười đó. Một hôm vua Ai Cập cổ đại đã mời ông vào triều và nhờ ông một chuyện. Vua nói rằng: “Talet, ông biết đấy, kim tự tháp Khufu là niềm kiêu hãnh của người Ai Cập chúng ta, nhưng mãi đến nay không ai biết chiều cao chính xác của nó là bao nhiêu, nếu ông có thể giúp được, người dân Ai Cập sẽ biết ơn ông rất nhiều.”
Talet nghe xong liền đồng ý và nói rằng ngày hôm sau sẽ tiến hành đo đạc ngay. Tin tức nhanh chóng lan truyền khắp nơi. Mọi người ai cũng tò mò đến xem đo đạc thế nào. Khi đến hẹn ông chỉ mang theo một cái cọc và môt cây thước. mọi người rất thất vọng vì họ không tin rằng chỉ với dụng cụ đơn sơ như thế mà có thể đo được chiều cao của một kim tự tháp khổng lồ. Mọi người bàn tán xôn xao, nhưng ông vẫn thản nhiên cắm cọc xuống dất như hình vẽ và đo chiều cao của cái cọc, bóng của cái cọc và bóng của kim tự tháp.
Câu chuyện về nhà bác học - mẫu 8
Đác – uyn là nhà bác học nổi tiếng trên thế giới. Ông còn rất ham học. Vào một đêm giá lạnh, mọi người đã say ngủ. Con ông chợt thức giấc và thấy phòng cha vẫn còn sáng ánh đèn. Con ông ngạc nhiên bước lại gần và thấy cha còn đang cặm cụi bên tập tài liệu. Con ông hỏi:
– Cha đã là bác học rồi còn phải ngày đêm nghiên cứu làm gì cho mệt?
Ông mỉm cười nhìn con đáp:
– Bác học không có nghĩa là ngừng học con ạ.
Khi đã tuổi cao sức yếu, ông còn học thêm tiếng Đức, một thứ tiếng tương đối khó. Một lần vì thương cha tuổi đã cao nên con ông ngỏ ý giúp ông dịch các tài liệu tiếng Đức nhưng ông gạt đi và nói:
– Cha muốn tự mình dịch các tài liệu này.
Về sau, ông đọc và viết rất thông thạo tiếng Đức và nhiều tiếng nước khác.
Câu chuyện về nhà bác học - mẫu 9
Trên chuyến xe lửa từ Paris xuống miền nam nước Pháp. Hành khách đông nghẹt, ồn ào, kẻ lên người xuống, hàng hóa ngổn ngang. 1 chàng sinh viên khoa học đang cố gắng len lỏi tìm chỗ ngồi. Bất giác chàng thấy 1 Ông cụ già đang ngồi lâm râm lần hạt Mân Côi. Chàng liền đến ngồi bên Cụ, thực chất là để xem Ông Cụ già lẩm cẩm này làm cái gì, thời buổi văn minh bây giờ mà còn ngồi đọc mấy cái kinh nhảm nhí. Chàng mở to tờ bào khoa học có đăng hình nhà bác học Louis Pasteur, đang nghiên cứu về 1 đề tài bàn luận về vi trùng học. Anh vội chạy lại vỗ vai Ông Cụ, và nói: Bác có cần sách báo gì để đọc, cho cháu điạ chỉ, cháu sẵn sàng gửi đến cho Bác. Thời nay văn minh rồi, ai còn tụng niệm như Bác nữa. Ông Cụ gật đầu, đọc hết kinh kính mừng, Cụ mở ví ra, rút 1 tấm danh thiếp đưa cho chàng sinh viên. Chàng cầm tấm danh thiếp và đọc: “Bác Học Louis Pasteur, Giám Đốc Viện nghiên cứu vi trùng học quốc tế, Giáo sư chuyên khoa Đại Học hoá học và sinh vật học.” Chàng sinh viên bật ngửa, kêu to lên: thì ra đây là 1 vị đại Giáo sư mà mình đang là học trò của Ông. Chàng liền so sánh hình chụp trong tờ báo khoa học, và hình ông Cụ nhà quê đang ngồi lần chuỗi Mân Côi, thì giống y chang. Chàng liền quỳ xuống bên cạnh Ông Cụ, xin lỗi, và cúi hôn chuỗi hạt Mân Côi mà Cụ đang cầm trong tay. Rồi chàng trở về chỗ ngồi, nét mặt đăm chiêu, suy nghĩ, và hối hận….Còn Ông Cụ vẫn tiếp tục lần chuỗi Mân Côi….
Câu chuyện về nhà bác học - mẫu 10
Stephen William Hawking sinh ngày 8-1-1942, đúng 300 năm sau khi cha đẻ của khoa học hiện đại Galileo Galilei qua đời. Từ năm 21 tuổi, cơ thể ông bắt đầu bị ảnh hưởng bởi căn bệnh xơ cứng cột bên teo cơ (ALS), làm cho hệ thần kinh thoái hóa trầm trọng dẫn đến cơ yếu và teo lại. Những dấu hiệu về bệnh tật xuất hiện vào năm đầu tiên sau khi ông tốt nghiệp đại học. Theo các bác sĩ, căn bệnh này thường gây tử vong trong vòng ba đến năm năm.
Stephen Hawking gây kinh ngạc cho nền y học khi ông sống bình thường với ASL trong hơn 50 năm. Không may, một đợt viêm phổi nặng vào năm 1985 khiến ông cần đến sự hỗ trợ của ống thở và phải giao tiếp thông qua thiết bị tổng hợp âm thanh điện tử với giọng nói đều đều đặc trưng của người máy. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục nghiên cứu khoa học, xuất hiện trên truyền hình và kết hôn hai lần. Dù phải mất vài phút để sắp xếp các câu trả lời thậm chí là đơn giản, ông luôn lạc quan rằng bệnh tật không làm ảnh hưởng tới công việc của mình.
Cống hiến cả cuộc đời cho nghiên cứu khoa học, Stephen Hawking là người tìm ra câu trả lời cho nhiều vấn đề hóc búa nhất của vật lý hiện đại. Ông làm sáng tỏ những bí mật của không gian, thời gian và hố đen trong cuốn “Lược sử thời gian”. Cuốn sách này đã trở thành hiện tượng xuất bản trên thế giới, đưa Stephen Hawking trở thành một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất kể từ thời của nhà khoa học Albert Einstein.
Công trình đầu tiên giúp ông nổi danh là lý thuyết nghiên cứu về các hố đen. Bác bỏ quan điểm trái ngược, ông chỉ ra rằng các hố đen để lọt ra một khe sáng rất nhỏ cũng như các loại bức xạ khác, hiện được biết đến là “bức xạ Hawking”.
Là một trong những người kế thừa sự nghiệp của nhà khoa học Isaac Newton với chức danh Giáo sư toán học Lucas, tại Đại học Cambridge (Anh), Stephen Hawking tham gia công trình nghiên cứu “thuyết thống nhất”. Học thuyết này có thể giải quyết những mâu thuẫn giữa thuyết tương đối tổng quát của Einstein mô tả các quy luật hấp dẫn kiểm soát chuyển động của các vật thể lớn như các hành tinh, và thuyết cơ học lượng tử.
“Một học thuyết thống nhất hoàn thiện và chắc chắn chỉ là bước đầu tiên: mục đích của chúng ta là hiểu biết toàn bộ về các sự việc diễn ra chung quanh và sự tồn tại của con người”, ông viết trong “Lược sử thời gian”.
Sau “Lược sử thời gian”, ông xuất bản cuốn “Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ” vào năm 2001, cập nhật những quan niệm về lực hấp dẫn, điểm “kỳ dị trần trụi” của không - thời gian và khả năng về một vũ trụ lớn gấp 11 lần.
Một đóng góp quan trọng khác của Stephen Hawking là về vũ trụ học, nghiên cứu nguồn gốc và quá trình tiến hóa của vũ trụ. Hợp tác với nhà khoa học Jim Hartle của Đại học California (Mỹ), năm 1983 Stephen Hawking đã đưa ra giả định không gian và thời gian có thể không có sự bắt đầu và kết thúc.
Với cuốn sách bán chạy và nỗ lực nghiên cứu khoa học khi cơ thể mắc phải trọng bệnh, Stephen Hawking đã trở thành một trong những gương mặt nổi tiếng nhất trong giới khoa học.
Tuổi trẻ của ông được tái hiện trong bộ phim “Thuyết vạn vật”, diễn viên đảm nhận vai diễn Hawking Eddie Redmayne đã giành giải diễn viên xuất sắc nhất của Academy Award. Một số đồng nghiệp tin tưởng nhà khoa học lỗi lạc sẽ giúp tạo ra niềm hứng khởi mới cho khoa học.
Những thành tựu khoa học và tuổi thọ của Stephen Hawking góp phần chứng minh rằng ngay cả những căn bệnh quái ác nhất cũng không thể ngăn cản con người tiếp tục sống cuộc đời của mình. Ông không những sở hữu một trí tuệ hoàn hảo bị mắc kẹt trong một cơ thể khiếm khuyết mà còn truyền cảm hứng bất tận cho những người bị rối loạn thần kinh vận động trong rất nhiều năm.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Câu chuyện về quê hương
- Câu chuyện về thầy cô
- Câu chuyện về trường học
- Câu chuyện về trường học lớp 2
- Câu chuyện về truyền thống hiếu học
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều