10+ Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa (điểm cao)

Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa

1. Mở bài

+ Giới thiệu về mình (Nhân vật trữ tình trong bài thơ).

2. Thân bài

Nhân vật trữ tình kể theo mạch kể riêng của mình nhưng đảm bảo được mạch cảm xúc của bài thơ là:

Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với sự chăm sóc, lo toan, vất vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu.Từ kỷ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao qúy của bà. Cuối cùng người cháu muốn gửi niềm thương, nhớ mong về bà khi ở xa bà... Ví dụ hình thành mạch kể riêng:

* Cách 1:

- Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà.

- Hồi tưởng những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa.

- Suy ngẫm về bà và cuộc đời bà.

Quảng cáo

- Nỗi niềm của cháu khi đã trưởng thành, đi xa về bà

* Cách 2:

- Hình ảnh bếp lửa đã gợi lên trong tâm trí tôi, quá khứ hiện về như một cuộn phim quay chậm.

- Tuổi thơ của tôi phải sống trong chiến tranh đầy bom đạn dữ dội.

- Tuổi thơ của tôi với bao niềm vui sướng, hạnh phúc được ở bên bà.

- Đóng vai người cháu, kể lại nội dung bài thơ Bếp Lửa - Bằng Việt. Yêu cầu có sử dụng yếu tố nghị luận, độc thoại nội tâm - Từ kỷ niệm tuổi thơ ở bên bà, tôi lại nhớ về bà và hình ảnh bếp lửa.

- Giờ đây tôi đã trưởng thành, nhưng tôi không thể nào quên hình ảnh bà gắn với hình ảnh bếp lửa.

3. Kết bài

+ Niềm mong ước, suy nghĩ của nhân vật trữ tình từ hình ảnh bà và bếp lửa.

Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa - mẫu 1

Ở Nga, một đất nước có mùa đông giá rét, ngồi bên lò sưởi đang chý, hơi ấm của ngọn lửa phả vào mặt khiến tôi nhớ về bếp lửa nhỏ ở quê nhà với hình bóng của bà. Hình ảnh bếp lửa nhỏ chờn vờn trong sương sớm và người bà hết mực yêu thương lại khiến nỗi nhớ trong tôi trở nên da diết.

Quảng cáo

Tôi được sinh ra trong thời điểm đói kém, cả nước đang gồng mình lên cùng nhau chống thực dân Pháp xâm lược. Đất nước đang chìm trong chiến tranh, cuộc sống vô cùng khó khăn vất vả. Năm tôi lên bốn, những thiên tai, hạn hán đã làm cho vụ ấy mất mùa. Cái đói đã len lỏi vào từng gia đình, khiến cho biết bao nhiêu người chết vì đói.

Bố mẹ tôi cũng phải đi làm vất vả để mưu sinh, chỉ có bà ở nhà để chăm sóc cho tôi. Cả tuổi thơ của tôi chỉ có bà ở bên, thiếu vắng đi sự quan tâm của bố mẹ. Mỗi khi nhóm lửa, ngồi bên bếp lửa ấm áp vô cùng. Khói bếp cay xè mắt, nước mắt, nước mũi tôi chảy tèm len. Nhớ về những hình ảnh đó khiến cho sống mũi tôi cay cay. Sau đó, bố mẹ tôi theo cách mạng kháng chiến để chống lại quân thù. Tôi ở cùng bà vượt qua biết bao những khó khăn và dần khôn lớn. Thời gian trôi qua chiến tranh ngày càng ác liệt, bố mẹ tôi không về được. Kẻ thù tấn công làng tôi, chúng cướp sạch, đốt sạch và để lại bao sự sợ hãi cho những người dân vô tội.

Bà con làng xóm thấy cảnh nhà neo người nên đã giúp bà cháu tôi dựng lại túp lền tranh, gây dựng lại từ trong đống đổ nát. Tuy khổ cực là vậy nhưng bà vẫn dặn tôi rằng có viết thư cho bố thì chớ kể chuyện nhà. Cứ kể rằng bà vẫn mạnh khoẻ, ở nhà vẫn được bình yên. Dù thế nào đi chăng nữa, bà vẫn một lòng nghĩ về cuộc chiến, mong bố mẹ tôi yên tâm công tác, sớm ngày đánh đuổi quân thù. Bà đã nhóm lên ngon lửa trong tôi về tình yêu đất nước, về một niềm tin và khát vọng về một ngày mai đất nước sẽ được giải phóng, hoà bình lập lại và cuộc sống của mọi người sẽ tốt đẹp hơn.

Quảng cáo

Quả thực vật, hoà bình cuối cùng cũng trở lại với chúng tôi, bố mẹ tôi cũng quay về quê hương đoàn tụ với gia đình. Bà vui mừng đến mức mà khoé mắt rưng rưng. Bao năm qua, dù nắng hay mưa thì bà tôi vẫn luôn giữ một thói quen dậy sớm để nhóm bếp lửa - nhóm lên ngọn lửa tuổi thơ trong tôi. Ôi ngọn lửa từ bếp lửa của bà sao lại kì lạ, thiêng liêng đến như vậy. Ngon lửa ấy như nhắn nhủ tôi luôn nhớ về người bà yêu thương, hi sinh hết mình vì con vì cháu và vì cả quê hương, đất nước.

Dù giờ đây tôi đã đi xa nhà, đến một quốc gia phát triển hơn và cuộc sống cũng đầy đủ, sung túc hơn. Thế nhưng tôi vẫn không quên được hình ảnh bếp lửa tuổi thơ và người bà hiền hậu của mình. Đồng thời, tôi cũng luôn tự nhắc nhở mình về tình yêu với quê hương đất nước dù đang xa xứ.

Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa - mẫu 2

“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

níu váy bà đi chợ Bình Lâm

bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”.

Dường như trong kí ức tuổi thơ của bao đứa trẻ, những tháng năm vô lo vô nghĩ bên người bà luôn là quãng thời gian êm đềm và thân thương nhất. Vượt qua bao sự thăng trầm trong cuộc đời và sàng lọc của thời gian, những kỉ niệm mộc mộc ấy về bà vẫn đọng lại trong miền nhớ của biết bao tâm hồn, nó đưa ta về với khoảng trời xưa cũ bình dị mà an nhiên tự tại thuở niên thiếu. Với riêng tôi, có lẽ kỉ niệm về bà bên bếp lửa bập bùng mỗi sớm mai luôn đi về trong cõi nhớ của tôi trên những chặng đường mà tôi trải qua. Nỗi nhớ ấy lại càng cồn cào da diết hơn trong những năm tháng sống xa xứ, đón những đợt gió tuyết nơi xứ sở Bạch Dương. Trong những phút giây tĩnh lặng, mỗi khi nhìn làn khói của những ngôi nhà phía xa kia, cả một trời nhớ thương trong tôi lại ùa về, về bà về bếp lửa hồng sưởi ấm cả tuổi thơ tôi, về hương vị quê nhà…

Theo dòng hoài niệm, kí ức đưa tôi về với những đêm đen của cái đói mòn đói mỏi năm 1945. Ngôi làng nhỏ nơi tôi sinh sống, nhà nào cũng rơi vào cảnh đói thê thảm. Trong những năm tháng cơ cực ấy, để giành giật lấy sự sống ngày một thoi thóp, bố tôi phải lên phố xe thuê rạc cả người, dẫu vậy cũng chỉ đủ để rau cháo cầm hơi mà sống qua ngày. Cái đói nghèo cùng cực của năm Ất Dậu ấy như một nỗi ám ảnh trong tâm hồn non nớt của đứa trẻ bốn tuổi lúc đó. Chính mùi khói bếp của bà đã mang đến cho tôi những hơi ấm, sự an lòng và xua đi cái mùi tử khí tràn ngập quanh ngõ xóm thôn nghèo. Thứ hương thơm dung dị như nhen lên từ tình yêu nồng hậu của bà đã sưởi ấm cho tôi trong suốt thuở thiếu thời để rồi sau này trên mỗi hành trình dài và rộng mà tôi qua, mùi khói bếp ấy vẫn làm tôi cay cay sống mũi mỗi khi hồi tưởng lại. Những năm tháng sau đó khi kháng chiến bùng nổ, bố mẹ tôi thoát ly gia đình đi làm cách mạng, lên đường theo tiếng gọi của Tổ Quốc. Suốt tám năm trời đằng đẵng tôi sống trong sự đùm bọc chở che của bà, bên bóng dáng tảo tần của bà và bên bếp lửa hồng bà nhen lên mỗi sớm chiều. Những năm tháng thơ bé ấy, bên cạnh bà cháu tôi, bên cạnh bếp lửa vẫn còn một nhân chứng mà tôi chẳng thể nào quên đó là chim tu hú. Tiếng hót của nó nghe sao mà chơ vơ lạc lõng như khao khát được che chở ấp iu đến vậy. Tiếng tu hú khắc khoải như xé tan cả khoảng không gian mênh mông buồn vắng, thương con chim tu hú bất hạnh biết bao nhiêu tôi càng biết ơn và trân trọng những ngày tháng tuổi thơ hạnh phúc được bà chăm chút, bao bọc bấy nhiêu. Bên bếp lửa bập bùng, tôi được nghe bà trải lòng về cuộc đời bà những tháng năm còn ở Huế. Một cuộc đời đầy truân chuyên và cùng cực. Bà gửi những hi vọng, ước mong về một tươi lai tươi sáng hơn trong tôi. Rồi cũng ở bếp lửa nơi góc bếp, bà chăm tôi từng bữa ăn giấc ngủ và là người thầy đầu tiên dạy tôi những bài học quý giá trong cuộc đời. Những bài học làm người cao đẹp ấy đã trở thành một điểm tựa vững chắc chắp cánh cho những giấc mơ cao đẹp trong cuộc đời. Thứ ánh lửa ấm áp nồng nàn ấy mang đến cho tầm hồn tôi một sự an ủi trong những ngày tháng sống thiếu tình cảm của cha mẹ, bà như điểm tựa tinh thần cho tôi vững bước. Cuộc sống vẫn vậy, vẫn khắc nghiệt và luôn muốn thử thách bản lĩnh của con người. Đến một ngày tiếng súng, tiếng bom của cuộc chiến tranh khắc nghiệt dội về làng tôi. Trước họng súng và ngòi nổ hủy diệt của quân địch, ngôi làng tôi lúc đó là một đống tro tàn, nhà cửa của mọi người đều hoàn toàn cháy rụi. Tôi biết lúc đó bà đang nuốt ngược nỗi đau và nước mắt vào trong. Nơi chốn nương thân của hai bà cháu tôi không còn, nhưng nghị lực và ý chí thép được tôi luyện trong những năm tháng bể dâu của cuộc đời không cho phép bà tôi gục ngã buông xuôi.

Bà cứng rắn dắt tôi vượt qua hoàn cảnh ngặt nghèo. Tôi hiểu rằng những thiếu thốn, cơ cực mà tôi mới trải qua không thể nào đong đếm được với những gian khó, nhọc nhằn và nỗi nhớ thương con nơi chiến trường đỏ lửa đều phải nén lại vào trong của bà. Và rồi đâu rồi cũng vào đó, nhờ vào tình làng nghĩa xóm mà bà cháu tôi cũng dựng được căn nhà nhỏ trên nền đất cũ năm nào. Bà đã nhóm lên trong tôi ý chí và nghị lực sống trong cuộc đời này. Thật kì diệu bởi tôi tin rằng những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa hung tàn kia đã được hồi sinh trong bếp lửa của bà. Cứ thế tuổi thơ tôi được bà che chở qua bao tháng năm. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen lên ngọn lửa bền bỉ, trường tồn theo dọc thời gian của bếp lửa kia.

Tháng năm làm tôi lớn lên và trưởng thành, những hoài bão đưa bước chân tôi đến với những chân trời xa nhưng chẳng thể nào tôi quên được ngọn lửa hồng nơi góc bếp bởi nơi đó có tình yêu thương và đức hi sinh lặng thầm của người bà mà tôi dành cả cuộc đời mình để biết ơn và trân trọng, cũng chính tại nơi đó bà nhen nhóm lên trong tôi những ước mơ về một cuộc đời mới. Nếu những câu chuyện cổ tích là người bạn của bao tâm hồn thơ bé, thì bà chính là người viết lên câu chuyện cổ tích giữa cuộc đời này cho riêng tôi. Trong câu chuyện ấy là ánh lửa bập bùng sớm tối, là tình yêu nồng hậu của bà, là mùi nếp mùi sắn thơm hương, của quê hương, và luôn là nơi mà tôi thuộc về…

Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa - mẫu 3

Ở một nơi xa xôi, trong không gian tĩnh lặng của căn phòng nhỏ, hình ảnh bếp lửa ấm áp của tuổi thơ bỗng trở về trong tâm trí tôi. Bếp lửa quen thuộc ấy không chỉ là biểu tượng của góc bếp Việt Nam, mà còn gợi nhớ đến bà của tôi.

Mỗi buổi sáng, bà dậy sớm để nhóm lửa, ánh lửa bùng lên đánh dấu một ngày mới, đồng thời cũng là biểu hiện của những vất vả mà bà đã trải qua, bất chấp nắng mưa. Tôi còn nhớ hồi đó, khi mới bốn tuổi, mùi khói từ bếp lửa vẫn in sâu trong ký ức, trong bối cảnh đất nước đang gặp nạn đói. Bố mẹ tôi đều phải đi công tác, chỉ còn tôi ở nhà với bà. Ngày xưa, đôi mắt tôi cay xè vì khói, còn bây giờ, sống mũi tôi cũng nhói đau khi nhớ lại. Trong suốt tám năm sống cùng bà, tôi đã cùng bà nhóm lửa. Mỗi khi tiếng tu hú kêu vang, tôi lại kể cho bà nghe về những ngày ở Huế. Tiếng tu hú ấy như chính tình thương của bà, người đã chăm sóc tôi từ cái ăn, cái mặc, đến việc học hành. Tôi rất thương bà, nên mọi lời bà dạy đều được tôi ghi nhớ. Nhớ có một năm giặc vào làng, thiêu rụi cả nhà, nhưng bà vẫn dặn tôi viết thư không được nói linh tinh, phải cho bố mẹ yên tâm rằng nhà vẫn bình yên.

Ngọn lửa bà nhóm lên không chỉ là ngọn lửa đơn thuần, mà còn là niềm tin và hy vọng. Suốt mấy chục năm, mỗi ngày bà đều dậy sớm để nhóm lửa, nhờ có ngọn lửa ấy mà tôi cảm nhận được tình yêu thương, những bữa khoai sắn ngọt ngào và cả những kỷ niệm tuổi thơ. Giờ đây, khi đã rời xa chốn quen, dù có nhiều niềm vui mới và tương lai tươi sáng, tôi vẫn cảm thấy thiếu vắng bếp lửa và bà, luôn khắc khoải tự hỏi: "Sáng mai bà đã nhóm bếp lên chưa?"

Cả cuộc đời này, tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh bếp lửa, cũng như tình yêu thương vô bờ mà bà đã dành cho tôi trong suốt cuộc sống.

Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa - mẫu 4

Mỗi chúng ta đều có những ký ức tuổi thơ sâu đậm, và những kỷ niệm đó thường không thể phai mờ theo thời gian. Những ký ức về làng quê thân yêu, về những ngày tháng học trò ngây thơ… tất cả đều lưu lại dấu ấn mãi trong tâm hồn. Với tôi, những kỷ niệm về bà và tuổi thơ gắn liền với những khó khăn thời kỳ nạn đói năm Ất Dậu là một dấu ấn đặc biệt khó quên.

Đặc biệt, hình ảnh bếp lửa – một hình ảnh gần gũi và quen thuộc trong mỗi gia đình nông thôn – đã trở thành biểu tượng cho tình yêu thương sâu sắc mà tôi dành cho bà. Bếp lửa ấy không chỉ thể hiện sự tần tảo, vất vả của bà mà còn là ngọn lửa thiêng liêng thắp sáng những tình cảm gia đình đầy yêu thương.

Từ khi lên bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói bếp mà bà nhóm lên mỗi sáng. Đó là một trong những hình ảnh sâu sắc nhất trong cuộc đời tôi, đặc biệt là trong những năm tháng đói kém. Mỗi lần nhớ lại, trong tôi lại dâng lên một cảm giác bồi hồi, một nỗi xúc động khó tả về ngọn lửa thiêng liêng ấy. Bếp lửa, qua thời gian, đã trở thành một dấu ấn sâu đậm trong ký ức của tôi, một phần không thể thiếu trong tuổi thơ.

Trong suốt tám năm sống bên bà, tình cảm của tôi dành cho bà ngày càng lớn. Bếp lửa của bà không chỉ là nơi nấu nướng mà còn là ngọn lửa tình yêu thương ấm áp, là nơi bà chia sẻ những câu chuyện, dạy dỗ tôi từng ngày. Trong những tháng năm chiến tranh, bà là người nuôi dưỡng, bảo vệ tôi, là chỗ dựa tinh thần vững chắc để tôi yên tâm học hành.

Dù cuộc sống lúc đó có khó khăn đến đâu, bà luôn cố gắng bảo vệ tôi khỏi những nỗi lo lắng của chiến tranh. Những lời bà dặn dò tôi, dù giản dị nhưng chứa đựng cả tấm lòng, cả sự hy sinh của bà dành cho gia đình. Tôi nhớ mãi câu nói của bà: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, mày viết thư chớ kể này, kể nọ, cứ bảo nhà vẫn bình yên.” Câu nói ấy giản đơn nhưng lại thấm đẫm những tâm sự, những đau khổ mà bà phải chịu đựng.

Nhớ lại những ngày tháng ấy, tôi lại cảm thấy lòng mình nặng trĩu những suy tư về cuộc sống vất vả của bà. Bà luôn thức dậy từ rất sớm, nhóm lửa và nấu nướng cho gia đình. Cả một đời bà cặm cụi, làm việc chăm chỉ và cống hiến cho gia đình, nuôi dưỡng tình yêu thương bằng những bữa cơm đạm bạc mà đong đầy tình cảm. Chính bà đã là người truyền lửa cho tôi, không chỉ là ngọn lửa của sự sống, mà còn là ngọn lửa của tình yêu thương và niềm tin vào cuộc sống.

Bếp lửa mà bà nhóm lên cả đời là một biểu tượng thiêng liêng, là ngọn lửa của niềm hy vọng, của tình yêu thương không bao giờ tắt. Không chỉ là hình ảnh một người bà tần tảo, bà còn đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam: dịu dàng, kiên cường và đầy hy sinh. Giữa những đau thương, mất mát của chiến tranh, bà vẫn kiên trì nhóm lửa, duy trì ngọn lửa ấm áp trong gia đình.

Và khi tôi nhớ lại tất cả những hình ảnh đó, nỗi nhớ về bà lại trào dâng trong lòng tôi. Tôi không chỉ nhớ bà, mà còn nhớ về tình yêu thương vô bờ của bà, về bếp lửa thiêng liêng, về quê hương đầy ắp tình cảm. Những ký ức ấy nhắc nhở tôi về cội nguồn, về tình yêu thương gia đình, về sự sống bền bỉ và không bao giờ tắt.

Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa - mẫu 5

Đã nhiều năm trôi qua, từ một đứa trẻ nay tôi đã trở thành sinh viên Luật ở Nga. Trong không khí lạnh lẽo nơi đây, tôi nhớ về chiếc bếp lửa ấm áp ở quê nhà, nơi gắn liền với những kỉ niệm thời thơ ấu, những năm tháng chiến tranh và hình ảnh bà tôi – người đã luôn bên cạnh tôi.

Tôi sống với bà từ khi còn nhỏ, có lẽ từ hai, ba tuổi. Mùi khói bếp trở nên quen thuộc từ khi tôi lên bốn. Sau giải phóng, nạn đói hoành hành, cuộc sống gia đình vô cùng khó khăn. Bố tôi vất vả kiếm sống, còn tôi thường ngồi bên bếp lửa với bà, mặc cho khói hun nhèm mắt. Giờ đây nghĩ lại, tôi thấy nghẹn ngào.

Tám năm sống bên bà, tôi nhớ những kỉ niệm với bà bên bếp lửa. Bà kể cho tôi nghe những câu chuyện về cuộc sống ở Huế, dạy tôi học, chăm sóc tôi từng bữa ăn, giấc ngủ. Dù gia đình khó khăn, bà luôn dành cho tôi sự yêu thương và dạy dỗ. Trong những năm chiến tranh, khi giặc Pháp đi rồi lại đến giặc Mỹ, làng tôi bị tàn phá, bà vẫn luôn động viên tôi không được kể khổ với bố mẹ, dù tôi rất muốn. Giờ nghĩ lại, tôi thấy mình đã quá ích kỉ.

Bà luôn nhóm bếp mỗi sáng, giữ cho ngọn lửa ấm áp trong gia đình, giúp tôi cảm thấy gần gũi dù xa cách bố mẹ. Ngọn lửa ấy không chỉ là vật chất mà còn chứa đựng niềm tin và hy vọng vào tương lai.

Cuộc đời bà đầy gian nan, nhưng bà vẫn giữ thói quen nhóm bếp mỗi sáng. Mỗi món ăn bà nấu đều chứa đựng tình yêu thương. Dù tôi đã xa quê, hình ảnh bếp lửa và bà vẫn sống mãi trong tôi, trở thành kỉ niệm thiêng liêng không thể quên.

Mùi khói bếp thoang thoảng, sống mũi tôi cay cay. Bếp lửa ấy không chỉ là ngọn lửa của sức sống mà còn là ngọn lửa của tình yêu và niềm tin bà truyền lại cho tôi. Bếp lửa ấy mãi là phần quan trọng trong cuộc sống của tôi.

Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa - mẫu 6

Hôm nay, tôi thấy hình ảnh bếp lửa và không thể diễn tả hết cảm xúc lúc đó. Tôi đứng lặng, hình ảnh bà nhóm lửa cho tôi sống lại trong tâm trí.

Bếp lửa với tôi có từ rất lâu, từ khi tôi còn nhỏ, bà luôn nhóm bếp mỗi ngày, dù nắng hay mưa. Mùi khói ám vào quần áo và tâm hồn tôi. Thời gian đó, khi tôi mới bốn tuổi, trong cảnh đói nghèo, bà cháu chỉ có nhau. Khói bếp làm cay mắt tôi, nhưng giờ tôi lại tiếc nhớ mùi khói ấy.

Tám năm tôi sống bên bà, nhóm lửa và nghe bà kể chuyện ngày xưa. Bà dạy tôi đủ thứ, chăm sóc tôi từng bữa ăn, giấc ngủ. Ngày xưa khó khăn lắm, bà đã phải chịu đựng biết bao khổ cực để nuôi tôi. Dù gian khó, bà vẫn luôn giữ thói quen nhóm bếp mỗi sáng, mang lại cho tôi tình yêu và hy vọng.

Bếp lửa của bà đã dạy tôi về cuộc sống, giúp tôi thấu hiểu nỗi vất vả, gian nan. Mỗi khi xa quê, tôi vẫn nhớ mãi bếp lửa và bà.

Trưởng thành rồi, tôi luôn mong được trở lại những ngày đơn sơ bên bà, nơi bếp lửa ấm áp.

Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa - mẫu 7

Mỗi khi đi qua những cánh đồng bao la của nước Nga, lòng tôi lại trào dâng nỗi nhớ quê hương Việt Nam thân thương. Đặc biệt vào những ngày tuyết trắng xóa, khi thời tiết lạnh buốt, tôi ngồi co ro bên lò sưởi và cảm thấy dường như lò sưởi ấy thật quen thuộc. Ngọn lửa ấm áp ấy khiến tôi nhớ đến bếp lửa của bà tôi.

Tôi lớn lên trong thời kỳ chiến tranh, khi đất nước bị chia cắt, và gia đình tôi có truyền thống yêu nước mạnh mẽ. Từ khi còn nhỏ, bố mẹ tôi đã đi phục vụ Tổ quốc, để lại tôi sống cùng bà. Những kỷ niệm bên bà, đặc biệt là hình ảnh bà gắn liền với bếp lửa ấm áp, luôn in đậm trong tâm trí tôi. Bà dậy sớm, nhóm bếp lửa trong sương sớm, tạo ra ngọn lửa ấm áp của tình bà cháu. Nghĩ về bếp lửa, tôi không khỏi thương bà vì những vất vả mà bà đã trải qua.

Năm tôi bốn tuổi, năm 1945, nạn đói hoành hành khắp nơi, khiến hàng triệu người chết đói. Bố tôi phải đi làm xa, còn tôi ở nhà với bà. Bà nhóm bếp để khói xua đi cái mùi chết chóc, và đến giờ, sống mũi tôi vẫn cay vì ký ức đó.

Tám năm bên bà, tôi được chăm sóc, dạy dỗ và bảo ban. Mỗi mùa hè, tiếng tu hú kêu trên cánh đồng xa lại khiến tôi nhớ bà. Những câu chuyện của bà về Huế như mở ra một thế giới ấm áp, dạy tôi biết yêu thương và cảm thông với người khác. Tôi thường trách những con tu hú rằng sao không ở bên bà mà lại kêu xa.

Cuộc sống tưởng như bình yên nhưng bất ngờ bị giặc tàn phá. Chúng đốt làng, nhưng bà vẫn kiên cường dựng lại túp lều trên đống tro tàn. Khi tôi khóc, bà an ủi và dặn tôi không được kể linh tinh trong thư gửi bố mẹ, chỉ cần nói rằng nhà vẫn bình yên. Mỗi ngày, bà lại nhóm lửa, mang đến niềm tin và tình yêu thương cho tôi.

Bếp lửa không chỉ đơn thuần là ngọn lửa mà còn là biểu tượng của tình yêu và hy vọng. Nó cháy lên trong mọi hoàn cảnh, từ nắng mưa đến đói khát, và chưa bao giờ tắt. Bếp lửa gắn liền với hình ảnh bà tôi, là biểu tượng cho niềm chiến thắng của dân tộc, luôn ấm áp và đầy yêu thương.

Giờ đây, khi tôi ở nơi đất khách, tôi nhớ quê hương, nhớ bà vô hạn. Ánh lửa lò sưởi trước mắt không thể nào thay thế được mùi khói cay của bếp lửa bà tôi. Tôi chỉ muốn nhắc bà rằng: “Sớm mai này bà đã nhóm bếp lên chưa?”.

Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa - mẫu 8

Bao nhiêu năm xa quê hương, xa bà, xa miền quê yêu dấu nhưng tôi vẫn không thể nào quên được những thánh năm tuổi thơ, có bà bên bếp lửa ấm. Dường như cái rét cắt da thịt của mùa đông nước Nga khiến tôi hồi tưởng về ký ức khi ấy.

Năm tôi lên bốn, tức là năm 1945, đất nước đang lâm vào một nạn đói khủng khiếp, khi ấy cuộc sống khó khăn rất nhiều. Bố mẹ tôi phải ra ngoài kiếm tiền, tôi được bà chăm sóc. Tôi còn nhớ khi ấy nhà nhà ai cũng đói, cả người lẫn ngựa đều gầy. Người chết vì đói cũng không ít, thế nên người dân phải đốt rơm để trừ tử khí, đốt nhiều đến nỗi khói hun nhèm mắt, tới giờ vẫn còn cay. Dù vậy tôi cùng bà cũng không bỏ cuộc, chúng tôi ngồi bên ngọn lửa như có một hy vọng, dù không lớn nhưng vẫn sống mãnh liệt.

Bố mẹ tôi đi theo tiếng gọi Tổ Quốc, giao tôi cho bà giữ. Tám năm ròng tôi cùng bà nhóm lửa, dù có khổ đến mấy, bà vẫn ngày ngày thắp lên ngọn lửa như thấp lên mỗi niềm hy vọng. Tôi ngồi trông những đàn chim tu hú hót tha thiết ngoài cánh đồng, tôi chỉ muốn nói rằng: "Tu hú ơi sao chẳng ở cùng bà?”. Tôi từ nhỏ đã quen cái hơi thân thuộc của bà. Cùng bà dậy sớm để cùng thắp lên “hy vọng” dần dần đã trở thành niềm vui nho nhỏ của tôi.

Tôi vẫn nhớ những câu chuyện khi ấy của bà. Bà thường hay kể những ngày ở Huế cho tôi nghe, dù bà có kể bao nhiêu tôi vẫn không thấy chán. Được áp đầu nằm lên đùi bà, được những ngón tay ấm áp của bà luồn qua khe tóc, nằm nghe những câu chuyện cùng với hơi ấm của bếp lửa và tất nhiên là với bà cũng đủ làm cho tôi hạnh phúc.

Bố mẹ đi xa, bà tôi thay bố mẹ dạy tôi nhiều việc, bà lo cho tôi ăn học, lo cho tôi ăn uống, chăm sóc tôi, khuyên răn tôi những việc sai. Khi lớn lên tôi mới nhận ra, bà thương tôi, lo cho tôi không có đủ tình thương, bà cố gắng đảm nhiệm là một người bố, người mẹ và là một người thầy để lo cho tôi. Dù khó khăn bà cũng chỉ để tôi thấy một nụ cười hiền hòa. Nhớ đến đây, hai giọt lệ lăn dài trên má tôi…

Bình yên là thế cho đến khi…. Năm đó, giặc đốt làng cháy rụi. Tôi cùng bà đi trốn. Khi mọi việc kết thúc, bà nắm chặt tay tôi đi từng bước run rẩy vào làng, mọi thứ trước mắt tôi thật hoang tàn. Tôi có thể nghe được cả tiếng khóc than của người dân. Chúng tôi về tới ngôi nhà tranh của mình, nó đã bị đổ xuống nhưng may là các bác hàng xóm đã giúp chúng tôi dựng lại được. Đêm ấy, ngồi bên bà, chợt bà bảo tôi: "Mày có viết thư cho bố thì đừng kể này kể nọ, cứ bảo là chúng ta vẫn bình yên. Đừng để bố bây lo.”

Chính là thế, dù có ra sao bà tôi vẫn gắng gượng. Người phụ nữ ấy là niềm tự hào to lớn của tôi, bà không bao giờ than vãn, hay tỏ ra mệt mỏi, tôi biết bà đang cố gắng giữ cho tôi luôn lạc quan. Dù sớm dù chiều, dù đã qua mấy chục năm, bà vẫn luôn thắp lên bếp lửa ấp iu ấy. Ngọn lửa được bà dành chọn tất cả niềm thương yêu của mình. Chính bếp lửa ấy là nơi có khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo sẻ chia và những tâm tình tuổi thơ. Tôi hiểu lòng bà, vì sao bà lại nhóm lửa, tôi hiểu rằng bà đang hy vọng, ngọn lửa bà thắp như là một niềm tin đất nước sẽ chiến thắng, sẽ bình yên. Bà dành cả đời mình chỉ để hy vọng niềm tin hạnh phúc của bà có thể thành hiện thực.

Dù tôi đang ở nơi xa Tổ Quốc, cho dù tôi không thể ở cùng bà, dù tôi đang thấy những điều mới lạ. Tôi vẫn không quên hình ảnh người bà thân thường cùng bếp lửa thắp lên niềm tin của tôi. Tôi tin bà vẫn luôn ở đây, đang thắp lên ngọn lửa ấm áp trong lòng tôi. “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?.”

Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa - mẫu 9

Đã rất nhiều năm trôi qua, mới ngày nào tôi còn là một đứa trẻ mà giờ đây đã trở thành một sinh viên Luật ở nước Nga xa xôi. Trong cái không khí xe lạnh ở nơi đây, bỗng dưng tôi nhớ về chiếc bếp lửa ấm áp ở quê nhà. Bếp lửa gợi nhớ lại cho tôi rất nhiều những kỉ niệm về thời thơ ấu, về những năm tháng chiến tranh, về bà tôi - người đã ở bên cạnh tôi suốt nhiều năm, người mà tôi luôn luôn kính trọng.

Tôi ở với bà từ khi còn rất nhỏ, chắc là từ hồi hai, ba tuổi tôi cũng không rõ nữa. Tôi chủ nhớ rằng khi lên bốn, mùi khói bếp đã trở nên vô cùng quen thuộc với tôi. Năm đó là sau giải phóng, cái năm mà nạn đói hoành hành đã cướp đi sinh mạng của biết bao nhiêu đồng bào ta. Với tôi, đó là một khoảng thời gian vô cùng khó khăn, cái ăn cái mặc không đủ, gia đình phải dành dụm từng chút một. Bố tôi phải đi đánh xe với những chú ngựa gầy nhom vì đói nhưng tiền chẳng được bao nhiêu. Những ngày tháng ấy, tôi cùng bà ngồi bên bếp lửa đến mức khói hun nhèm hai mắt. Đến giờ nghĩ lại về ngày tháng đó, sống mũi tôi bỗng trở nên cay cay, nghẹn ngào.

Tám năm có lẽ không phải quá dài, nhưng cũng không phải là một khoảng thời gian ngắn. Nó đủ để tôi nhớ được bếp lửa luôn gắn với tuổi thơ bên bà của tôi, cùng với bà nhóm bếp. Tôi vẫn nhớ những tiếng chim tu hú kêu ngoài đồng, tiếng kêu nghe sao mà tha thiết. Những lúc ấy, bà sẽ kể cho tôi nghe về chuyện những ngày còn ở Huế, về cuộc sống của bà như thế nào, những câu chuyện mà đến giờ tôi vẫn còn nhớ.

Bố và mẹ tôi thì đi công tác xa bận không về được nên suốt khoảng thời gian đó tôi sống trong sự yêu thương và dạy dỗ của bà. Bà dạy tôi học, kể chuyện cho tôi nghe những câu chuyện rất thú vị nhưng cũng rất bổ ích và ý nghĩa. Sống với bà từ nhỏ nên tôi đã sớm tự lập, biết lo toan giúp đỡ bà. Tôi tự nhận thức được rằng bà đã cả một đời vất vả, nhưng giờ tuổi đã cao bà vẫn cố gắng lo toan để chăm sóc, yêu thương tôi.

Giặc Pháp đi rồi bọn Mỹ lại kéo đến, biết bao nhiêu khốn khổ lại đổ xuống làng của tôi. Chúng đốt làng cháy tàn cháy lụi, chúng khiến người dân không còn nhà cửa để che chắn mưa gió bão bùng. Lúc ấy tôi đã đủ lớn để hiểu được những cơ cực, vất vả của bà. Dù khó khăn là vậy nhưng bà vẫn luon dặn tôi rằng: "Bố ở chiến khu vẫn còn công việc của bố. Mày có viết thư lên thì đừng có kể này kể nọ, cứ bảo rằng nhà vẫn được bình yên". Lúc ấy tôi tự hỏi rằng tại sao lại phải nói vâỵ, trong khi ở nhà đang rất vất vả. Tôi muốn được kể hết cho bố mẹ nghe rằng ở nhà khổ cực, vất vả như thế nào nhưng sao bố mẹ lại không biết. Giừ nghic lại mới thấy rằng có lẽ tôi đã quá ích kỉ, không nghĩ tới bố me ở chiến khu đang rất căng thẳng.

Sớm hay chiều bà tôi vẫn luôn nhóm bếp. Hình ảnh của bà luôn gắn với hình ảnh ngọn lửa, bởi bà chính là người luôn giữ cho ngọn lửa toả sáng trong gia đình, để đứa cháu như tôi không cảm thấy thiếu thốn, cô đơn vì không được ở gần cha mẹ. Ngọn lửa mà bà luôn ủ sẵn trong lòng, ngọn lửa chứa niềm tin về một ngày đất nước sẽ được giải phóng, ngọn lửa truyền thêm cho tôi sức mạnh.

Cuộc đời của bà lận đận, chịu không biết bao nhiêu những vẫn vả khó khăn. Mấy chục năm rồi nhưng bà vẫn giữ thói quen dậy sớm. Bà dậy để nhóm bếp, để bếp lửa lan toả hơi ấm và tình yêu của bà. Bao nhiêu năm khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo thơm nóng được bà nhóm chứa đầy những tâm tình của tuổi thơ. Cái vị ấy sao mà quen thuộc, thân thương đến vậy. Giờ đây dù tôi đã đến một quốc gia xa lạ, nhưng hình ảnh bếp lửa nơi quên nhà vẫn rất thiêng liêng với tôi. Nó gợi cho tôi về hình ảnh của bà - người đã gắn bó với tuổi thơ của tôi. Ngày ngày, bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên những niềm vui, sự sống, niềm yeu thương cho tôi và mọi người. Bếp lửa ấy không chỉ được nhóm lên bằng củi lửa, mà còn được nhóm lên bằng ngọn lửa trong trái tim bà, ngọn lửa của sức sống và niềm tin một cách kì diệu.

Mùi khói thoang thoảng, sống mũi tôi đột nhiên trở nên cay cay. Những kí ức chợt ùa về trong tôi. Tôi nhớ bà, nhớ bếp lửa, vừa vui vừa buồn. Có lẽ rằng bếp lửa đã trở thành một phần rất quan trọng trong cuộc sống của tôi, thứ mà tôi không thể nào quên đi được. Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học