20+ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn (siêu hay)
Tổng hợp trên 20 bài văn Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn (mẫu 1)
- Dàn ý Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
- Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn (mẫu 2)
- Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn (mẫu 3)
- Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn (mẫu 4)
- Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn (mẫu 5)
- Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn (mẫu 6)
- Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn (mẫu 7)
20+ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn (siêu hay)
Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn - mẫu 1
Qua câu thơ: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" trong bài "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm có thể thấy: Đất nước gắn liền với tình cảm vợ chồng rất Việt Nam, càng gian nan vất vả thì càng son sắt, thủy chung. Điều này được tác giả thể hiện bằng hình ảnh "gừng cay muối mặn".
Nói tời tình cảm của con người a dao lại dùng hỉnh ảnh muối mặn – gừng cay là vì: Thuộc tính ấy diễn tả tình nghĩa con người có mặn mà, có đắng cay. Tình người có trải qua những dư vị ấy mới thêm sâu đậm, mới nặng nghĩa, nặng tình, mới thật thương nhau.
Hình ảnh này được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lấy từ những bài ca dao có nét tương đồng như:
"Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.
hay:
"Muối mặn ba năm còn mặn
Gừng cay chín tháng còn cay
Dù ai xuyên tạc lá lay
Sắt son nguyện giữ lòng này thủy chung."
hoặc:
"Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau".
Đây là những câu ca dao xưa, chỉ những cay đắng gian nan đã gắn bó nên tình nghĩa vợ chồng. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã khái quát đúc kết nên cái tình cái nghĩa vợ chồng của cha ông ta từ bao đời nay, tình yêu đôi lứa, tình nghĩa vợ chồng xa hơn là tình cảm làng xóm, đồng loại đã là chất keo vô hình cho tình yêu nước lớn lao mà trong mỗi chúng ta ai cũng có
Sự khác biệt giữa hình ảnh "muối – gừng" trong ca dao và câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm: trong ca dao, "muối – gừng" được dùng như hình ảnh tượng trưng của tình yêu lứa đôi bền chặt qua những câu thề nguyền, hẹn ước. Trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm, "muối – gừng" còn biểu trưng cho vẻ đẹp tâm hồn bền vững của dân tộc, của ông bà, cha mẹ, tổ tiên – nguồn mạch tạo nên giá trị tinh thần, giá trị văn hóa của đất nước. Đất nước là nơi bắt nguồn của tổ ấm. Đất nước, dù đi bất cứ đâu, ai ai đều nhớ về. Ở nơi ấy, có gia đình, bạn bè, có những lời ru của mẹ, có tiếng kể chuyện cổ tích của bà. Đất nước – nơi tôi lớn lên trong hòa bình, trong sự yêu thương của cha mẹ, người thân. Tôi yêu đất nước, yêu con người Việt Nam, yêu từng nhánh cây, ngọn cỏ trong đó. Vậy đất nước không là những khái niệm trừu tượng mà là những gì gần gũi thân thương trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Chính vì thế, giọng điệu tâm tình trong những câu ca dao là giọng trao duyên đằm thắm, ngọt ngào; giọng tâm tình trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm là giọng hồi tưởng, có sắc thái trang trọng.
Muối mặn gừng cay là 2 thứ gia vị không dễ chịu (như vị ngọt, mát) để nói về gian nan, vất vả. Nhưng vị mặn của muối hay vị cay của gừng lại rất đậm đà, rất khó quên nên có thể đem so sánh với tình nghĩa sâu đậm, thắm thiết. Những câu ca dao trên hay câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đều ca ngợi tình nghĩa thủy chung, son sắt, vượt lên trên những nhọc nhằn, khó khăn của cuộc sống. Thủy chung, nghĩa tình cũng là phẩm hạnh bao đời của người Việt Nam, như một tính cách dân tộc. Thuần phong mĩ tục này gợi lại một cội nguồn dân tộc không bao giờ bị ngoại lai.
Dàn ý Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
1. Mở bài
- Giới thiệu về câu thơ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" của Nguyễn Khoa Điềm.
2. Thân bài
- Dẫn một số các câu ca dao tương đồng với ý thơ của tác giả.
- Phân tích ý nghĩa "gừng cay muối mặn" trong ca dao xưa.
+ Thể hiện sự cay đắng, mặn mà trong đời sống tình cảm vợ chồng, qua đó thể hiện tấm lòng thủy chung son sắt của vợ chồng trong gia đình.
+ "gừng cay muối mặn" trong ca dao xưa làm minh chứng, là biểu tượng của tình cảm vợ chồng, chính là xuất phát từ sự thân thuộc gần gũi như "muối" và "gừng" kết hợp với những tầng ý nghĩa sâu sắc ẩn chứa trong đó.
- Ý nghĩa của câu thơ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn"
+ Gợi ra tình cảm vợ chồng thủy chung son sắt trong truyền thống gia đình của dân tộc ta từ bao đời nay.
+ Trở thành biểu tượng đại diện cho vẻ đẹp tinh thần của ông cha ta từ bao đời nay, góp phần làm nên giá trị văn hóa truyền thống bền vững của dân tộc, rồi từ đó hình thành nên Đất Nước.
3. Kết bài
Nêu cảm nghĩ về câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm.
Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn - mẫu 2
Đoạn trích “Đất nước” nằm trong trường ca “Mặt đường khát vọng” - Nguyễn Khoa Điềm là một đoạn trích hay và độc đáo với hình tượng “đất nước của nhân dân”. Có thể nói một trong những thành công của đoạn trích đó là việc xây dựng nên đất nước từ những chất liệu dân gian gần gũi và quen thuộc. Đọc bài thơ thấy thấp thoáng trong đó bóng dáng của những câu ca dao yêu thương tình nghĩa từ ngàn đời nay: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
Ra đời trong thời kì chống Mĩ, “Mặt đường khát vọng” là bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc, hướng về nhân dân, đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp vào cuộc chiến đấu của toàn dân tộc... “Đất nước” được trích từ phần đầu chương V của trường ca, là bài hát ngợi ca Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp trong đó hình tượng đất nước được khai thác từ góc nhìn văn hóa dân tộc, tập trung khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân. Câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” nằm trong trường liên tưởng về những yếu tố tạo nên đất nước. Tất cả đều thật gần gũi và thân thương.
“Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa...mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất nước có từ ngày đó”
Làm nên đất nước này là truyền thống yêu nước, là nền văn hóa riêng, là những tình cảm con người thủy chung son sắt. Tình cảm “thương nhau bằng gừng cay muối mặn” ấy đâu chỉ là của riêng cha mẹ, đó còn là tình yêu thương nói chung của tất cả những con người đang sống chung trong một mảnh đất thân thương được gọi tên là “Đất nước”. Nó gợi ta nhớ đến những bài ca dao nghĩa tình thân quen từ ngàn xưa:
“Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
“Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay: “Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau cũng phải ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Ca dao, dân ca là nguồn sữa nuôi dưỡng tinh thần con người Việt Nam tự bao đời nay. Tình cảm yêu thương, tình nghĩa của con người trong ca dao là thứ tình cảm cao đẹp bắt nguồn từ những gì gần gũi nhất. Chính vì lẽ đó mà ca dao từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng, chất liệu cho người nghệ sĩ sáng tác. Cùng với đoạn trích “Đất nước”, hình ảnh “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm là một trong những ví dụ tiêu biểu.
Gừng và muối là những hình ảnh thường bắt gặp trong ca dao. Người xưa đã dựa vào những đặc tính tự nhiên của chúng để diễn tả tình nghĩa thủy chung son sắt của con người. Muối mặn, còn gừng thì thời gian chỉ làm cho tính chất của nó càng thêm đậm đặc, “gừng càng già càng cay”. Chúng cũng giống như tình cảm yêu thương chân thành của con người sẽ càng trở nên mặn mà, đằm thắm qua thời gian.
Xây dựng “đất nước của nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm mượn chính những hình ảnh dân gian để vận dụng vào trong thơ mình, thể hiện một cách chính xác và đầy hình tượng về truyền thống tình cảm tốt đẹp của người dân Việt Nam. Đó là “gừng cay”, là “Muối mặn” bởi cha ông ta đã khẳng định:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay”
Qua đó nói lên lời thề hẹn, ao ước:
“Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau cũng phải ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
“Ba vạn sáu ngàn ngày” là thời gian của một trăm năm. Nó bắt nguồn từ khao khát sống hạnh phúc cùng nhau đến lúc “Đầu bạc răng long”, “Bách niên giai lão”, tức sống cùng nhau đến trọn cuộc đời. Nó cũng giống như lời ao ước tình cảm của “đôi ta” sẽ ngày càng sâu đậm, không bao giờ xa cách. Hành động “Tay bưng chén muối đĩa gừng” gần như mang tính biểu tượng. Nhắc đến chúng là nhắc tới chúng là nhắc tới sự đậm đà, sâu sắc. Bởi vậy nhân vật trữ tình trong bài ca dao đã đưa nó rá như một minh chứng cho lời hẹn thề thủy chung. Thế mới có chuyện đang từ hành động:
"Rủ nhau xuống bể mò cua”
Cha ông liên hệ ngay đến những đắng cay, ngọt bùi trong cuộc sống mà tha thiết:
“Em ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Đọc những câu ca dao, thấy nổi bật lên trong đó là sự khẳng định tình cảm lứa đôi còn trong thơ Nguyễn Khoa Điềm những gì nhà thơ gửi gắm còn nhiều hơn thế. Không chỉ đơn thuần là lời ngợi ca, khẳng định tình cảm thủy chung đôi lứa, câu thơ còn gợi lên thứ tình cảm rộng lớn hơn là nghĩa tình của con người nói chung với nhau. Tất nhiên, cũng có mạch nguồn từ truyền thống tình cảm tốt đẹp của dân tộc nhưng trong tư tưởng “đất nước của nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm đã khiến cho nó có tầm rộng và bao quát hơn. Câu thơ không chỉ cho ta thấy tình cảm yêu thương mà còn khẳng định sức mạnh của tình cảm ấy nữa. “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, thương nhau từ những khó khăn vất vả trong cuộc sống, và không vì những khó khăn ấy mà đổi thay. Hình ảnh “gừng cay muối mặn” gợi người ta nhớ đến một đất nước Việt Nam trong “Bài thơ của một người yêu nước mình” (Trần Sao Vàng):
“Tôi yêu đất nước này cay đắng
Những đêm dài thắp đuốc đi đêm
(...) Áo mồ hôi những buổi chợ về
Đời cúi thấp
Gánh từng lon gạo mốc
Từng cọng rau, hạt muối
(...) Tôi yêu đất nước này áo rách
Căn nhà dột, phên không ngăn nổi gió
Vẫn yêu nhau qua từng hơi thở
Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài”
Tình yêu thương bắt nguồn và gắn bó với những gì thân thuộc và gần gũi nhất, với cả những gian lao và vất vả trong cuộc sống. Với họ, gian khổ càng làm cho nó trở nên sâu sắc hơn.
Vì là hình tượng “đất nước của nhân dân” nên những hình ảnh được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong bài thơ hết sức gần gũi, thân thuộc trong đó chất liệu dân gian được dùng một cách rất đắc dụng. Đất nước được bắt nguồn và nuôi dưỡng bằng nguồn sữa tinh thần là ca dao, dân ca, cổ tích; đất nước được làm nên từ lịch sử oai hùng của dân tộc khi “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”; mỗi địa danh, mỗi mảnh đất đều gắn với những con người cụ thể là nhân dân mà “những cuộc đời đã hóa núi sông ta”... Tình yêu thương như “gừng cay muối mặn” của mẹ và cha chính là nét truyền thống tốt đẹp trong đời sống tình cảm của con người Việt Nam. Nó đã được đúc kết và khẳng định từ lịch sử hàng nghìn năm, thời của những bài ca dao và dân ca đến nay, góp phần:
“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Việc sử dụng chất liệu từ trong ca dao, dân ca làm cho ý thơ trở nên sâu sắc, giàu sức liên tưởng, sâu sắc và dễ đi vào lòng người hơn. Đó cũng chính là một trong những lí do làm nên thành công của đoạn trích.
Câu thơ không chỉ có giá trị như một lời khẳng định đầy thuyết phục truyền thống tình cảm tốt đẹp của con người Việt Nam mà còn góp phần tài năng và sự sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm khi xây dựng hình ảnh đất nước của nhân dân. Từ đó chúng ta có thêm một cách nhìn khác nữa về đất nước:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước minh thi bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi...
Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn - mẫu 3
Khi đọc bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, hồn tôi xao xuyến khi bắt gặp câu thơ :Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Có biết bao nhiêu bài ca dao đã nói về tình nghĩa vợ chồng, về tình cảm mẹ cha và cũng đã bao lần hình ảnh gừng cay muối mặn xuất hiện để nói lên những tình nghĩa thiêng liêng ấy. Như :
Ai ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Hay :
Muối ba năm muối hãy còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay…
Tất cả những câu ca dao ấy đều nói lên tình nghĩa vợ chồng thủy chung, sắt son và cao quý.
Hình ảnh gừng và muối đã quá quen thuộc trong văn học dân gian Việt Nam, trong đời sống thường ngày của người dân. Dù nông thôn hay thành thị, dù giàu hay nghèo, trong gian bếp của mỗi nhà vẫn không thể thiếu hai thứ gia vị này. Bởi thế, gừng và muối là thứ rất quen thuộc, rất gần gũi với đời sống của nhân dân. Không những thế, vị đặc trưng của gừng là cay, của muối là mặn, cả hai gia vị đều mang vị rất đậm đà, làm cho món ăn trở nên thơm ngon hơn. Và khi được nhân hóa, ẩn dụ cho tình người, gừng và muối lại thể hiện sự thắm thiết, sâu nặng, nghĩa tình gắn bó, khăng khít.
Hơn thế nữa, gừng và muối còn tượng trưng cho những cay đắng, những gian nan vất vả, cho sự đồng cam cộng khổ của vợ chồng. Khi cùng nhau trải qua những thăng trầm của cuộc sống, người ta sẽ hiểu nhau hơn, trân quý nhau hơn. Trong vợ chồng ngoài tình còn có nghĩa. Vì thế, họ ngày càng gắn bó với nhau, yêu thương nhau và đỡ đần nhau trong mọi hoàn cảnh sống.
Muối ba năm muối hãy còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay…
Ba năm hay chín tháng là những con số cụ thể để ẩn chứa cho sự vô tận của tháng ngày mà cha mẹ đã dành tình nghĩa cho nhau.
Ai ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Và thêm một lời nhắc nhở nhẹ nhàng cho nghĩa tình vợ chồng, dẫu cay đắng hay ngọt bùi cũng đừng bao giờ rời xa nhau. Đó là những câu ca dao rất gần gũi, giản dị với giọng điệu nhẹ nhàng, thiết tha, dễ khắc sâu vào lòng người. Từ trong những câu ca dao "huyền thoại" ấy, khi nói về Đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mượn lại hình ảnh gừng cay muối mặn để nói lên nghĩa tình giữa cha mẹ. Rằng Đất nước được tạo nên từ chính những nghĩa tình thiêng liêng, cao cả ấy. Không bạc vàng xa hoa, cũng không màu mè hoa mỹ, hình ảnh gừng cay muối mặn quá đủ để người đọc hiểu được mối thân tình của vợ chồng, của mẹ cha dành cho nhau. Trong những lúc khó khăn nhất, thiếu thốn nhất, tình cảm ấy vẫn luôn gắn bó khăng khít không xa rời.
Những câu thơ và câu ca dao ấy còn là bài học sâu sắc cho cuộc sống vợ chồng của thời buổi hiện đại như ngày nay. Khi không còn phải cùng nhau trải qua từng bữa cơm trộn khoai trộn sắn, cùng đắp chung một mảnh chăn lạnh lẽo bé nhỏ, khi mà mọi thứ đã quá đầy đủ thì dường như tình nghĩa vợ chồng đôi khi cũng không còn được thắm thiết nữa. Thậm chí có những cặp vợ chồng đến với nhau vì danh lợi, vì tiền bạc… Họ lợi dụng nhau, thích thì ở, không thích thì ngoại tình… Những điều đó không những làm mất hạnh phúc gia đình, mất đi giá trị tốt đẹp của nhau mà còn làm cho xã hội đi xuống. Bởi gia đình là tế bào của xã hội, khi tế bào không tốt, tất nhiên cũng ảnh hưởng không tốt tới xã hội. Gừng cay muối mặn vẫn còn đó, gia đình nào cũng vẫn đang sử dụng đó, nhưng không phải vợ chồng nào cũng gìn giữ những ân tình đậm sâu với nhau.
Vì vậy, hãy một lần nhìn nhận lại, cùng tôn trọng nhau, cùng nhau xây dựng một mái ấm hạnh phúc, để câu ca dao thuở nào lại được cất lên một cách ngọt ngào và trong trẻo. Để đất nước lại tươi thắm từ những tình yêu thương có vị mặn của muối, có vị cay nhưng nồng ấm của gừng.
Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn - mẫu 4
Không biết tự bao giờ, đất nước đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi ca. Đoạn trích “Đất nước” nằm trong trường ca “Mặt đường khát vọng” - Nguyễn Khoa Điềm là một đoạn trích hay và độc đáo với hình tượng “đất nước của nhân dân”. Một trong những thành công của đoạn trích là việc xây dựng nên đất nước từ những chất liệu dân gian gần gũi và quen thuộc. Đọc bài thơ, ta thấp thoáng trong đó bóng dáng của những câu ca dao yêu thương tình nghĩa từ ngàn đời nay: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
Câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” nằm trong trường liên tưởng về những yếu tố tạo nên đất nước trong những câu thơ mở đầu đoạn thơ.
“Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất nước có từ ngày đó”
Làm nên đất nước hôm nay là truyền thống yêu nước, là nền văn hóa riêng, là những tình cảm thủy chung son sắt. Tình cảm “thương nhau bằng gừng cay muối mặn” ấy không chỉ là của riêng cha mẹ, mà còn là tình yêu thương của tất cả những con người đang sống chung trong một mảnh đất thân thương được gọi tên là “Đất nước”. Nó gợi ta nhớ đến những bài ca dao nghĩa tình thân quen trong dân gian:
“Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
“Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau cũng phải ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Từ xa xưa, ca dao, dân ca đã là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn con người Việt Nam. Tình cảm yêu thương, tình nghĩa con người là thứ tình cảm cao đẹp nhất trong ca dao. Nó bắt nguồn từ những gì gần gũi nhất. Chính vì lẽ đó mà ca dao đã trở thành nguồn cảm hứng, chất liệu cho rất nhiều người nghệ sĩ sáng tác. Hình ảnh “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm là một trong những ví dụ tiêu biểu.
Gừng và muối là những hình ảnh thường bắt gặp trong ca dao. Dựa vào những đặc tính tự nhiên của chúng, người xưa diễn tả tình nghĩa thủy chung son sắt của con người. Muối mặn, còn gừng thì "càng già càng cay”, giống như tình cảm yêu thương chân thành của con người qua thời gian sẽ càng trở nên mặn mà, đằm thắm.
Xây dựng hình tượng “đất nước của nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm mượn những hình ảnh dân gian để đưa vào trong thơ mình, thể hiện một cách chính xác và đầy hình tượng về truyền thống tình cảm tốt đẹp của người dân Việt Nam như cha ông ta đã khẳng định:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay”
Từ đó gửi gắm lời thề hẹn, ao ước:
“Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau cũng phải ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
“Ba vạn sáu ngàn ngày” là thời gian của một trăm năm, bắt nguồn từ khát khao sống hạnh phúc cùng nhau đến trọn cuộc đời. Hành động “Tay bưng chén muối đĩa gừng” mang tính biểu tượng, gợi nhắc tới sự đậm đà, sâu sắc.
Trong ca dao, gừng cay muối mặn thường dùng khẳng định tình cảm lứa đôi còn trong thơ Nguyễn Khoa Điềm thì gửi gắm còn nhiều hơn thế. Không chỉ đơn thuần là lời ngợi ca, khẳng định tình cảm thủy chung đôi lứa, câu thơ còn gợi lên thứ tình cảm rộng lớn hơn là nghĩa tình của con người với con người. Câu thơ không chỉ cho ta thấy tình cảm yêu thương mà còn khẳng định sức mạnh của tình cảm ấy. Yêu thương nhau từ những khó khăn vất vả trong cuộc sống, không vì những khó khăn ấy mà đổi thay. Gian khổ càng làm cho nó trở nên sâu sắc hơn.
Có thể nói, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng khéo léo chất liệu ca dao, dân ca làm cho ý thơ trở nên sâu sắc, giàu sức liên tưởng, dễ đi vào lòng người hơn. Câu thơ không chỉ có giá trị như một lời khẳng định đầy thuyết phục truyền thống tình cảm tốt đẹp của con người Việt Nam mà còn góp phần tài năng và sự sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm khi xây dựng hình ảnh đất nước của Nhân Dân. Tình yêu thương như “gừng cay muối mặn” của mẹ và cha chính là nét truyền thống tốt đẹp trong đời sống tình cảm của con người Việt Nam. Nó đã được đúc kết và khẳng định từ lịch sử hàng nghìn năm, thời của những bài ca dao và dân ca đến nay.
Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn - mẫu 5
Khi đọc bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, hồn tôi xao xuyến khi bắt gặp câu thơ :Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Có biết bao nhiêu bài ca dao đã nói về tình nghĩa vợ chồng, về tình cảm mẹ cha và cũng đã bao lần hình ảnh gừng cay muối mặn xuất hiện để nói lên những tình nghĩa thiêng liêng ấy. Như :
Ai ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Hay :
Muối ba năm muối hãy còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay…
Tất cả những câu ca dao ấy đều nói lên tình nghĩa vợ chồng thủy chung, sắt son và cao quý.
Hình ảnh gừng và muối đã quá quen thuộc trong văn học dân gian Việt Nam, trong đời sống thường ngày của người dân. Dù nông thôn hay thành thị, dù giàu hay nghèo, trong gian bếp của mỗi nhà vẫn không thể thiếu hai thứ gia vị này. Bởi thế, gừng và muối là thứ rất quen thuộc, rất gần gũi với đời sống của nhân dân. Không những thế, vị đặc trưng của gừng là cay, của muối là mặn, cả hai gia vị đều mang vị rất đậm đà, làm cho món ăn trở nên thơm ngon hơn. Và khi được nhân hóa, ẩn dụ cho tình người, gừng và muối lại thể hiện sự thắm thiết, sâu nặng, nghĩa tình gắn bó, khăng khít.
Hơn thế nữa, gừng và muối còn tượng trưng cho những cay đắng, những gian nan vất vả, cho sự đồng cam cộng khổ của vợ chồng. Khi cùng nhau trải qua những thăng trầm của cuộc sống, người ta sẽ hiểu nhau hơn, trân quý nhau hơn. Trong vợ chồng ngoài tình còn có nghĩa. Vì thế, họ ngày càng gắn bó với nhau, yêu thương nhau và đỡ đần nhau trong mọi hoàn cảnh sống.
Muối ba năm muối hãy còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay…
Ba năm hay chín tháng là những con số cụ thể để ẩn chứa cho sự vô tận của tháng ngày mà cha mẹ đã dành tình nghĩa cho nhau.
Ai ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Và thêm một lời nhắc nhở nhẹ nhàng cho nghĩa tình vợ chồng, dẫu cay đắng hay ngọt bùi cũng đừng bao giờ rời xa nhau. Đó là những câu ca dao rất gần gũi, giản dị với giọng điệu nhẹ nhàng, thiết tha, dễ khắc sâu vào lòng người. Từ trong những câu ca dao “huyền thoại” ấy, khi nói về Đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mượn lại hình ảnh gừng cay muối mặn để nói lên nghĩa tình giữa cha mẹ. Rằng Đất nước được tạo nên từ chính những nghĩa tình thiêng liêng, cao cả ấy. Không bạc vàng xa hoa, cũng không màu mè hoa mỹ, hình ảnh gừng cay muối mặn quá đủ để người đọc hiểu được mối thân tình của vợ chồng, của mẹ cha dành cho nhau. Trong những lúc khó khăn nhất, thiếu thốn nhất, tình cảm ấy vẫn luôn gắn bó khăng khít không xa rời.
Những câu thơ và câu ca dao ấy còn là bài học sâu sắc cho cuộc sống vợ chồng của thời buổi hiện đại như ngày nay. Khi không còn phải cùng nhau trải qua từng bữa cơm trộn khoai trộn sắn, cùng đắp chung một mảnh chăn lạnh lẽo bé nhỏ, khi mà mọi thứ đã quá đầy đủ thì dường như tình nghĩa vợ chồng đôi khi cũng không còn được thắm thiết nữa. Thậm chí có những cặp vợ chồng đến với nhau vì danh lợi, vì tiền bạc… Họ lợi dụng nhau, thích thì ở, không thích thì ngoại tình… Những điều đó không những làm mất hạnh phúc gia đình, mất đi giá trị tốt đẹp của nhau mà còn làm cho xã hội đi xuống. Bởi gia đình là tế bào của xã hội, khi tế bào không tốt, tất nhiên cũng ảnh hưởng không tốt tới xã hội. Gừng cay muối mặn vẫn còn đó, gia đình nào cũng vẫn đang sử dụng đó, nhưng không phải vợ chồng nào cũng gìn giữ những ân tình đậm sâu với nhau.
Vì vậy, hãy một lần nhìn nhận lại, cùng tôn trọng nhau, cùng nhau xây dựng một mái ấm hạnh phúc, để câu ca dao thuở nào lại được cất lên một cách ngọt ngào và trong trẻo. Để đất nước lại tươi thắm từ những tình yêu thương có vị mặn của muối, có vị cay nhưng nồng ấm của gừng.
Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn - mẫu 6
Đoạn trích “Đất nước” nằm trong trường ca “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm là một đoạn trích hay và độc đáo với hình tượng “đất nước của nhân dân”. Có thể nói một trong những thành công của đoạn trích đó là việc xây dựng nên đất nước từ những chất liệu dân gian gần gũi và quen thuộc. Đọc bài thơ thấy thấp thoáng trong đó bóng dáng của những câu ca dao yêu thương tình nghĩa từ ngàn đời nay: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
Ra đời trong thời kì chống Mĩ, “Mặt đường khát vọng” là bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc, hướng về nhân dân, đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp vào cuộc chiến đấu của toàn dân tộc… “Đất nước” được trích từ phần đầu chương V của trường ca, là bài hát ngợi ca Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp trong đó hình tượng đất nước được khai thác từ góc nhìn văn hóa dân tộc, tập trung khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân. Câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” nằm trong trường liên tưởng về những yếu tố tạo nên đất nước. Tất cả đều thật gần gũi và thân thương.
“Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa…mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất nước có từ ngày đó”
Làm nên đất nước này là truyền thống yêu nước, là nền văn hóa riêng, là những tình cảm con người thủy chung son sắt. Tình cảm “thương nhau bằng gừng cay muối mặn” ấy đâu chỉ là của riêng cha mẹ, đó còn là tình yêu thương nói chung của tất cả những con người đang sống chung trong một mảnh đất thân thương được gọi tên là “Đất nước”. Nó gợi ta nhớ đến những bài ca dao nghĩa tình thân quen từ ngàn xưa:
“Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
“Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau cũng phải ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Ca dao, dân ca là nguồn sữa nuôi dưỡng tinh thần con người Việt Nam tự bao đời nay. Tình cảm yêu thương, tình nghĩa của con người trong ca dao là thứ tình cảm cao đẹp bắt nguồn từ những gì gần gũi nhất. Chính vì lẽ đó mà ca dao từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng, chất liệu cho người nghệ sĩ sáng tác. Cùng với đoạn trích “Đất nước”, hình ảnh “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm là một trong những ví dụ tiêu biểu.
Gừng và muối là những hình ảnh thường bắt gặp trong ca dao. Người xưa đã dựa vào những đặc tính tự nhiên của chúng để diễn tả tình nghĩa thủy chung son sắt của con người. Muối mặn, còn gừng thì thời gian chỉ làm cho tính chất của nó càng thêm đậm đặc, “gừng càng già càng cay”. Chúng cũng giống như tình cảm yêu thương chân thành của con người sẽ càng trở nên mặn mà, đằm thắm qua thời gian.
Xây dựng “đất nước của nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm mượn chính những hình ảnh dân gian để vận dụng vào trong thơ mình, thể hiện một cách chính xác và đầy hình tượng về truyền thống tình cảm tốt đẹp của người dân Việt Nam. Đó là “gừng cay”, là “Muối mặn” bởi cha ông ta đã khẳng định:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay”
Qua đó nói lên lời thề hẹn, ao ước:
“Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau cũng phải ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
“Ba vạn sáu ngàn ngày” là thời gian của một trăm năm. Nó bắt nguồn từ khao khát sống hạnh phúc cùng nhau đến lúc “Đầu bạc răng long”, “Bách niên giai lão”, tức sống cùng nhau đến trọn cuộc đời. Nó cũng giống như lời ao ước tình cảm của “đôi ta” sẽ ngày càng sâu đậm, không bao giờ xa cách. Hành động “Tay bưng chén muối đĩa gừng” gần như mang tính biểu tượng. Nhắc đến chúng là nhắc tới chúng là nhắc tới sự đậm đà, sâu sắc. Bởi vậy nhân vật trữ tình trong bài ca dao đã đưa nó rá như một minh chứng cho lời hẹn thề thủy chung. Thế mới có chuyện đang từ hành động:
“Rủ nhau xuống bể mò cua”
Cha ông liên hệ ngay đến những đắng cay, ngọt bùi trong cuộc sống mà tha thiết:
“Em ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Đọc những câu ca dao, thấy nổi bật lên trong đó là sự khẳng định tình cảm lứa đôi còn trong thơ Nguyễn Khoa Điềm những gì nhà thơ gửi gắm còn nhiều hơn thế. Không chỉ đơn thuần là lời ngợi ca, khẳng định tình cảm thủy chung đôi lứa, câu thơ còn gợi lên thứ tình cảm rộng lớn hơn là nghĩa tình của con người nói chung với nhau. Tất nhiên, cũng có mạch nguồn từ truyền thống tình cảm tốt đẹp của dân tộc nhưng trong tư tưởng “đất nước của nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm đã khiến cho nó có tầm rộng và bao quát hơn. Câu thơ không chỉ cho ta thấy tình cảm yêu thương mà còn khẳng định sức mạnh của tình cảm ấy nữa. “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, thương nhau từ những khó khăn vất vả trong cuộc sống, và không vì những khó khăn ấy mà đổi thay. Hình ảnh “gừng cay muối mặn” gợi người ta nhớ đến một đất nước Việt Nam trong “Bài thơ của một người yêu nước mình” (Trần Sao Vàng):
“Tôi yêu đất nước này cay đắng
Những đêm dài thắp đuốc đi đêm
(…) Áo mồ hôi những buổi chợ về
Đời cúi thấp
Gánh từng lon gạo mốc
Từng cọng rau, hạt muối
(…) Tôi yêu đất nước này áo rách
Căn nhà dột, phên không ngăn nổi gió
Vẫn yêu nhau qua từng hơi thở
Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài”
Tình yêu thương bắt nguồn và gắn bó với những gì thân thuộc và gần gũi nhất, với cả những gian lao và vất vả trong cuộc sống. Với họ, gian khổ càng làm cho nó trở nên sâu sắc hơn.
Vì là hình tượng “đất nước của nhân dân” nên những hình ảnh được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong bài thơ hết sức gần gũi, thân thuộc trong đó chất liệu dân gian được dùng một cách rất đắc dụng. Đất nước được bắt nguồn và nuôi dưỡng bằng nguồn sữa tinh thần là ca dao, dân ca, cổ tích; đất nước được làm nên từ lịch sử oai hùng của dân tộc khi “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”; mỗi địa danh, mỗi mảnh đất đều gắn với những con người cụ thể là nhân dân mà “những cuộc đời đã hóa núi sông ta”… Tình yêu thương như “gừng cay muối mặn” của mẹ và cha chính là nét truyền thống tốt đẹp trong đời sống tình cảm của con người Việt Nam. Nó đã được đúc kết và khẳng định từ lịch sử hàng nghìn năm, thời của những bài ca dao và dân ca đến nay, góp phần:
“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Việc sử dụng chất liệu từ trong ca dao, dân ca làm cho ý thơ trở nên sâu sắc, giàu sức liên tưởng, sâu sắc và dễ đi vào lòng người hơn. Đó cũng chính là một trong những lí do làm nên thành công của đoạn trích.
Câu thơ không chỉ có giá trị như một lời khẳng định đầy thuyết phục truyền thống tình cảm tốt đẹp của con người Việt Nam mà còn góp phần tài năng và sự sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm khi xây dựng hình ảnh đất nước của nhân dân. Từ đó chúng ta có thêm một cách nhìn khác nữa về đất nước:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước minh thi bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…
Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn - mẫu 7
Trích đoạn 'Đất nước' từ 'Mặt đường khát vọng' của Nguyễn Khoa Điềm là một phần văn phong phong phú với hình ảnh 'đất nước của nhân dân'. Có thể nói rằng một trong những thành công của đoạn trích này là cách xây dựng hình ảnh quê hương từ những nguyên liệu dân gian thân thuộc. Trong bài thơ, có sự hiện diện mờ nhạt của những câu ca dao thể hiện tình yêu thương gia đình từ xa xưa: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
Sinh ra trong giai đoạn kháng Mỹ, 'Mặt đường khát vọng' là một tác phẩm trường ca về sự tỉnh táo của tuổi trẻ thành thị vùng Nam đang phải đối mặt với xâm lược của đế quốc, tập trung vào tình yêu quê hương, tình thương dân tộc và sự nhận thức về trách nhiệm của thế hệ mình, sẵn sàng tham gia vào cuộc chiến tranh toàn dân... 'Đất nước' được trích từ đầu chương V của trường ca, là một bài hát ca ngợi nền nước Việt Nam giàu đẹp, với việc tạo hình ảnh đất nước từ góc nhìn văn hóa dân tộc, nhấn mạnh vào tư tưởng về quê hương của nhân dân. Câu thơ 'Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn' nằm trong phần suy tưởng về các yếu tố tạo nên quê hương. Tất cả đều rất gần gũi và ấm áp.
“Đất nước có trong những cái ngày xưa...mẹ thường hay kể
Đất nước khởi đầu từ việc một người phụ nữ đang ăn miếng trầu
Đất nước trưởng thành khi nhân dân biết cách trồng tre để đánh đuổi kẻ thù
Tóc mẹ rối bời sau đầu
Cha mẹ thể hiện tình yêu bằng gừng cay và muối mặn
Cơ bản, sự đoàn kết tạo nên danh tiếng
Hạt gạo cần được xay, giã, giần và sàng qua một ngày nắng hai ngày mưa
Đất nước tồn tại từ thời xa xưa
Xây dựng quốc gia này là kết quả của truyền thống yêu nước, là một phần của văn hóa đặc trưng, là biểu hiện của tình cảm mạnh mẽ và trung thành của con người. Tình cảm 'thương nhau bằng gừng cay muối mặn' không chỉ thuộc về cha mẹ mà còn là tình yêu thương chung của tất cả mọi người sống trong một đất nước. Nó gợi nhớ đến những ca dao nghĩa tình quen thuộc từ hàng ngàn năm qua:
“Cùng chia sẻ nhau bát muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn, đừng quên nhau”
“Khi nhau xuống bờ biển săn cua
Mang về nấu những quả mơ chua từ rừng
Em ơi, hãy nhớ những thời ngọt ngào
Gừng cay muối mặn, đừng quên nhau”
Hay: “Muối đã ba năm vẫn còn mặn
Gừng chín tháng vẫn còn cay
Tình yêu của chúng ta nặng nề, tình thương sâu sắc
Cho dù chúng ta xa cách, cần phải trải qua ba vạn sáu ngàn ngày mới thực sự xa nhau”
Ca dao và dân ca đã từ lâu là nguồn cảm hứng tinh thần của người Việt, thể hiện tình yêu thương và tình nghĩa chân thành từ những điều gần gũi nhất. Trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm, hình ảnh “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” là một minh chứng cho điều này.
