10+ Giới thiệu Tô Hoài (điểm cao)

Giới thiệu Tô Hoài điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Giới thiệu Tô Hoài (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Giới thiệu Tô Hoài

a) Mở bài:

+ Tô Hoài, một bút danh quen thuộc với độc giả Việt và quốc tế, là tâm hồn văn chương sáng tạo. Nguyên tên Nguyễn Sen, ông ra đời năm 1920 tại làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, Hà Nội. Cha quê ở Cát Động, Thanh Oai, Hà Nội, là nguồn cảm hứng đầy màu sắc cho sự nghiệp văn chương của ông.

+ Với sự liên kết mạnh mẽ với Hà Nội suốt đời, Tô Hoài sở hữu một vốn kiến thức sâu rộng về đất đai và con người nơi đây. Đó là nguồn cảm hứng không ngừng giúp nhà văn tạo ra những tác phẩm độc đáo và nổi tiếng.

+ Với hơn bảy thập kỷ hoạt động trong lĩnh vực văn chương, nhà văn Tô Hoài đã sáng tác một lượng tác phẩm đồ sộ, một số được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Ông là người đoạt Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật từ Nhà nước, là minh chứng cho đóng góp quan trọng của ông.

b) Thân bài:

* Giai đoạn sáng tác trước Cách mạng tháng Tám năm 1945:

- Các tác phẩm nổi bật:

Quảng cáo

+ Dế Mèn phiêu lưu kí (truyện đồng thoại dành cho trẻ em).

+ Quê hương, Cỏ dại, Nhà nghèo... (Truyện ngắn).

Nội dung chính của các tác phẩm xoay quanh những ký ức không thể quên trong thời thơ ấu nghèo khó, cuộc sống vất vả của tác giả và người lao động. Đặc biệt, Dế Mèn phiêu lưu kí là một bức tranh thiên nhiên sống động, thú vị, được miêu tả qua sự quan sát tinh tường và bằng cảm nhận hồn nhiên của tuổi trẻ. Tác phẩm nổi tiếng này chứa đựng nhiều bài học nhân sinh sâu sắc.

* Giai đoạn sáng tác sau Cách mạng:

Tô Hoài tham gia Hội văn hoá cứu quốc từ năm 1943. Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, ông tham gia chiến trường Việt Bắc và hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực báo chí, văn hoá và văn nghệ.

- Những tác phẩm đáng chú ý:

+ Núi cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Miền Tây... là kết quả của những trải nghiệm thực tế khi nhà văn sống với cộng đồng dân tộc ở vùng cao Việt Bắc và Tây Bắc. Các tác phẩm này phản ánh cuộc sống khó khăn của người dân miền núi dưới sự áp bức của làng đạo, chúa đất, và cả thời kỳ chiến tranh giành độc lập.

Quảng cáo

+ Chuyện cũ Hà Nội, Tự truyện, Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Chiếc áo tế... mang đến cái nhìn sâu sắc về lịch sử và hiện thực cuộc sống, liên quan mật thiết đến cuộc đời và sự sáng tạo văn hóa của tác giả.

+ Dư luận đánh giá cao sự đa dạng và nghệ thuật viết văn tinh tế của Tô Hoài. Lối kể chuyện của ông vừa tươi sáng, vui nhộn vừa chứa đựng sâu sắc, thu hút người đọc.

c) Kết bài:

+ Sự nghiệp văn chương của Tô Hoài là không gì sánh kịp. Ông là một trong những nhà văn hàng đầu trong lĩnh vực văn xuôi Việt Nam hiện đại.

+ Người đọc ở mọi độ tuổi đều kỳ vọng được thưởng thức những tác phẩm mới của nhà văn lão thành, nơi mà sức sống và tài năng viết vẫn mãi bền bỉ, dẻo dai, đáng kính trọng.

Giới thiệu Tô Hoài - mẫu 1

Tác giả Tô Hoài là người có sự nghiệp văn chương kéo dài suốt hơnbảy mươi năm. Quả là một hiện tượng hiếm có không chỉ ở nước ta mà cả trên thế giới. Bút danh Tô Hoài trở nên quá thân quen đối với nhiều thế hệ bạn đọc, trong đó có tôi.

Quảng cáo

Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 17 - 9 - 1920 ở quê ngoại, tức làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông cũ ; nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Còn quê nội của ông ở làng Cát Động, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ). Có thể gọi Tô Hoài là nhà văn của Hà Nội, vì ông sinh ra, lớn lên và gắn bó suốt cuộc đời mình với đất Thủ đô ngàn năm văn vật. Hình ảnh quê ngoại đã in sâu trong tâm khảm nhà văn, cung cấp tư liệu cho ông viết nên rất nhiều tác phẩm nổi tiếng.

Vốn có năng khiếu văn chương từ nhỏ nên Tô Hoài sáng tác từ khi mới hết tuổi thiếu niên. Nhà nghèo, không được học hành đến nơi đến chốn, Tô Hoài tự bù lại bằng cách lăn lộn học ở trường đời. Ông làm nhiều việc để kiếm sống như thợ thủ công dệt lụa, dạy học tư, kế toán tiệm buôn...

Vừa đi làm, ông vừa tranh thủ đọc sách báo và tập viết văn. Là một người nặng lòng với quê hương nên ông đã lấy bút danh là Tô Hoài (sông Tô Lịch chảy qua phủ Hoài Đức quê ngoại).

Đến với văn chương từ năm 1939 và Tô Hoài trở nên nổi tiếng sau thiên truyện Dế Mèn phiêu lưu kí. Được giác ngộ cách mạng, ông tích cực tham gia vào phong trào Thanh niên phản đế và đến năm 1943 gia nhập Hội văn hoá cứu quốc, hoạt động tuyên truyền Việt Minh và viết báo bí mật. Cách mạng Tháng Tám 1945 bùng nổ, trong hàng ngũ trùng trùng điệp điệp quần chúng vùng lên giành chính quyền từ tay thực dân Pháp và phát xít Nhật cũng có mặt Tô Hoài.

Năm 1947, ông lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực báo chí. Từ năm 1951, ông về công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam và đã giữ các chức vụ Tổng thư kí, phó Tổng thư kí Hội, kiêm Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội. Ông còn là đại biểu Quốc hội nhiều khóa. Tập Truyện Tây Bắc nội dung phản ánh hiện thực cuộc sống cơ cực, tăm tối và quá trình đến với cách mạng của đồng bào miền núi là kết quả chuyến đi ròng rã tám tháng của nhà văn trên khắp các nẻo đường chiến khu, chung sống và gắn bó với đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong tập truyện này, tác phẩm được nhắc đến nhiều và có giá trị nhất là Vợ chồng A Phủ, đã được trao giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1945 - 1955.

Kháng chiến chống Pháp kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy, chấn động thế giới. Miền Bắc được giải phóng hoàn toàn. Đảng lãnh đạo nhân dân khôi phục và xây dựng đất nước sau chiến tranh. Nhà văn Tô Hoài có điều kiện thuận lợi để tập trung vào sáng tác. Ông đi nhiều, viết nhiều và thành công trong nhiều thể loại : truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, hồi kí, kịch bản phim, phê bình tiểu luận văn học...

Các tác phẩm chính trước cách mạng gồm: Dế Mèn phiêu lưu kí, Quê người, Cỏ dại, Nhà nghèo. Sau cách mạng gồm: Núi cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Miền Tây, Mười năm, Tự truyện, Chuyện cũ Hà Nội... Khoảng hơn chục năm trở lại đây, ông cho ra đời một số tác phẩm được dư luận rất quan tâm như Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Chiếc áo tế... Tất cả những gì về lịch sử và hiện thực cuộc sống mà khối óc sáng suốt và trái tim nhạy cảm của nhà văn thu nhận được qua cuộc hành trình dằng dặc xuyên thế kỉ đã được tái hiện qua từng trang viết. Mỗi tác phẩm đều phản ánh những giai đoạn thăng trầm của dân tộc nói chung và của bản thân nhà văn nói riêng. Với những đóng góp to lớn cho nền văn học dân tộc, nhà văn Tô Hoài đã được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.

Hồi mới học lớp 3, tôi đã say mê đọc cuốn truyện Dế mèn phiêu lưu kí, ngoài bìa vẽ chú Dế Mèn hăng hái trên con đường phiêu lưu mới mẻ và hấp dẫn. Tôi thích thú hoà mình vào thế giới của các sinh vật nhỏ bé giữa thiên nhiên. Biệt tài kể chuyện của Tô Hoài đã thể hiện rất rõ trong cuốn truyện thiếu nhi này và người đọc có thể tìm thấy bóng dáng xã hội loài người qua tác phẩm. Lớn hơn một chút, tôi đọc Đảo hoang, Chuyện nỏ thần... Tôi cũng đã đọc "ké" của mẹ tôi - một giáo viên Văn Trung học phổ thông - khá nhiều tác phẩm của Tô Hoài như: Truyện Tây Bắc, Tự truyện, Cát bụi chân ai, Chiều chiều... để rồi nhận ra rằng vốn sống của tác giả giống như một mỏ than tầng tầng lớp lớp, có trữ lượng vô cùng lớn, khai thác biết bao giờ cho cạn.

Tôi rất thích lối kể chuyện tự nhiên, dung dị, đặc biệt là nghệ thuật tả cảnh, tả người, tả tâm lí nhân vật... đã đạt đến trình độ bậc thầy của nhà văn Tô Hoài. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của ông đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng trên thế giới. .

Cuộc đời và sự nghiệp văn chương đồ sộ của Tô Hoài ít có tác giả nào sánh kịp. Vốn sống phong phú, trình độ hiểu biết sâu rộng, khả năng thiên phú và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, dẻo dai... đã tạo nên một tên tuổi được đông đảo bạn đọc yêu mến và kính trọng. Tôi vẫn mong tiếp tục được đón nhận những tác phẩm mới của nhà văn Tô Hoài - người đã vượt xa cái ngưỡng "thất thập cổ lai hi" mà sức sống và sức viết vẫn bền bỉ, dẻo dai, thật đáng khâm phục!

Giới thiệu Tô Hoài - mẫu 2

Được mệnh danh là “Nhà văn của mọi lứa tuổi” - nhà văn Tô Hoài đã để lại dấu ấn rực rỡ trên nhiều mảng sáng tác: Những truyện đồng thoại cho thiếu nhi; những tác phẩm về con người và cuộc và cuộc sống vùng cao; Nhà văn kể chuyện Hà Nội xưa hay nhất, người viết tự truyện như tiểu thuyết...

Nhà văn Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27/9/1920 tại quê ngoại là làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông cũ (nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội) trong gia đình có truyền thống làm giấy dó. Đây cũng là nơi nhà văn đã sinh sống và gắn bó suốt những năm tháng ấu thơ cho đến lúc trưởng thành.

Thời thanh niên, Tô Hoài phải trải qua nhiều nghề khác nhau. Ông đến với nghề văn ở tuổi mười tám, đôi mươi và lấy bút danh là Tô Hoài (ghép từ tên đầu của con sông Tô Lịch chảy qua làng Nghĩa Đô nơi ông sống và phủ Hoài Đức nguyên quán của ông).

Những sáng tác đầu tay của Tô Hoài được đăng trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ bảy đã nhanh chóng được bạn đọc đương thời chú ý. Ông sớm khẳng định được vị trí của mình bằng một loạt tác phẩm độc đáo, đặc sắc như: “Con dế mèn”, sau này được ông viết bổ sung và đổi tên thành “Dế Mèn phiêu lưu ký”, “Quê người”, “O chuột”, “Trăng thề”, “Nhà nghèo”… Từ các tác phẩm này, người đọc nhận thấy sức sáng tạo dồi dào của cây bút trẻ với hai chủ đề chính là truyện về loài vật và truyện về làng ven đô trong cảnh đói nghèo.

Có lẽ, từ trước cho đến nay, trong văn học Việt Nam chưa có nhà văn nào viết về loài vật nhiều và đặc sắc như Tô Hoài. Qua những tác phẩm tiêu biểu như: “Dế Mèn phiêu lưu ký”, “O chuột”, “Gã chuột bạch”, “Tuổi trẻ”, “Đôi ri đá”, “Một cuộc bể dâu”, “Mụ ngan”... thế giới loài vật của Tô Hoài thật độc đáo, gợi lên sự liên tưởng về nhiều vấn đề trong đời sống xã hội.

Bên cạnh truyện viết về loài vật, mảng truyện viết về cảnh đời lầm than cũng được ông miêu tả chân thật và sinh động. Cuộc sống cùng quẫn bế tắc của những kiếp người nghèo khổ, lang thang, phiêu bạt nơi đất khách quê người, những người thợ thủ công bị phá sản hiện lên qua từng trang sách với tất cả niềm cảm thông chân thành của nhà văn. Với những bà lão Vối (Mẹ già), chị Hối (Ông cúm bà co), Hương Cay (Khách nợ), gia đình anh Hối (Buổi chiều ở trong nhà)... cảnh đời của những thân phận cơ cực ấy khiến người đọc trăn trở về hiện thực đầy bất hạnh.

Sau năm 1945, Tô Hoài có sự chuyển biến về tư duy sáng tác. Ông nhanh chóng thâm nhập hiện thực cuộc sống và sáng tạo thành công nhiều tác phẩm có giá trị ở các thể loại loại khác nhau. Bước chuyển trong sáng tác của Tô Hoài được thể hiện rõ ở cả chủ đề và đề tài. Tô Hoài không bó hẹp nội dung và đối tượng phản ánh trong phạm vi của một vùng quê nghèo ngoại thành Hà Nội nơi ông từng gắn bó như trước mà hướng đến không gian rộng lớn, đến với cuộc sống của nhiều lớp người, nhiều vùng đất khác nhau. Ông viết về miền núi, với các tập “Núi Cứu quốc”, “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”... Ông viết về những người anh hùng dân tộc thiểu số dũng cảm, thủy chung sắt son, hiến dâng cuộc đời mình cho đất nước, quê hương như “Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ”, “Kim Đồng”, “Giàng A Thào”, “Vừ A Dính”...

Sau này, ngòi bút của ông vẫn hướng về xã hội trước 1945 với cách nhìn, sự suy ngẫm sâu sắc hơn. Ông viết “Mười năm”, với tầm nhận thức từ chỗ đứng của cuộc sống hiện tại nhiều đổi thay mang ý nghĩa lớn trong đời sống dân tộc. Tiếp tục mạch sáng tác hoài niệm ấy, qua những “Quê nhà”, “Những ngõ phố, người đường phố”, “Chuyện cũ Hà Nội”... cho thấy vốn sống, nguồn tư liệu, cũng như nguồn cảm hứng sáng tác của Tô Hoài về Hà Nội vô cùng phong phú đa dạng. Từ các tác phẩm viết về Hà Nội của ông, người đọc hiểu hơn về phong tục, nếp sinh hoạt, tên gọi phố phường, con người Hà Nội trải dài suốt cả thế kỉ XX trong đời thường, trong chiến tranh và trong hòa bình.

Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học Việt Nam nhận định: Riêng về Hà Nội, Tô Hoài là một cây bút cự phách. Cùng với Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng... Tô Hoài đã để lại nhiều trang văn xuất sắc vì câu chữ của ông không những thể hiện được văn hóa, phong tục mà còn thể hiện được "cái hồn" của người Hà Nội. Không chỉ Hà Nội hôm nay mà cả Hà Nội “chuyện cũ” đều được Tô Hoài quan tâm thể hiện.

Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Tô Hoài còn đạt được thành tựu đặc sắc ở thể ký. Nhiều tác phẩm ký của ông ra đời sau những chuyến đi về các miền đất như “Nhật ký vùng cao”, “Lên Sùng Đô”... hay tới thăm nước bạn như “Tôi thăm Campuchia”, “Thành phố Lê-nin”, “Hoa hồng vàng song cửa”... Đặc biệt, các tập hồi ký của Tô Hoài luôn gắn liền với bao nỗi vui buồn và mơ ước của tuổi thơ, bao kỷ niệm về những bạn văn, đời văn của ông như “Cỏ dại”, “Tự truyện”, “Cát bụi chân ai”, “Chiều chiều”...

Nói về nhà văn Tô Hoài, Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Đăng Điệp cho rằng, Tô Hoài là nhà văn của mọi lứa tuổi. Nghĩa là trẻ thơ, người lớn, tất cả đều có thể soi mình trong Tô Hoài. Nếu tính về lượng, Tô Hoài đứng đầu bảng với gần 200 đầu sách. Nếu tính về tinh, ông là một nhà văn đạt đến độ cao nhất của nghề chữ. Tô Hoài có một “bồ chữ” theo đúng nghĩa của nó. Viết nhiều, nhưng trước sau, Tô Hoài vẫn trở đi trở lại với hai vùng đất con người, phong thổ ngoại ô Hà Nội và vùng đất Tây Bắc, nơi ông đã gắn bó sâu sắc trong thời kháng Pháp và sau đó còn trở lại nhiều lần.

“Tô Hoài nhìn cõi nhân sinh này, nhìn cõi đời này không ở chỗ thi vị và lãng mạn hóa, ông nhìn cuộc đời không có gì nghiêm trọng nhưng cũng rất nghiêm trọng, ông không kể gì cao xa, ông kể câu chuyện quanh mình, về mình, câu chuyện của bạn mình và của những người gần gũi với mình”, Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Đăng Điệp nói.

Là một tài năng lớn của văn học nghệ thuật nước nhà, Tô Hoài đã đạt nhiều giải thưởng sáng tác như Giải Nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1956 với tập “Truyện Tây Bắc”; Giải A - Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội năm 1970 với tiểu thuyết “Quê nhà”; Giải thưởng của Hội Nhà văn Á - Phi năm 1970 với tiểu thuyết “Miền Tây”; Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật đợt 1, năm 1996 và Giải thưởng Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội năm 2010. Tác phẩm của Tô Hoài đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và giới thiệu tại nhiều quốc gia như Nga, Anh, Trung Quốc, Pháp, Ba Lan, Séc, Đức, Bungari, Cu Ba, Mông Cổ, Nhật Bản…

Giới thiệu Tô Hoài - mẫu 3

Dù nhà văn Tô Hoài đã đi xa nhưng bạn đọc sẽ còn nhớ mãi ông trong hình bóng “Dế mèn phiêu lưu ký”, trong câu chuyện của “Vợ chồng A Phủ” hay "Chuyện cũ Hà Nội"...

Nhà văn Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27-9-1920, trong một gia đình làm nghề dệt lụa ở huyện Thanh Oai, Hà Đông, Hà Nội. Ông lớn lên ở làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội). Chính vì thế mà, ông lấy bút danh là Tô Hoài, gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức.

Học hết bậc tiểu học, Tô Hoài vừa tự học, vừa làm đủ các nghề để kiếm sống như dạy học, bán hàng, kế toán hiệu buôn... Sự nghiệp văn chương của Tô Hoài bắt đầu từ những tác phẩm in trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ bảy vào cuối những năm 30 của thế kỷ XX.

Năm 1938, Tô Hoài tham gia tổ chức Ái hữu thợ dệt Hà Đông; năm 1943, gia nhập Văn hóa cứu quốc; đã từng bị thực dân Pháp bắt giam. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, ông làm Báo Cứu quốc, tham gia các chiến dịch ở Việt Bắc, Tây Bắc. Năm 1950, ông về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, từng làm Thư ký Tòa soạn Tạp chí Văn nghệ. Ông là Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (1957-1958); Phó Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (1958-1980); Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội (1986-1996). Sự nghiệp văn chương của Tô Hoài gắn liền và trưởng thành cùng với bước đi của cách mạng Việt Nam.

Với các bút danh khác nhau, như: Mai Trang, Mắt Biển, Thái Yên, Vũ Đột Kích, Duy Phương, Hồng Hoa... khi đến với văn chương, nhà văn Tô Hoài nhanh chóng gặt hái thành công và được nhiều người yêu mến. Qua hơn 75 năm lao động nghệ thuật không mệt mỏi, nhà văn Tô Hoài đã để lại khối di sản khổng lồ với hơn 170 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: Truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác... cho đối tượng bạn đọc là người lớn và thiếu nhi. 

Các tác phẩm chính nhà văn Tô Hoài sáng tác trước cách mạng: Dế mèn phiêu lưu ký (truyện, năm 1941); Quê người (tiểu thuyết, 1941); O Chuột (truyện ngắn, năm 1942); Giăng thề (truyện, năm 1943); Nhà nghèo (truyện, 1944); Xóm Giếng ngày xưa (truyện, năm 1944); Cỏ dại (hồi ký, năm 1944). Các tác phẩm nổi tiếng sau 1945: 

Vợ chồng A Phủ (truyện, năm 1952, chuyển thể kịch bản phim, năm 1960); Mười năm (truyện, 1957); Vỡ tỉnh (truyện, năm 1962); Kim Đồng (kịch bản phim, năm 1963); Miền Tây (truyện, năm 1967); Người ven thành (truyện, năm 1972); Chuyện cũ Hà Nội (truyện ngắn và ký sự, năm 1980); Những gương mặt (hồi ký, năm 1980); Quê nhà (truyện, năm 1981); Cát bụi chân ai (hồi ký, năm 1992); Chiều chiều (hồi ký văn học, năm 2000); Ba người khác (tiểu thuyết, năm 2006)…

Trong số những tác phẩm gắn liền với tên tuổi của nhà văn Tô Hoài, phải kể đến “Dế mèn phiêu lưu ký” - cuốn sách của tuổi thơ mà ông sáng tác năm 1942 - khi đó, ông mới 22 tuổi. Cuốn sách được tái bản nhiều lần, được dịch và xuất bản ở nhiều nước trên thế giới. Tác phẩm đã trở thành truyện “gối đầu giường” của biết bao thế hệ độc giả Việt Nam.

Có lần, nhà văn Tô Hoài đã kể về tác phẩm để đời của mình như thế này: Khi tôi vừa bước khỏi tuổi thiếu niên, tất cả những trò chơi ở bãi sông đầu làng của tuổi thơ đã vào thẳng tác phẩm của tôi. Khi cầm bút, những nhân vật trong truyện không cần phải nghĩ mãi mới ra mà nó đã nằm giữa những say mê của mình.

Ra đời từ chính những ký ức một thời niên thiếu, “Dế mèn phiêu lưu ký” lập tức trở thành tác phẩm văn xuôi đặc sắc và nổi tiếng nhất của Tô Hoài viết về loài vật dành cho lứa tuổi thiếu nhi. Với cách quan sát, cái nhìn tinh tế về loài vật, kết hợp với những nhận xét thông minh, hóm hỉnh, nhà văn đã đưa trẻ nhỏ đến với thế giới loài vật sinh động và cũng đầy yêu thương. Ai đã từng đọc “Dế mèn phiêu lưu ký” chắc chắn sẽ không thể quên tình bạn gắn bó của Dế Mèn, Dế Trũi, Xiến Tóc trầm lặng, chị Cào Cào ồn ào duyên dáng, Bọ Ngựa kiêu căng hay Cóc huênh hoang... Mỗi một loài vật, nhà văn lại dùng ngòi bút của mình để lột tả rõ nét tính cách và đời sống riêng của chúng, để từ đó, bày tỏ quan niệm của chính tác giả về nhân sinh, về khát vọng của người lao động, về một cuộc sống hòa bình, yên vui và sự đoàn kết.

Truyện ngắn xuất sắc “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài viết về đề tài miền núi Tây Bắc được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (năm 1953) là một tác phẩm nổi tiếng khác mà mỗi khi nhắc đến nhà văn, người đọc không thể không nhắc tới. Tác phẩm được giải Nhất về truyện, ký (đồng hạng với tác phẩm “Đất Nước đứng lên” của nhà văn Nguyên Ngọc) - giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955. “Vợ chồng A Phủ” cũng được chuyển thể thành kịch bản điện ảnh.

Cùng với “Những ngõ phố”, “Mẹ Mìn bố Mìn”,… đọc “Chuyện cũ Hà Nội” - cuốn từ điển sống về văn hóa và từ ngữ dân gian của Hà Nội, độc giả có thể thấy được tình yêu đối với Hà Nội của nhà văn Tô Hoài. Đây là tập ký sự của ông kể về những câu chuyện gắn liền với con người, cảnh vật, phố phường Hà Nội của ngày xưa. Một điều khiến tập ký sự này hấp dẫn là vì những câu chuyện, con người trong cuốn sách đều hoàn toàn có thật, tạo cảm giác thân thuộc, đầy sức sống cho Hà Nội trong một giai đoạn lịch sử. Qua tác phẩm này, người đọc dù đến từ miền đất nào hay được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, đều cảm được cái tinh khôi, dịu dàng của một Hà thành xưa cũ, cổ điển. Nhà văn Tô Hoài từng chia sẻ: “Cuộc đời này, tôi sống vắt mình suốt từ những thập niên đầu của thế kỷ XX cho đến tận bây giờ. Mọi ngã rẽ, bước ngoặt trong câu chuyện đời tôi đều gắn với những bước thăng trầm của mảnh đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến này”. Có lẽ vì thế mà những ký ức về Hà Nội luôn đong đầy trong những trang văn và câu chuyện của nhà văn Tô Hoài.

Cả cuộc đời cầm bút, với những nỗ lực không mệt mỏi, nhà văn Tô Hoài đã được trao nhiều giải thưởng văn học: Năm 1956, Giải Nhất tiểu thuyết Hội Văn nghệ Việt Nam với “Truyện Tây Bắc”. Năm 1967, Giải A Hội Văn nghệ Hà Nội với tiểu thuyết “Quê nhà”. Năm 1970, Giải thưởng Hoa Sen Hội Nhà văn Á - Phi 1970 với tiểu thuyết “Miền Tây”. Năm 1980, Giải thưởng Thăng Long (Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội) với tập hồi ký “Chuyện cũ Hà Nội”. Năm 1996, Giải thưởng Hồ Chí Minh của Nhà nước về văn học nghệ thuật, đợt I. Năm 2010, Giải thưởng Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội.

Nhà văn Tô Hoài - cây đại thụ trong giới văn chương, người “sống vắt mình suốt từ những thập niên đầu của thế kỷ XX cho đến tận bây giờ” để viết hàng ngàn trang sách, với nhiều cung bậc tình cảm cho nhiều thế hệ độc giả. Ông ra đi trong niềm nhớ, niềm thương của nhiều người. Tên tuổi và tác phẩm của ông sẽ sống mãi trong lòng các thế hệ độc giả.

Giới thiệu Tô Hoài - mẫu 4

Tô Hoài là một trong những tác gia lớn nhất của thế kỉ 20. Ông thuộc thế hệ vàng thế hệ sinh năm 20, từ năm 1920 ngược về trước. Đó là thế hệ vàng của văn chương hiện đại, làm nên mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học thế kỉ 20 - làm nên mùa màng 1930-1945, cùng với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Xuân Diệu, Huy Cận. Ông cũng là người hiếm hoi nhất còn lại của thế hệ ấy, cùng với nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh.

Nhà văn Tô Hoài, tác giả của cuốn sách “Dế mèn phiêu lưu ký” khiến bao thế hệ bạn đọc Việt Nam say mê, đến với văn chương từ thuở thanh niên. Sự nghiệp văn chương của Tô Hoài bắt đầu từ những tác phẩm in trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ bảy vào cuối những năm 30 của thế kỷ 20. Năm 1938, Tô Hoài tham gia Hội Ái hữu công nhân rồi tham gia phong trào Thanh niên phản đế. Năm 1943, ông gia nhập tổ Văn hóa cứu quốc đầu tiên ở Hà Nội. Đây chính là thời gian ông xuất bản cuốn truyện dài nổi tiếng “Dế mèn phiêu lưu ký”.Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhà văn Tô Hoài làm báo Cứu quốc, Chủ nhiệm tờ Cứu quốc Việt Bắc, chủ bút Tạp chí Cứu quốc. Năm 1957, được bầu làm làm Tổng Thứ ký Hội Nhà văn Việt Nam. Từ 1958 đến năm 1980, tiếp tục tham gia Ban Chấp hành, Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Từ 1966 – 1996, ông là Chủ tịch Hội văn nghệ Hà Nội. Nhà văn Hoàng Quốc Hải khâm phục phong cách viết văn của Tô Hoài: “Trong những chuyến đi thực tế vùng Tây Bắc, nhà văn Tô Hoài luôn có tác phong vừa nghe người ta nói, vừa xem họ làm, vừa sinh hoạt với họ, đồng thời còn ghi chép lại. Có những đoạn ông ghi lại tiếng chim gáy trong rừng sâu như thế nào, tiếng chim gáy ở đồng bằng như thế nào. Hay như tiếng chim nuôi trong lồng, nhốt trong thành phố thế nào. Những đoạn ghi chép ấy ông đều đọc cho chúng tôi nghe. Mỗi cái đều có sự tinh tế khác nhau. Từ đó mới thấy nhà văn Tô Hoài làm việc rất tỉ mỉ và những điều ông đưa ra làm cho chúng ta tin được”.

Bên cạnh những đề tài viết về miền núi: Tây Bắc, Việt Bắc cho đến Hà Nội, nói đến Tô Hoài, người đọc nhớ ngay đến Tô Hoài của những sáng tác về Hà Nội, Tô Hoài với miền núi Tây Bắc, Việt Bắc, Tô Hoài của hồi ký tự truyện..., và những sáng tác cho thiếu nhi. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Tô Hoài là “Dế Mèn phiêu lưu ký”, tác phẩm đã gắn liền với bao thế hệ thiếu nhi Việt Nam. Bà Lê Hương, người yêu thích tác phẩm của nhà văn Tô Hoài, cho biết: “Tác phẩm Dế mèn phiêu lưu ký dẫn dắt tuổi thơ của tôi đi xa lắm. Ngày đó đâu có nhiều hình ảnh trên ti vi nhưng qua tác phẩm thì chúng tôi quan sát đất nước Việt Nam tươi đẹp như thế nào, rộng lớn ra làm sao, thân thương ra sao”.

Không chỉ thu hút bạn đọc trong nước, cuốn truyện hấp dẫn này còn được dịch ra nhiều thứ tiếng và được bạn bè quốc tế (cả trẻ em và người lớn) đón nhận nồng nhiệt như những truyện cổ tích kinh điển của nhà văn hào Andecxen, của anh em nhà Grim…Năm 2006, Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã trao tặng nhà văn Tô Hoài bằng chứng nhận “Nhà văn Tô Hoài với tác phẩm Dế mèn phiêu lưu ký được dịch nhiều thứ tiếng nhất”.Tính đến nay, “Dế mèn phiêu lưu ký” đã được dịch ra nhiều thứ tiếng: Pháp, Nga, Đức, Trung Quốc, Nhật Bản, Ba Lan, Nam Tư, Rumani, Cuba, Hàn Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan…

Một tác phẩm nổi tiếng khác của nhà văn Tô Hoài là “Vợ chồng A Phủ” - truyện ngắn xuất sắc của Tô Hoài viết về đề tài miền núi Tây Bắc được in trong tập “Truyện Tây Bắc”(1953).Tác phẩm đã thể hiện một cách xúc động cuộc sống tủi nhục của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến và thực dân, được giải nhất về truyện, kí (đồng hạng với Đất Nước đứng lên của Nguyên Ngọc) giải thưởng của hội Văn Nghệ Việt Nam 1954-1955. Giáo sư văn học Phong Lê đánh giá: “Nói về Vợ chồng A Phủ là nói về giá trị khởi đầu của nó trong văn học kháng chiến, nằm trong bộ ba truyện để thành “Truyện Tây Bắc”. Tô Hoài trong những năm đầu thâm nhập vào kháng chiến, viết được tác phẩm đầu tiên của văn học kháng chiến và xây dựng được mẫu hình của một tầng lớp người.”Truyện Tây Bắc” cùng với “Đất nước đứng lên” là những tác phẩm đặc sắc của chặng đường văn học kháng chiến 1945-1954”.

Cùng với “Dế mèn phiêu lưu ký”, “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài cũng là tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình sách giáo khoa phổ thông và được chuyển thể thành kịch bản điện ảnh.

Tính đến nay, sau hơn 60 năm lao động nghệ thuật, Tô Hoài đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện dài kỳ, tiểu thuyết, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Tô Hoài được đánh giá là cây đại thụ trong khu rừng văn học hiện đại Việt Nam. Ở mọi thể loại sáng tác, Tô Hoài cũng tạo lập được một giá trị riêng, một gương mặt riêng không thể nhòe lẫn và để lại nhiều dấu ấn với những tác phẩm có giá trị.

Nhà văn Tô Hoài được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt 1 - 1996) cho các tác phẩm: Xóm Giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế Mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ. Năm 2010, ông còn được trao Giải thưởng Lớn - Giải thưởng Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội. Nhà văn Tô Hoài, cây đại thụ cuối cùng của thế hệ nhà văn thành danh trước Cách Mạng tháng 8 của Việt Nam, vừa từ trần ngày 6/7 tại Hà Nội, thành phố ông sinh ra, lớn lên và gắn bó hầu như suốt cuộc đời mình. Hơn 70 năm cầm bút, nhà văn Tô Hoài đã sáng tác hơn 200 đầu sách đủ thể loại: từ tiểu thuyết, truyện vừa, bút ký, ký sự, truyện ngắn, hồi ký, tự truyện đến tiểu luận phê bình, truyện viết cho thiếu nhi. Trong mỗi tác phẩm, ông đều để lại dấu ấn riêng

Giới thiệu Tô Hoài - mẫu 5

Tô Hoài là một trong những cây bút tiêu biểu cho dòng văn học hiện đại Việt Nam vào thế kỷ XX. Các tác phẩm của ông không chỉ là những câu chuyện, mà còn là những bản trường ca sâu lắng về cuộc sống và con người, vượt qua thời gian để trở thành điểm dừng tinh thần của độc giả. 

Tác giả Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, ông sinh ra ở huyện Thanh Oai, tỉnh Quảng Đông trong một gia đình thợ thủ công nhưng lại lớn lên ở làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức.

Bút danh của Tô Hoài là do hai địa danh nổi tiếng sông Tô Lịch, phủ Hoài Đức ghép lại mà thành. Ngoài ra trong sự nghiệp của mình, nhà văn còn có thêm nhiều tên gọi khác như Mai Trung, Duy Phương hay Mắt Biển.

Suốt thuở thiếu thời, Tô Hoài phải làm đủ mọi nghề từ dạy học, bán hàng đến làm kế toán cho hàng buôn để bươn chải mưu sinh. Ông tham gia Hội Ái hữu công nhân vào năm 1938 và gia nhập tổ Văn hóa cứu quốc đầu tiên ở Hà Nội trong năm 1943.

Sinh trưởng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Tô Hoài viết báo Cứu quốc và dùng con chữ làm vũ khí đánh giặc, ông là chủ nhiệm tờ Cứu quốc Việt Bắc, chủ bút Tạp chí Cứu quốc.

Đồng thời Tô Hoài còn được bầu làm Tổng thư ký hội nhà văn Việt Nam cũng như chủ tịch Hội văn nghệ Hà Nội.

Nhà văn đi đến nhiều nơi, học hỏi được nhiều thứ rồi biến những hiểu biết của mình thành văn chương để từ đó giúp độc giả hiểu rõ thêm về thế giới ngoài kia.

Suốt cả cuộc đời, Tô Hoài cần cù đi và viết để cống hiến hết mình cho văn chương cũng như tổ quốc. Trong hơn bảy mươi năm cầm bút, nhà văn đã để lại cho đời sau một kho báu khổng lồ, các tác phẩm của ông giống như dòng nước mát nuôi dưỡng tâm hồn bao thế hệ và đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong lòng độc giả.

Tác giả Tô Hoài đã để lại cho đời sau một khối lượng khổng lồ những tác phẩm quý giá, điển hình là thiên truyện dài nổi danh Dế mèn phiêu lưu ký, cuốn hồi ký sâu lắng Cát bụi chân ai và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.

Mỗi một tác phẩm đều là những chủ đề, những câu chuyện khác nhau được viết và kể qua lăng kính của tác giả, song tất cả đều thể hiện được phong cách nghệ thuật riêng biệt của Tô Hoài, đó là một chất giọng riêng của nhà văn mà không ai có thể tìm thấy trên trang văn của những người nghệ sĩ khác.

Đến với Dế mèn phiêu lưu ký, một tác phẩm văn xuôi đặc sắc gắn liền với bao thế hệ thiếu nhi, người đọc dường như lạc vào thế giới động vật mới lạ và sinh động để phiêu lưu cùng chú dế mèn, mỗi cuộc phiêu lưu gắn liền với một bài học vô cùng quý giá được tác giả gửi gắm bên trong.

Dế mèn phiêu lưu ký là một điểm sáng nổi bật trong sự nghiệp của Tô Hoài, tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng và được bạn đọc khắp nơi đón nhận nồng nhiệt, đồng thời nó giúp nhà văn đạt được nhiều giải thưởng văn học danh giá cũng như khẳng định tên tuổi của ông trên văn đàn Việt Nam.

Nếu Dế mèn phiêu lưu ký là thiên truyện gắn liền với tuổi thơ của bao thế hệ thiếu nhi và là một dấu ấn nổi bật trong sự nghiệp của nhà văn thì ở những năm 53, 54 của thế kỷ trước, văn đàn lại một lần nữa xôn xao nhắc đến cái tên Tô Hoài với tập truyện Tây Bắc. Tập truyện gồm bộ ba tác phẩm Cứu đất cứu mườngMường giơn và Vợ chồng A Phủviết về cuộc sống ở miền núi cao Tây Bắc.

Tác phẩm được viết trong một dịp nhà văn ghé thăm Tây Bắc, chính chuyến đi này đã gợi cho ông nhiều cảm hứng sáng tác để rồi sau khi về lại miền xuôi, lòng Tô Hoài vẫn chưa nguôi nỗi nhớ thương nơi vùng núi cao.

Trong tác phẩm, Vợ chồng A Phủ là linh hồn của cả thiên truyện, đó là câu chuyện xoay quanh một cô gái dân tộc tên Mị và công cuộc giải cứu bản thân cùng người khác khỏi cường quyền, thần quyền và tiền quyền.

Ông viết tác phẩm này để lấy ánh sáng của Đảng, dùng tài văn của mình mà soi rọi đến những con người ở vùng núi cao Tây Bắc, truyện ngắn có một ý nghĩa vô cùng to lớn.

Ngoài những tác phẩm kể trên, Tô Hoài còn để lại cho đời rất nhiều hạt ngọc văn chương khác, mỗi hạt đều góp phần tô điểm hương sắc cho đời và giúp cho cái nhìn của mỗi độc giả ngày càng thêm phong phú hơn.

Có thể nhận thấy rằng, tác giả Tô Hoài đã cống hiến hết mình cho văn học, bằng châm ngôn văn chương như cuộc sống, nhà văn đã kiến tạo nên một thế giới văn chương thực tế mà sinh động cuốn hút. Dù đã qua đời ở tuổi 94, song Tô Hoài cùng sự nghiệp văn học già hơn nửa thế kỷ vẫn luôn trường tồn bất diệt với thời gian và mãi mãi neo đậu vững chắc trong lòng độc giả.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học