Giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ nhặt (điểm cao)



Tổng hợp Giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ nhặt điểm cao, hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ nhặt (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ nhặt

I. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt.

- Khẳng định tác phẩm vừa có giá trị hiện thực vừa có giá trị nhân đạo sâu sắc.

II. Thân bài:

1. Giá trị hiện thực:

- Miêu tả bối cảnh xã hội Việt Nam năm 1945: cảnh đói khát, chết chóc, con người tiều tụy.

- Hôn nhân trở thành trò hề vì đói nghèo (Tràng lấy vợ một cách dễ dàng).

- Bữa cháo cám ngày cưới là minh chứng cho cuộc sống cùng cực.

- Sự tàn bạo của thực dân và phát xít khiến nhân dân không còn lối thoát.

2. Giá trị nhân đạo:

- Lòng trắc ẩn giữa con người với nhau: Tràng giúp đỡ thị, bà cụ Tứ lo lắng cho các con.

- Niềm tin vào tương lai dù cuộc sống khốn cùng.

- Hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc thể hiện sự chuyển biến trong nhận thức của nhân dân.

Quảng cáo

III. Kết bài:

- Tổng kết giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

- Tác phẩm không chỉ phản ánh nỗi khổ của con người mà còn đề cao phẩm chất tốt đẹp của họ.

Giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ nhặt - mẫu 1

    Vợ nhặt được rút ra từ tập Con chó xấu xí, xuất bản năm 1945. Đây là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông, đồng thời cũng là một những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người nông dân và thể hiện đầy đủ quan điểm sáng tác của tác giả. Tác phẩm thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo.

    Trước hết giá trị hiện thực của tác phẩm được thể hiện trong việc Kim Lân đã tái hiện thành công nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm 1945 phần lớn người dân đã bị đẩy tới cái chết. Kim Lân đã tập trung tất cả bút lực của mình để tạo dựng bối cảnh, không khí nạn đói ấy. Trong văn ông cái đói, cái chết đã hiện hình, nổi cộm sắc nét tạo nên những ám ảnh ghê rợn. Ấn tượng về cái đói cái chết đã được Kim Lân tạo dựng từ nhiều yếu tố, nhưng ấn tượng nhất là thị giác, khứu giác và thính giác. Ở thị giác, ông đã hai lần sử dụng hình ảnh đầy sức ám ảnh: bên cạnh những người chết như ngả rạ, là những người còn sống vật vờ như những bóng ma. Ở đây cái đói đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực, giữa sự sống và cái chết là gianh giới vô cùng mong manh. Nạn đói đã vắt kiệt toàn bộ sự sống của con người để hiện hình thành những bóng ma dật dờ. Ở khứu giác, cái đói cái chết trong văn Kim Lân không chỉ nhìn thấy mà còn có thể ngửi thấy đó là mù gây của xác người và mùi khét lét của các nhà đốt đống dấm. Còn thính giác cũng là những ấn tượng ghê rợn. Âm thanh của những đàn quạ liên thanh cất lên, là tiếng hờn khóc tỉ tê của những gia đình có người chết.

Quảng cáo

    Không chỉ dừng lại ở đó, giá trị hiện thực còn được thể hiện trong thân phận rẻ rúng của những người nông dân nghèo. Người đàn bà chết đói, người gầy sọp đi, hai mắt trũng sâu vào, vì cái đói, vì miếng ăn đã đồng ý lấy Tràng một cách nhanh chóng. Chính cái đói đã khiến người đàn bà ấy mất đi danh dự, sự e thẹn vốn có của một người con gái, mà trở thành một kẻ chỏng lỏn, vì miếng ăn sẵn sàng đánh mất lòng tự trọng của mình. Chỉ với vài bát bánh đúc và một lời nói vu vơ, thị đã chạy đến híp mắt cười tình, đánh mất đi sự ê lệ, kín đáo và chấp nhận về làm vợ của Tràng khi không hề biết đến tính cách, con người của Tràng ra sao. Trong hoàn cảnh bị cái đói, cái chết dồn đuổi, thị sẵn sàng bám víu vào bất cứ thứ gì đảm bảo sự sống cho thị. Những chi tiết mà Kim Lân miêu tả đã cho thấy, người vợ nhặt là một người nông dân khốn khổ, bị đẩy đến bước đường cùng nên nhân cách và lòng tự trọng đã bị tha hóa.

    Đám cưới với mỗi người là một nghi thức quan trọng nhất trong cuộc đời, nhưng đám cưới của Tràng và người vợ nhặt lại diễn ra hết sức sơ sài, sơ sài đến mức đáng thương. Bữa cơm đầu tiên của nàng dâu mới là nồi cháo cám đắng ngắt mà mọi người ngồi ăn không ai nói với nhau một câu.

    Nhưng bên cạnh những mảng màu xám ngắt của hiện thực, ta còn thấy tác phẩm ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Trong tăm tối, khi cái đói đeo đuổi tất cả mọi người, tưởng chừng như người ta chỉ quan tâm đến sự sống chết của mình, thì người nông dân Việt Nam vẫn sẵn sàng giang tay cứu vớt những con người có số phận bất hạnh hơn mình. Nó thể hiện rất rõ truyền thống yêu thương đùm bọc “lá lành đùm lá rách” của nhân dân ta.

    Tấm lòng nhân đạo của nhà văn trước hết thể hiện trong sự bao dung, tình yêu thương mẹ con Tràng giành cho người vợ nhặt. Tràng mặc dù có ngoại hình xấu xí nhưng lại có tấm lòng nhân hậu, yêu thương con người. Dù chỉ làm công việc tạm thời, không có ruộng đất nhưng Tràng sẵn sàng mua đồ ăn cho người đàn bà không quen biết. Tràng thương cảm cho người đàn bà khi nhìn thấy hình dáng tiều tụy hẳn đi của thị. Và nhất là Tràng còn đồng ý đem người đàn bà ấy về nhà làm vợ của mình, dù trong Tràng lúc ấy cũng thoáng chút lo âu. Việc lấy vợ của Tràng không phải là một chuyện ngẫu nhiên mà đó là cả một mạch vận động hợp lí. Lần đầu gặp gỡ, Tràng lần đầu tiên nhận được sự quan tâm, đó là cái híp mắt cười tình của một người con gái. Đến lần thứ hai, Tràng xót xa khi người đàn bà phốp pháp lần trước đã biến mất, thay vào dó là một kẻ quần áo rách như tổ đả, gầy hẳn đi. Sự thay đổi bất ngờ nhanh chóng ấy đã dấy lên trong Tràng lòng thương cảm, với bản chất lương thiện và sự đồng cảm của những người đồng cảnh ngộ, Tràng đã nhanh chóng quyết định đưa người phụ nữ đó về nhà để làm vợ của mình. Quyết định nhanh chóng, bất ngờ đó vừa thể hiện khát khao hạnh phúc của Tràng, vừa là sự cứu mang, nghĩa cử cao đẹp mà Tràng dành cho người phụ nữ khốn khổ, bất hạnh hơn mình.

Quảng cáo

    Lấy vợ là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Tràng, bằng những cử chỉ hết sức đơn giản, nhưng cũng đủ cho thấy sự trân trọng của Tràng với người vợ nhặt. Anh cho chị ăn một bữa thật no, mua một cái thúng con và mua ít dầu về đốt cho sáng. Hành động mua hai hào dầu đó còn như thắp lên một tương lai, hi vọng mới cho hai vợ chồng. Đặc biệt, sáng hôm sau khi lấy vợ, Tràng đã có những sự thay đổi hoàn toàn. Tràng thấy trong người lửng lơ, một niềm vui khó tả, khi lần đầu tiên được sống và cảm nhận niềm hạnh phúc gia đình. Và niềm hạnh phúc đó đã dẫn đến những biến chuyển trong nhận thức của Tràng, Tràng dấy lên tinh thần trách nhiệm với gia đình. Ý thức được vai trò trụ cột của mình, cùng tham gia với vợ và mẹ để xây dựng cuộc sống mới.

    Còn với bà mẹ của Tràng, có con dâu trong hoàn cảnh éo le này làm bà vô cùng ngỡ ngàng, nhưng sau giây phút bất ngờ, bà đã hiểu ra mọi chuyện. Bằng tình yêu thương với người con trai, sự cảm thông với người vợ nhặt bất hạnh, bà hiểu rằng người ta chỉ dựng vợ gả chồng khi ăn nên làm ra, chứ không ai lấy vợ trong cái đói. Nhưng cùng với tình yêu thương con bà còn tự trách mình, thân phận làm mẹ nhưng lại không lo nổi hạnh phúc cho con. Thương con, lo lắng cho con bao nhiêu bà lại càng ngậm ngùi, xót xa cho thân phận người đàn bà kia bấy nhiêu. Bà không nhìn người con dâu mới bằng ánh mắt cay nghiệt, phán xét mà là cái nhìn đầy cảm thông, bao dung: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy, bà cụ không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử cao cả thiêng liêng mà còn là hiện thân của tình người ấm áp, bao dung, bà đã đưa bàn tay yêu thương để nâng đỡ bao bọc cho những thân phận khốn khổ dù cuộc sống của mình còn muôn vàn khó khăn.

    Không dừng lại ở đó, giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được nhìn nhận từ góc của người vợ nhặt. Người phụ nữ này bị cái đói dồn đuổi đến bước đường cùng, nhưng với lòng ham sống, cô đã cố bám víu đến cùng, cho dù phải biến thành thân phận vợ nhặt. Khát khao được sống đó cho thấy một trái tim khỏe mạnh, một nghị lực sống kiên cườing và bền bỉ ở người phụ nữ này. Như vậy, qua ba nhân vật Tràng, bà mẹ và cô vợ nhặt Kim Lân đã một lần nữa khẳng định lối sống nhân ái, giàu tình cảm và lòng vị tha của nhân dân ta. Không chỉ vậy, trong họ còn tồn tại sức sống mãnh liệt, sẵn sàng vượt qua mọi đói khổ, khó khăn.

    Cuối cùng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở cuối bài với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong sự tiếc rẻ của nhân vật Tràng. Chắc chắn với tinh thần lành mạnh, lòng yêu cuộc sống Tràng và vợ sẽ tham gia hoạt động cách mạng. Hình ảnh lá cờ đó như một gợi mở về tươi lai tương sáng đang đón đợi họ ở phía trước.

    Bằng nghệ thuật miêu tả bậc thầy, Kim Lân đã vẽ ra bức tranh hiện thực tàn khốc về nạn đói năm 1945, khi mạng người bị rẻ rúng đến cùng cực. Nhưng đằng sau bức tranh hiện thực đen tối ấy là ánh sáng của lòng nhân đạo, tình yêu thương, sự bao bọc, chở che lẫn nhau giữa những con người khốn khổ. Sự hòa quyện giữa hai giá trị hiện thực và nhân đạo đã tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ nhặt - mẫu 2

Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là trong mảng truyện ngắn về đề tài nông thôn và người nông dân. Ông có phong cách viết chân thực, giản dị nhưng giàu cảm xúc, luôn hướng ngòi bút của mình đến cuộc sống cơ cực của người lao động và những phẩm chất cao đẹp của họ. Truyện ngắn “Vợ nhặt” được rút từ tập “Con chó xấu xí” là một tác phẩm tiêu biểu của ông. Truyện không chỉ tái hiện chân thực hoàn cảnh khốn cùng của người nông dân trong nạn đói năm 1945 mà còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm vừa lên án sự tàn bạo của chế độ thực dân, phát xít vừa ngợi ca tình người, niềm tin và khát vọng sống của con người ngay cả khi họ bị dồn đến bước đường cùng.

Trước hết, “Vợ nhặt” mang giá trị hiện thực sâu sắc khi tái hiện lại nạn đói khủng khiếp năm 1945 – một trong những thảm họa đau thương nhất trong lịch sử dân tộc. Hình ảnh những con người trong truyện hiện lên đầy bi thảm: “Người chết như ngả rạ”, “ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường”, những bóng người sống thì tiều tụy, xanh xám, đi lại vật vờ như những bóng ma. Tác giả đã khắc họa rõ nét khung cảnh chết chóc bao trùm làng quê Việt Nam thời bấy giờ với những âm thanh ai oán: tiếng khóc hờ, tiếng quạ kêu thê thiết, mùi hôi thối của xác người, mùi ẩm mốc của rác rưởi. Không gian sống của người dân lúc ấy chẳng khác gì nghĩa địa, cái chết luôn rình rập mọi nhà, mọi người. Bối cảnh đó đã đẩy nhân vật vào những bi kịch lớn, mà nổi bật nhất là hình ảnh người vợ nhặt - một người phụ nữ phải đánh đổi danh dự, lòng tự trọng chỉ để có được miếng ăn và một chỗ dựa tạm bợ.

Cái đói không chỉ khiến con người rơi vào cảnh khốn cùng mà còn làm họ mất đi cả nhân phẩm. Tràng – nhân vật chính của truyện, là một anh nông dân nghèo, xấu xí, có phần ngờ nghệch, lại sống trong xóm ngụ cư nên khó có thể lấy được vợ. Thế nhưng, chỉ bằng vài câu nói bông đùa cùng bốn bát bánh đúc, anh ta đã có ngay một người vợ theo về. Hành động “nhặt” vợ của Tràng cho thấy sự rẻ rúng của con người trong nạn đói: chỉ cần một bữa ăn cũng có thể đổi lấy một cuộc hôn nhân. Người phụ nữ xa lạ ấy chẳng cần cưới xin, không cần sính lễ, chỉ cần có cơm ăn là sẵn sàng theo Tràng về nhà mà không chút do dự. Đám cưới của Tràng không có mâm cỗ, không có sự chúc phúc mà chỉ có những ánh mắt tò mò, lo lắng của dân làng. Chính sự kiện này đã khắc họa một cách chân thực hoàn cảnh bi đát của những con người dưới đáy xã hội.

Không chỉ vậy, cuộc sống gia đình của Tràng sau khi có vợ cũng không khá hơn. Mẹ Tràng – bà cụ Tứ, dù vui mừng vì con trai có vợ nhưng cũng không giấu nổi nỗi lo lắng trước cảnh nghèo đói bủa vây. Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới cũng chỉ là nồi cháo cám, một thứ thức ăn vốn chỉ dành cho gia súc nhưng trong hoàn cảnh ấy lại trở thành món ăn cứu đói cho cả nhà. Hình ảnh bữa cơm ấy là minh chứng rõ ràng nhất cho sự cùng cực của con người trong nạn đói. Nó phản ánh chân thực cuộc sống thảm hại của người dân, đồng thời cũng tố cáo tội ác của chế độ thực dân và phát xít Nhật khi đã đẩy nhân dân ta đến bước đường cùng. Như bà cụ Tứ than thở: “Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”. Một câu nói thể hiện sự tuyệt vọng, bế tắc của con người trước thảm cảnh đói khát và sự bóc lột tàn nhẫn của bọn cầm quyền.

Bên cạnh giá trị hiện thực, “Vợ nhặt” còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc khi bộc lộ sự cảm thương của tác giả đối với số phận của những con người nghèo khổ. Dù trong hoàn cảnh bi đát, tác phẩm vẫn ngời sáng vẻ đẹp của tình người. Đó là lòng nhân ái của Tràng khi sẵn sàng cưu mang một người phụ nữ xa lạ trong lúc khó khăn. Đó là tấm lòng bao dung của bà cụ Tứ khi chấp nhận con dâu trong cảnh nghèo đói, không trách móc mà còn an ủi, động viên con cái cố gắng làm ăn. Đặc biệt, truyện cũng ngợi ca khát vọng sống mãnh liệt của con người. Người vợ nhặt dù có lúc phải tạm gác danh dự nhưng vẫn không từ bỏ hy vọng sống. Tràng dù nghèo khổ nhưng vẫn mong muốn có một mái ấm gia đình, có một người vợ để nương tựa. Còn bà cụ Tứ, dù biết hoàn cảnh khắc nghiệt vẫn động viên con cái nghĩ về tương lai.

Không chỉ vậy, tác phẩm còn hé mở một hướng đi cho nhân vật, một niềm tin vào tương lai tươi sáng. Chi tiết lá cờ đỏ xuất hiện trong suy nghĩ của Tràng cùng hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc là những dấu hiệu của sự thay đổi. Nó không chỉ phản ánh thực tế xã hội đang chuyển mình mà còn ngầm khẳng định rằng, chỉ có cách mạng mới là con đường duy nhất giúp người nông dân thoát khỏi cảnh khốn cùng. Có thể thấy, Kim Lân không chỉ dừng lại ở việc miêu tả hiện thực mà còn gửi gắm niềm tin vào tương lai, khơi gợi trong lòng người đọc niềm hy vọng vào sự đổi thay của xã hội.

Như vậy, “Vợ nhặt” là một tác phẩm giàu giá trị hiện thực và nhân đạo. Kim Lân đã thành công trong việc tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy đau thương của dân tộc với nạn đói khủng khiếp năm 1945. Qua đó, tác phẩm tố cáo mạnh mẽ tội ác của thực dân, phát xít, đồng thời ngợi ca tình người, khát vọng sống và niềm tin vào tương lai của con người ngay cả khi họ bị dồn đến bước đường cùng. Với cốt truyện hấp dẫn, tình huống éo le và ngôn ngữ dung dị, gần gũi, “Vợ nhặt” thực sự là một truyện ngắn xuất sắc của nền văn học Việt Nam.

Giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ nhặt - mẫu 3

Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc chuyên viết truyện ngắn về cuộc sống nông thôn Việt Nam. Ông có khả năng khắc họa chân thực hình ảnh người nông dân với số phận khốn khó nhưng vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp. Truyện ngắn “Vợ nhặt” là một tác phẩm tiêu biểu của ông, phản ánh rõ nét bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945, khi cái đói đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người. Không chỉ dừng lại ở giá trị hiện thực, tác phẩm còn chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc khi thể hiện lòng thương người, khát vọng sống và niềm tin vào tương lai của những con người nghèo khổ. Chính vì thế, “Vợ nhặt” được đánh giá là một truyện ngắn xuất sắc vừa mang giá trị hiện thực vừa thấm đẫm tinh thần nhân đạo.

Giá trị hiện thực của tác phẩm được thể hiện rõ qua bối cảnh xã hội Việt Nam năm 1945, khi nhân dân rơi vào cảnh đói khát cùng cực. Nhà văn Kim Lân đã khắc họa một bức tranh xám xịt với cảnh “người chết như ngả rạ”, “ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường”, còn người sống thì “mặt hốc hác u tối”, “đi lại dật dờ như những bóng ma”. Không gian trong truyện ngập tràn màu sắc ảm đạm với tiếng quạ kêu, tiếng khóc than, mùi hôi thối của xác người, rác rưởi, tất cả tạo nên một không gian chết chóc, lạnh lẽo, rùng rợn. Xóm ngụ cư, nơi Tràng sinh sống, cũng không khác gì một nghĩa địa thu nhỏ, nơi mà cái đói và cái chết luôn rình rập con người.

Không chỉ dừng lại ở bối cảnh, Kim Lân còn phản ánh sự tha hóa của con người do đói khát. Cái đói đã biến những giá trị đạo đức truyền thống trở nên mong manh, khiến con người đánh mất cả danh dự và phẩm giá. Nhân vật người vợ nhặt là một minh chứng rõ ràng cho điều này. Thị vì đói mà cong cớn đòi ăn, sẵn sàng theo không một người đàn ông xa lạ chỉ để có miếng cơm bỏ bụng. Hôn nhân vốn là chuyện hệ trọng của đời người, nhưng trong tác phẩm này, nó diễn ra quá dễ dàng, không cưới hỏi, không sính lễ, không người thân đưa đón. Đó chính là bi kịch lớn của con người trong nạn đói. Ngay cả Tràng, một anh chàng xấu xí, nghèo khổ, vốn khó có thể lấy vợ, cũng nhặt được vợ một cách đơn giản. Bữa cơm ngày cưới của hai vợ chồng chỉ có cháo loãng và cháo cám, thể hiện sự khốn cùng của cuộc sống. Tất cả những chi tiết này phản ánh sự thật tàn khốc của xã hội lúc bấy giờ, khi cái đói đã đẩy con người vào bước đường cùng, khiến họ không còn quyền lựa chọn, không còn mơ ước xa xôi.

Không chỉ phản ánh hiện thực đói khát, tác phẩm còn gián tiếp lên án tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Chính sách bóc lột tàn bạo của chúng đã khiến nhân dân lâm vào cảnh kiệt quệ. Người dân bị bắt nhổ lúa trồng đay, bị vắt kiệt sức với những khoản thuế nặng nề, đến mức bà cụ Tứ cũng phải than thở rằng: “Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”. Câu nói này thể hiện sự tuyệt vọng của người dân nghèo, khi mà họ không còn lối thoát, không có hy vọng vào tương lai. Qua đó, Kim Lân đã tố cáo mạnh mẽ những thế lực tàn ác đã gây ra thảm cảnh đau thương cho đất nước.

Dù phản ánh hiện thực đau thương, tác phẩm vẫn thấm đẫm giá trị nhân đạo sâu sắc. Trước hết, đó là sự đồng cảm sâu sắc của tác giả với nỗi khổ của người dân. Kim Lân không chỉ miêu tả nạn đói để khắc họa sự khốc liệt của thời cuộc mà còn để bày tỏ lòng thương xót với những con người nhỏ bé, khốn khổ. Ông trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của họ ngay cả trong hoàn cảnh tăm tối nhất.

Bên cạnh đó, “Vợ nhặt” còn ca ngợi lòng nhân ái và tình người trong cơn hoạn nạn. Tràng, dù nghèo khổ, vẫn sẵn sàng chia sẻ miếng ăn cho người đàn bà xa lạ. Bà cụ Tứ, dù già yếu và nghèo đói, vẫn mở lòng chấp nhận con dâu với tình thương và sự bao dung. Bà lo lắng cho tương lai của các con nhưng vẫn động viên, an ủi họ, nhắc nhở họ về niềm hy vọng và sự cố gắng để thoát khỏi cảnh nghèo đói. Những hành động ấy thể hiện vẻ đẹp của tình người, của sự sẻ chia và cưu mang lẫn nhau trong hoàn cảnh khắc nghiệt.

Không dừng lại ở đó, truyện còn gửi gắm niềm tin vào tương lai và khát vọng sống mãnh liệt. Dù cái đói có bủa vây, những con người trong truyện vẫn không ngừng hướng về ngày mai. Người vợ nhặt, từ một người đàn bà chỏng lỏn, thô lỗ, khi về nhà Tràng đã thay đổi, trở nên dịu dàng, nết na hơn, chăm lo cho cuộc sống gia đình. Tràng, từ một người đàn ông cục mịch, vô tư, sau khi có vợ đã bắt đầu suy nghĩ chín chắn hơn về cuộc sống, về tương lai. Chi tiết cuối truyện, khi Tràng nhớ đến hình ảnh đoàn người phá kho thóc, cùng lá cờ đỏ bay phấp phới, chính là một tia sáng hy vọng, mở ra con đường đấu tranh cho những người nghèo khổ. Qua đó, tác phẩm không chỉ phản ánh hiện thực mà còn gieo vào lòng người đọc niềm tin vào sự đổi thay, vào cách mạng, vào một ngày mai tươi sáng hơn.

Như vậy, “Vợ nhặt” là một tác phẩm giàu giá trị hiện thực và nhân đạo. Nó không chỉ phản ánh chân thực nạn đói năm 1945 mà còn bày tỏ sự thương cảm sâu sắc đối với số phận con người, đề cao tình người và khát vọng sống. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đặc sắc, miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế, ngôn ngữ giản dị mà giàu sức gợi, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Tác phẩm không chỉ là tiếng nói tố cáo xã hội bất công mà còn là bài ca ngợi ca lòng nhân ái và niềm tin vào tương lai.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 Ôn thi THPT Quốc gia khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


viet-bai-lam-van-so-6-lop-12.jsp


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học