Gừng và muối thường được sử dụng trong ca dao để miêu tả tình cảm sâu sắc của con người. Tính cách của chúng càng trở nên đậm đà hơn qua thời gian, như “gừng càng già càng cay”. Điều này cũng phản ánh tình yêu thương chân thành của con người, ngày càng sâu đậm qua thời gian.
Trong việc xây dựng “đất nước của nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm sử dụng những hình ảnh dân gian để thể hiện truyền thống tình cảm của người Việt Nam. Đó chính là “gừng cay” và “Muối mặn”, như cha ông ta đã nhấn mạnh:
“Muối đã ba năm vẫn còn mặn
Gừng chín tháng vẫn còn cay”
Thể hiện sự cam kết và ước ao:
Tình yêu của chúng ta nặng nề, tình thương sâu sắc
Dù có cách xa nhau, cũng phải trải qua ba vạn sáu ngàn ngày mới có thể xa cách”
“Ba vạn sáu ngàn ngày” tượng trưng cho một thời gian dài, một thế hệ. Đó là thời gian của niềm hy vọng sống hạnh phúc cùng nhau đến già, sống cùng nhau suốt đời. Hành động “Tay nâng chén muối đĩa gừng” trở nên biểu tượng, thể hiện sự đậm đà, sâu sắc của tình cảm. Người trong ca dao đã biến nó thành một minh chứng cho lời hẹn thề thủy chung. Và từ những hành động này, câu chuyện tiếp tục:
'Khi nhau xuống bờ biển săn cua”
Cha ông nhấn mạnh đến những trải nghiệm đắng ngắt, ngọt ngào trong cuộc sống mà họ đã trải qua:
“Em ơi dù có cay đắng, ngọt ngào
Gừng cay muối mặn mong không quên nhau”
Đọc những câu ca dao, ta thấy rõ sự tôn vinh tình cảm của cặp đôi và nhiều hơn thế nữa trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Không chỉ là sự ca ngợi, khẳng định tình yêu thương của cặp đôi, mà câu thơ còn thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về tình cảm con người nói chung. Dựa trên truyền thống tình cảm đẹp của dân tộc, thơ của Nguyễn Khoa Điềm mở ra một khía cạnh rộng lớn và toàn diện hơn về tình yêu thương. Câu thơ không chỉ thể hiện tình yêu thương mà còn khẳng định sức mạnh của nó. “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, thể hiện tình thương qua những gian khổ của cuộc sống, và không để bị thay đổi bởi những khó khăn đó. Hình ảnh “gừng cay muối mặn” gợi lên hình ảnh một đất nước Việt Nam trong bài thơ của Trần Sao Vàng:
“Tôi yêu đất nước này dù có cay đắng
Những đêm dài với đèn điện lấp lánh
(...) Áo mồ hôi từ những buổi chợ trở về
Đời uốn cong
Mang gánh gạo nặng nề mỗi ngày
Mỗi cọng rau, mỗi hạt muối
(...) Tôi yêu đất nước này dù áo rách
Nơi căn nhà rộng thênh thang, không gì cản nổi cơn gió
Vẫn yêu nhau từng hơi thở
Lòng vẫn thương cây nhớ rễ mãi
Tình yêu thương sinh ra và liên kết với những điều quen thuộc và gần gũi nhất, cũng như những khó khăn và gian khổ trong cuộc sống. Đối với họ, những thử thách càng làm cho tình yêu đó trở nên sâu sắc hơn.
Với việc là biểu tượng của 'đất nước của nhân dân', những hình ảnh trong bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm rất gần gũi và thân thuộc, nơi mà vật liệu dân gian được sử dụng một cách khéo léo. Đất nước được hình thành và phát triển thông qua nguồn cảm hứng từ ca dao, dân ca, truyền thuyết; đất nước được tạo nên từ lịch sử vĩ đại của dân tộc khi 'dân mình biết trồng cây và chống giặc'; mỗi địa danh, mỗi miền đất đều liên quan đến những cá nhân cụ thể là nhân dân, 'những cuộc đời đã hóa thành núi sông của ta'... Tình yêu thương như 'gừng cay muối mặn' của cha mẹ chính là giá trị truyền thống tốt đẹp trong tình cảm của con người Việt Nam. Nó đã được tích lũy và khẳng định qua hàng ngàn năm lịch sử, từ thời của ca dao và dân ca đến nay, góp phần:
'Để đất nước này là của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của truyền thống văn hóa dân gian'
Việc sử dụng nguồn cảm hứng từ ca dao, dân ca làm cho bản thơ trở nên sâu sắc, giàu ý tưởng, và dễ tiếp cận hơn đối với người đọc. Điều này cũng là một trong những lý do góp phần vào thành công của đoạn trích.
Câu thơ không chỉ là một lời khẳng định thuyết phục về truyền thống tình cảm đẹp của con người Việt Nam mà còn là sự hiện thân của tài năng và sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm khi miêu tả hình ảnh đất nước của nhân dân. Từ đó, chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về đất nước:
'Nước chảy về đâu
Khi trở về quê hương, lòng ta rộn ràng ca hát
Người đến với tiếng hát, đưa thuyền lướt sóng thác
Đưa ra hàng trăm biểu tượng trên dòng sông...
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 Ôn thi THPT Quốc gia khác:
Dàn ý Hình tượng đất nước trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi
Hình tượng đất nước trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi
Sách VietJack thi THPT quốc gia 2025 cho học sinh 2k7:
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều