10+ Mị sau khi về làm dâu (điểm cao)

Mị sau khi về làm dâu điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Mị sau khi về làm dâu (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Mị sau khi về làm dâu

1. Mở bài

- Việc Cô Mị trở thành dâu trong gia đình thống lí Lá Tra không chỉ là một sự kiện cá nhân mà còn phản ánh đặc trưng của đời sống xã hội và văn hóa truyền thống của vùng miền.

- Việc này có tác động lớn đến hình ảnh và giá trị của xã hội và văn hóa truyền thống nơi Cô Mị sinh sống.

2. Thân bài

a) Việc làm dâu trong xã hội và văn hóa truyền thống của vùng miền

- Là một trọng trách lớn đối với phụ nữ trong xã hội, đòi hỏi sự tôn trọng và hiểu biết về phong tục, tập quán của gia đình và cộng đồng.

- Là bước chuyển giao quan trọng trong đời sống Cô Mị, cũng như sự hòa nhập vào gia đình mới.

b) Sự chuẩn bị của gia đình thống lí Lá Tra đón Cô Mị làm dâu

- Không chỉ là tổ chức bữa tiệc, mà còn có các hành động tín ngưỡng đặc biệt.

- Nhét áo vào miệng và bịt mắt Cô Mị trước khi cõng đi, thể hiện sự tôn trọng đối với phong tục và tín ngưỡng của vùng miền.

Quảng cáo

c) Ý nghĩa và tác động của những nghi lễ và phong tục này

- Mặc dù có thể lạ lùng với người ngoài, nhưng trong bối cảnh văn hóa vùng miền, đó là hành động thể hiện sự chào đón và sự quan tâm đến Cô Mị.

- Các nghi lễ này làm nổi bật sự am hiểu của gia đình thống lí Lá Tra về các phong tục tập quán, giữ gìn giá trị văn hóa qua các thế hệ.

d) Tô Hoài và sự am hiểu về phong tục tập quán của vùng miền

- Qua việc mô tả chi tiết nghi lễ đón tiếp, Tô Hoài thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về những phong tục, tín ngưỡng của đồng bào.

- Câu chuyện trở nên sinh động, chân thực và góp phần tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc.

3. Kết bài

- Đây không chỉ là sự kiện cá nhân mà còn là một phần quan trọng của đời sống xã hội và văn hóa địa phương.

- Khẳng định tác động của văn hóa truyền thống đối với con người và xã hội qua những nét đặc sắc được Tô Hoài khắc họa trong tác phẩm.

Quảng cáo

Mị sau khi về làm dâu - mẫu 1

Nhân vật Mị trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của nhà văn Tô Hoài là một hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ dưới ách thống trị của xã hội phong kiến miền núi. Mị, một cô gái xinh đẹp, đầy khát khao sống, đã bị cuốn vào vòng xoáy của những bất công, khổ cực. Vào cái xã hội nơi quyền lực, nam quyền và tục lệ đè nặng lên đời sống con người, Mị đã trở thành con dâu gạt nợ của thống lí Pá Tra, một kẻ chuyên mua bán và nô lệ hóa con người. Mị là nạn nhân của một xã hội áp bức tàn bạo, nơi tinh thần và thể xác của người phụ nữ bị bào mòn đến tận cùng. Từ một cô gái xinh đẹp, Mị trở thành một cái xác không hồn, khổ sở cả về thể xác lẫn tinh thần, hoàn toàn mất đi khát vọng sống, đến mức không còn cảm nhận được sự tồn tại của chính mình.

Mị, sau khi về làm dâu nhà thống lí, phải chịu cực khổ không kém gì trâu ngựa, làm việc không ngơi nghỉ cả ngày lẫn đêm. Cô phải lao động cật lực, làm những công việc nặng nhọc như một cỗ máy, không bao giờ được nghỉ ngơi. Thái độ của Mị lúc này không còn sự phản kháng hay khát vọng sống. Cô cúi mặt, lặng lẽ, nhớ đi nhớ lại những công việc như nhau, suốt năm suốt đời cũng thế. Đó là những hành động vô thức, mang tính chất quán tính, và không còn sự ý thức, vì những thói quen này đã bào mòn ý thức và tâm hồn của Mị, biến cô thành một cái xác không hồn, mất đi những suy nghĩ và cảm xúc cá nhân. Cái khổ của Mị không chỉ là công việc, mà còn là những lần bị đánh đập, hành hạ một cách tàn nhẫn từ gia đình thống lí Pá Tra, khiến Mị không còn cảm giác về đau đớn nữa.

Quảng cáo

Mị là nạn nhân của ba yếu tố lớn: cường quyền, nam quyền và thần quyền. Mị bị cha con thống lí Pá Tra bắt về làm con dâu gạt nợ, không hề có sự đồng thuận hay tôn trọng nguyện vọng của cô. Tất cả chỉ là sự trả nợ cho gia đình Mị, không cần biết đến khát khao sống hay hạnh phúc của Mị. Bên cạnh đó, Mị còn phải chịu sự áp bức của chế độ nam quyền, khi mà cô không được hưởng hạnh phúc lứa đôi, mà chỉ là công cụ để người khác sử dụng, không có quyền quyết định cuộc đời mình. Thêm vào đó, tục lệ cúng trình ma trong xã hội phong kiến buộc Mị phải tuân theo, khiến cô không thể trốn chạy dù lòng cô muốn tìm sự giải thoát. Mị trở thành nạn nhân của một xã hội mà ở đó, quyền lợi và khát vọng của phụ nữ không hề được coi trọng.

Cuộc sống của Mị được mô tả trong một không gian ngột ngạt, bức bối, một căn buồng tăm tối. Không gian này giống như một nhà tù, giam hãm tâm hồn và cuộc đời của Mị, khiến cô không thể thoát ra được. Mị không còn phân biệt được thời gian, không biết mùa nào đã qua, con chim nào bay qua cửa sổ, không còn cảm nhận được sự thay đổi giữa sáng và chiều. Cô sống trong một không gian và thời gian vô nghĩa, không có ý niệm về sự tồn tại của mình. Cuộc sống của Mị trở nên vô hồn, tẻ nhạt, không có ai làm bạn, không có ai hiểu mình, chỉ còn những đêm dài tẻ nhạt, cô đơn làm bạn với ngọn lửa. Mị sống trong lặng lẽ và buồn bã, như một cái bóng không có cảm xúc, không có tương lai.

Ban đầu, Mị phản kháng quyết liệt, cô đã định ăn lá ngón để tự kết liễu cuộc đời khi thấy không còn hi vọng. Nhưng sau đó, khi bố chết và món nợ không còn ràng buộc, Mị lại không nghĩ đến cái chết. Dù vậy, cái chết không còn là lối thoát vì Mị đã quá quen với nỗi khổ rồi. Sự áp bức kéo dài đã làm tê liệt tinh thần phản kháng của Mị, khiến cô không còn dám ước mơ hay hy vọng gì nữa. Đau khổ và cực nhọc đã cướp đi tuổi thanh xuân của Mị và biến Mị thành con người nhẫn nhục, chấp nhận số phận. Mị đã trở thành hình ảnh tiêu biểu cho số phận của người phụ nữ nghèo dưới ách thống trị của phong kiến miền núi, nơi họ không có quyền tự quyết định số phận của mình.

Nhân vật Mị là một hình ảnh sâu sắc và đầy cảm động về thân phận người phụ nữ dưới ách thống trị phong kiến. Mị, từ một cô gái đầy khát khao sống, đã bị cướp đi tuổi thanh xuân, bị cuốn vào một vòng xoáy đau khổ, tăm tối. Cuộc sống của Mị là sự phản ánh chân thực về nỗi thống khổ, sự áp bức tàn nhẫn mà xã hội phong kiến dành cho những người phụ nữ nghèo khổ, không có quyền sống, quyền tự quyết định số phận. Mị chính là biểu tượng cho những người phụ nữ bị đè nén và vùi dập dưới gót chân của những chế độ tàn bạo, bạo lực.

Mị sau khi về làm dâu - mẫu 2

Việc Cô Mị trở thành dâu trong gia đình thống lí Lá Tra không chỉ là một sự kiện cá nhân mà còn phản ánh một phần của đời sống xã hội và văn hóa truyền thống của vùng miền. Trong xã hội quê hương, việc làm dâu thường được coi là một trọng trách lớn và đòi hỏi sự tôn trọng và sự hiểu biết đối với phong tục tập quán.

Tô Hoài mô tả việc nhà thống lí Lá Tra đã chuẩn bị sẵn một cách chu đáo cho việc đón nhận Cô Mị làm dâu. Sự chuẩn bị này không chỉ là việc tổ chức một bữa tiệc chào đón mà còn bao gồm các hành động tín ngưỡng như nhét áo vào miệng và bịt mắt trước khi cõng Cô Mị đi. Điều này thể hiện sự am hiểu về các nghi lễ, truyền thống tâm linh và phong tục tập quán của vùng miền.

Dù có thể có những hành động hoặc nghi lễ có vẻ lạ lùng đối với người ngoài, nhưng trong bối cảnh văn hóa và truyền thống của vùng miền, đây là biểu hiện của sự quan tâm, tôn trọng và chào đón Cô Mị vào gia đình mới.

Tô Hoài đã thể hiện sự am hiểu sâu sắc về cuộc sống và phong tục tập quán của vùng miền thông qua việc mô tả việc Cô Mị trở thành dâu trong gia đình thống lí Lá Tra và các hành động chào đón theo truyền thống của vùng miền đó. Điều này làm cho câu chuyện trở nên sinh động và chân thực hơn, cũng như tôn vinh và giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống.

Mị sau khi về làm dâu - mẫu 3

Tô Hoài là nhà văn rất thành công trong những nhà văn thuộc nền văn xuôi hiện đại. Tác phẩm của ông thường viết về những vấn đề gần gũi thân quen trong cuộc sống thường ngày. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ là tác phẩm viết về đề tài Tây Bắc mang lại những giá trị sâu sắc. Nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm là Mị, một phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh, nhưng có vẻ đẹp tâm hồn và có sức sống mãnh liệt, dám đứng lên đấu tranh tìm lại hạnh phúc cho mình.

Nhân vật Mị hiện lên trong cách giới thiệu của tác giả ở ngay đầu câu chuyện gợi lên cho người đọc một sự lôi cuốn lạ kì. Chỉ bằng vài câu chữ, tác giả đã cho người đọc hình dung ra được cuộc sống đầy đau khổ mà Mị đang phải hứng chịu trong nhà Pá Tra. "Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi".

Hình ảnh người con gái với vẻ mặt và ánh mắt vô hồn bên cạnh cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào "buồn rười rượi". Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ, bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng. Mị trước đó là một người con gái đẹp của núi rừng Tây Bắc, cô có tài có sắc, có một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương, có rất nhiều người yêu và cô cũng đã trao gửi tình yêu cho một người trai làng yêu cô tha thiết.

Nhưng số phận may mắn không đến với cô, người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí. Danh nghĩa là con dâu nhưng cô đã phải chịu mọi khổ cực đến tận cùng của một kẻ tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, "Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm". Không những bị đày đọa về thể xác, Mị còn bị dày vò về một nỗi đau tinh thần không lối thoát. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng.

Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống.

Quá khổ cực và muốn giải thoát cho mình bằng cái chết, nhưng lại lo cho cha nên Mị đã cố sống. Khi cha Mị không còn nữa, thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ, như một đồ vật không cảm xúc. Muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước... cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi.

Cuộc sống của Mị cứ thế lầm lũi trôi qua ngày này sang tháng khác, những tưởng con người thật sự của Mị đã chết đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia đang còn một con người, có khao khát sống đến mãnh liệt. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quyên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu.

Chính không khí mùa xuân của Hồng Ngài năm ấy đã làm trỗi dậy sức sống ở con người Mị. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các loài hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, "uống ừng ực" rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ.

Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi...), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người: "Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau".

Tiếng sáo thật có ý nghĩa bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ. Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc ấy, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi.

Hòa mình vào không khí náo nhiệt của mùa xuân, tâm hồn tưởng như đã chết của Mị dần được sưởi ấm, nó lướn dần và lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: "Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi". Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trog một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi.

Dù bị A Sử trói vào cột nhưng Mị vẫn chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước.

Sức sống le lói của Mị đã bùng phát lên thành hành động, đó là hành động Mị cởi trói cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói đứng.

Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: "A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Câu văn như một mình chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt: "Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen". Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình.

Con người Mị lúc này đã tỉnh táo, Mị đã nhận thức được những đau khổ mà Mị đã phải chịu đựng và thương cho người có cùng cảnh ngộ như mình là A Phủ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình: "Mình là đàn bà... chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết". Nhưng khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị càng tỉnh táo hơn và bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận. Phải nói rằng, nhà văn đã có sự am hiểu sâu sắc về cuộc song của con người Tây Bắc, có sự cảm thông sâu sắc đối với những người phụ nữ nơi đây, nhà văn mới có thể phát hiện ra cái vẻ đẹp nằm sâu trong tâm hồn người phụ nữ bất hạnh ấy.

Thông qua nhân vật Mị nhà văn đã thay toàn dân tố cáo cái thế lực phong kiến đã áp bức, bóc lột và chà đạp nên quyền sống cơ bản của con người. Cũng qua nhân vật ấy Tô Hoài đã ca ngợi khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng tự do hạnh phúc của những con người nghèo khổ ấy, đồng thời thể hiện sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, tình giai cấp của dân tộc Việt trong những khó khăn gian khổ.

Mị sau khi về làm dâu - mẫu 4

Tô Hoài là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi những nét độc đáo trong việc quan sát và diễn tả về những số phận con người miền núi. Đó là những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không chịu sự đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối; họ vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do. Sức sống tiềm tàng đó được thể hiện mạnh mẽ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, thông qua nhân vật Mị, khi cô lâm vào cảnh ngộ bị bắt làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra đến khi thoát khỏi Hồng Ngài.

Trước khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái trẻ đẹp, yêu lao động, yêu tự do. Khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí, Mị phải chịu một cuộc sống đầy tủi nhục, thống khổ. “Lúc nào cô cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Bởi cô là cô dâu gạt nợ, nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi. Để rồi cô bị tước đoạt tuổi trẻ, tự do, bị đối xử như nô lệ. Mỗi ngày, Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.

Dù cuộc sống thống khổ, nhưng Mị vẫn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, sức sống ấy của Mị trỗi dậy vào đêm tình mùa xuân. “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội... Trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm, sặc sỡ... tiếng trẻ con nô đùa...” Mùa xuân ấy rộn rã âm thanh và màu sắc, là dấu hiệu cho sự bừng tỉnh của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đầu tiên, sức sống ấy được hồi sinh khi Mị nghe thấy tiếng sáo: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi...” Tiếng sáo ấy chạm vào tâm hồn của Mị, khiến Mị nhớ lại những ngày xuân thật đẹp của quá khứ. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi”. Tiếng sáo ấy như ngọn gió thổi vào lòng cô, khiến cô nhẩm lại lời của người đang thổi sáo:

“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”

Đã lâu rồi Mị không hát, thế mà cô vẫn thuộc. Dường như Mị vẫn chẳng thể quên được những ngày tươi đẹp nhất, trái tim vẫn chẳng thể nguội lạnh trước cuộc đời ngoài kia. Tiếng sáo ấy khiến Mị lén lấy hũ rượu. “Cứ uống ực từng bát. Rồi say. Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn những người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.” Niềm vui ấy khiến Mị ý thức được rằng “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Điều đó thể hiện được khát khao tự do của cô, khát khao tự do giữa hiện thực đau đớn. Để rồi cô tủi thân, khi nhớ lại rằng mình đang có một cuộc sống bất hạnh: “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.” Mị chợt muốn chết, mà muốn chết tức là cô đã nhận ra trong tư tưởng của mình có sự phản kháng, cô không còn muốn sống kiếp sống này nữa. Sức sống mãnh liệt còn thể hiện mạnh mẽ hơn khi Mị đi đến quyết định: Bỏ nhà đi theo cuộc chơi. Mị làm đẹp cho bản thân mà không để ý đến thái độ của A Sử, Mị hành động thản nhiên, nhưng đau đớn thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị đã dập tắt đi cái khát vọng sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử trói Mị, nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng tâm hồn của mình. Hồn Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”. Tâm hồn cô đang ngập tràn tiếng sáo, tiếng sáo ấy nhập vào hồn Mị, khiến nàng quên đi rằng mình bị trói. Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được”, Mị đau đớn tủi nhục, quay về với cuộc đời hiện thực. Có một chi tiết đắt giá đã lóe lên trong tâm trạng của cô: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện của người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Mị sợ, Mị “cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”. Nàng vẫn còn biết sợ, và đó chính là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống ấy vẫn đang âm ỉ cháy trong tâm hồn nàng, dù có bị vùi dập như thế nào đi nữa.

Sức sống tiềm tàng của Mị lại bùng lên lần nữa trong đêm cởi trói cho A Phủ. Cùng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, nếu Mị trở thành cô dâu gạt nợ, thì A Phủ trở thành trâu ngựa cho nhà Pá Tra. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu, để rồi khi con bò bị hổ bất mắt, A Phủ bị hành hạ, bị treo lên cột, bỏ mặc đến chết. Lúc đầu, Mị chứng kiến mọi thứ bằng đôi mắt vô cảm. Dường như Mị đã mất đi lòng nhân ái giữa người với người, Mị lạnh lùng nhìn A Phủ bị hành hạ. Sau đó, khi nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ chảy xuống, Mị bỗng động lòng, trái tim của nàng thức tỉnh. Mị hình dung lại chuỗi ngày dài dằng dặc của cuộc đời mình, để rồi thấy A Phủ sao mà giống mình thế, phải chịu cảnh đau khổ, tàn nhẫn, kiếp sống trâu ngựa đầy bất công, phi lí. Mị nguyền rủa: “Chúng nó thật độc ác.”

Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc nàng phải cứu A Phủ, dù cho nếu A Phủ chạy thoát, thì có thể người phải chết trên cột sẽ chính là nàng. Nhưng giờ đây, sức sống tiềm tàng đã khiến Mị khao khát được tự do, để rồi Mị quyết liệt cắt đứt sợi dây trói cho A Phủ. Đó là chính là vẻ đẹp của một tâm hồn khát khao được sống, được giải phóng bản thân mình. Hành động cắt sợi dây trói cho A Phủ cũng chính là cắt sợi dây trói buộc của đời mình, giải thoát khỏi cường quyền và thần quyền. Hành động này là một bước chuyển tâm lý, một sự trỗi dậy mạnh mẽ, một quá trình hiện thực hóa nhận thức, đưa cô Mị từ sức sống tiềm tàng trở thành người tự giải thoát chính mình. Qua đó, ta thấy được giá trị nhân đạo trong ngòi bút của Tô Hoài. Ông nâng niu từng phẩm chất tốt đẹp của nhân vật, cứu vớt họ từ những bi kịch cùng quẫn, đau thương...

Về nghệ thuật, nhân vật Mị được khắc họa chân dung, tính cách thông qua ngôn ngữ giàu chất thơ cùng phong cách trần thuật hấp dẫn, xây dựng nhân vật với diễn biến nội tâm đa dạng, phong phú. Hành trình khám phá nhân vật Mị là hành trình trải nghiệm của những cung bậc cảm xúc. Đó là những điều đã làm nên một nhân vật Mị có sức sống tiềm tàng và hành động dứt khoát. Mị là một hình tượng điển hình cho những người dân nghèo vùng cao thấp cổ bé họng, sống trong cuộc sống ngột ngạt dưới ách thống trị của những người cầm quyền giàu có nhưng mất nhân tính. Tô Hoài thấu hiểu được điều đó, ông đặt tình cảm, niềm cảm thương của mình vào nhân vật Mị, với ước mong rằng những người khổ đau sẽ tìm được con đường giải phóng bản thân.

Như Maxim Gorki đã từng nói: “Văn học là nhân học”, ngòi bút của Tô Hoài thấm đẫm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Ông đã lặn xuống những kiếp người cùng khổ để thấu hiểu được nỗi đau, từ đó khám phá ra sức sống tiềm tàng ẩn sâu bên trong tâm hồn của họ.

Mị sau khi về làm dâu - mẫu 5

Trong chuyến công tác tại Tây Bắc, nhà văn Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào dân tộc, cũng chính hoàn cảnh đó đã tạo điều kiện để Tô Hoài thêm am hiểu về con người, văn hóa, phong tục miền núi. Đây cũng là nguồn cảm hứng chính để nhà văn sáng tác “Truyện Tây Bắc” mà đặc sắc nhất trong số đó có thể kể đến truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Trong tác phẩm này, nhà văn không chỉ thành công khi tái hiện không khí ngột ngạt của chế độ phong kiến miền núi và số phận bất hạnh của con người nghèo khổ mà còn thành công bởi chính nghệ thuật xây dựng và miêu tả tâm lí nhân vật Mị từ lúc làm dâu nhà Thống lí cho đến khi cứu và chạy theo A Phủ.

Trước khi về làm dâu nhà thống lí, Mị là cô gái xinh đẹp, yêu đời và có tài thổi sáo được nhiều chàng trai trong miền mến mộ và đi theo. Tuy nhiên, khi trở thành con dâu gạt nợ cho gia đình thống lí, cái mà người đọc thấy ở cô gái này lại là sự lầm lũi, cam chịu đến đáng thương. Sống trong gia đình nhà thống lí, Mị bị chà đạp cả về thể chất và tinh thần, trên danh nghĩa Mị là con dâu nhưng thực chất lại là người ở không hơn không kém.

Mị phải làm việc quần quật cả ngày cả đêm như con trâu, con ngựa, sống lâu trong cái khổ Mị đã dần trở nên cam chịu, sức sống bị bào mòn đến mức mất đi khả năng phản kháng bình thường mà sống như một người mất đi linh hồn, sự sống. Thế mới thấy tội ác khủng khiếp của gia đình thống lí, nó không chỉ chà đạp về thể xác mà còn giết dần giết mòn đi sự sống bên trong của con người.

Trong đêm tình mùa xuân, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình, sức sống bên trong Mị đã bắt đầu trỗi dậy sau bao ngày bị bao phủ bởi tro tàn của đau khổ đọa đầy. Chi tiết này cũng thể hiện được tài năng bậc thầy của nhà văn Tô Hoài trong việc miêu tả diễn biến tâm trạng đầy phức tạp của nhân vật Mị. Tiếng sáo đã đánh thức phần sự sống đang le lói cháy bên trong Mị, giúp Mị thức tỉnh và nhận thức được những nhu cầu chính đáng của mình.

Mị nhận ra mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi như bao người phụ nữ khác “Mị còn trẻ, Mị muốn đi chơi, bao nhiêu người có chồng như Mị vẫn đi chơi mùa xuân”. Như vậy sau bao nhiêu ngày sống trong đọa đầy, khi tâm hồn bị tê liệt bởi sự chà đạp của cường quyền, thần quyền thì Mị đã trở lại là chính mình, khao khát thực hiện những nhu cầu thành thực nhất của bản thân. Mị đã uống rượu và nhớ lại những kỉ niệm của ngày xưa.

Khi bị A Sử dùng dây trói đứng vào cột, sự ràng buộc đau đớn của sợi dây cũng không thể ngăn được sứ sống đang cháy trở lại bên trong Mị. Sợi dây có thể trói buộc thân xác của Mị nhưng tâm hồn của Mị đã đi theo tiếng sáo, theo những khát khao tự do của mình.

Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở lại với thân phận con dâu gạt nợ và tiếp tục sống với vẻ lầm lũi cam chịu nhưng ta có thể nhận rõ sự thay đổi bên trong của con người Mị, đã không còn sự cam chịu đến tê liệt như trước mà đã phần nào thức tỉnh, thể hiện trực tiếp qua chi tiết “đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa thổi lửa hơ tay”, chỉ cần có chất “xúc tác” là sẽ bùng cháy dữ dội để giải phóng Mị khỏi cuộc sống khổ đau, nô lệ.

Trong một đêm hơ tay bên bếp lửa, Mị đã nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, và cũng chính giọt nước mắt này đã đánh thức sự đồng cảm bên trong Mị, tạo sức mạnh giúp MỊ vượt qua nỗi sợ hãi cường quyền, thần quyền để giải cứu A Phủ và giải cứu cho chính mình.

Nhìn hình ảnh đáng thương của A Phủ, Mị nhớ lại mình cũng từng bị A Sử trói đứng trước kia đến nỗi nước mắt rơi cũng không lau đi được. Mị cũng nhận thức được nếu vẫn như thế A Phủ sẽ chết “chỉ đêm nay là người kia chết, chết đau, chết rét, chết đói, phải chết”. Sự đồng cảm với A Phủ khiến Mị phẫn nộ trước tội ác kinh khủng của cha con thống lí “chúng trói người ta đến chết”. Mị dùng dao cắt dây cởi trói giải cứu A Phủ, khi A Phủ vụt chạy đi Mị đã chạy theo để tự giải cứu cho mình.

Thông qua diễn biến tâm lí của nhân vật Mị từ khi làm con dâu gạt nợ nhà thống lí cho đến khi cắt dây cởi trói cho A Phủ là hành trình thức tỉnh của sự sống tiềm tàng. Giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ thể hiện ở sự trân trọng giá trị, sức sống tiềm tàng bên trong con người.

Mị sau khi về làm dâu - mẫu 6

Thạch Lam từng nói: “Văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vùa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn”. Nhìn ngẫm lại câu nói ấy, con người ta như càng đến gần hơn với các nhân vật trong các tác phẩm để rồi chiêm nghiệm giá trị mà nó mang lại. Đến với tác phẩm "Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, người đọc càng thêm trân quý tinh thần và khâm phục sức sống tiềm tàng mạnh mẽ của cô Mị. Và trước khi dành một sự ngưỡng mộ ấy cho Mị, có lẽ ai cũng cảm thấy thương cảm cho số phận của cô khi làm dâu nhà thống lí Bá Tra, đặc biệt là khi sức sống của Mị như bị tê liệt nỗi bật qua ngòi bút hiện thực của nhà văn Tô Hoài được thể hiện qua đoạn trích: “Lần lần, mấy năm sau bố Mị chết … Đến bao giờ chết thì thôi…”.

Tô Hoài là một trong số những nhà văn có sức sáng tạo dồi dào bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Với bút lực dồi dào ấy, lại thêm sự am hiểu sâu sắc phong tục tập quán nhiều vùng miền, tinh tế và hóm hỉnh của mình, ông sở hữu cho mình nhiều tác phẩm thành công. Và đặc biệt, ngòi bút của ông luôn hướng về sự quan tâm đến số phận của người lao động.

Vốn thành công với mảng viết truyện dành cho thiếu nhi, nơi đòi hỏi với một lối viết dung dị đầy chất thơ, Tô Hoài lại viết rất xuất sắc tập truyện “Truyện Tây Bắc”, trong đó “Vợ chồng A Phủ” là một thiên tuyệt bút. Vào năm 1952, tác giả đã có chuyến đi thực tế đến vùng núi Tây Bắc, ở đây tác giả được sống hoà nhập với bản làng và người dân. Một năm sau đó, ông đã viết nên “Truyện Tây Bắc” như ông đã tâm sự “Tây Bắc đã để nhớ để thương trong tôi nhiều quá”. Tác phẩm này ra đời như một sự đáp lại ân tình mà ông đã nhận được và “Vợ chồng A Phủ” là một phần trong đó. “Vợ chồng A Phủ” gồm có hai phần: phần đầu là cuộc sống của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, phần sau là cuộc sống của họ ở Phiềng Sa. Cả hai phần cùa truyện đều làm nỗi bật lên chủ để chung của tác phẩm là tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, đồng thời ca ngợi phẩm chất tốt đẹp cảu người lao động và khả năng đổi đời của người lao động. Đoạn trích trên thể hiện sự tê liệt sức sống của Mị nằm trong phần đầu của tập truyện.

Ngay từ đầu tác phẩm, Tô Hoài đã cho người đọc thấy được hình ảnh của một người phụ nữ “ngồi lầm lụi bên tảng đá, cạnh tàu ngựa”. Giữa không khí kẻ ra người vào của nhà thống lí Pá Tra, tưởng là tôi tớ hoá ra lại là con dâu của nhà này. Chỉ bằng chi tiết ấy thôi nhà văn cũng đã dần hé mở cho chúng ta về số phận của người phụ nữ này. Thật ra, Mị vốn là cô gái xinh đẹp, lại có tài thổi sáo, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Những tưởng đây là “tiền đề” thuận lợi để cô có được cuộc sống hạnh phúc như nhiều cô gái khác, nhưng mà cái tội lớn nhất của Mị là nghèo. Sinh ra và lớn lên trong gia đình lao động vất vả, lại thêm món nợ truyền kiếp đeo đuổi. Cái ngày bố lấy mẹ Mị không có tiền phải đi vay của nhà thống lí và đến lúc con gái họ khôn lớn vẫn không thể trả được bởi lãi mẹ đãi lãi con. Cuộc sống của họ chìm trong bóng tối với lắm lo toan.

Vốn là một nhà văn có tấm lòng nhân hậu, "nhà văn phải là nhân đâọ từ trong cốt tủy", Tô Hoài luôn đứng cạnh nỗi đau của những người khốn khó. Ông đã dõi theo bước đường đời của Mị, ngòi bút ấy đã đi sâu vào ngóc ngách tâm hồn để nhận ra bao nỗi niềm. Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, nghèo sẽ dẫn đến khổ và nhục, Mị đã bước vào nhà chúa đất bằng trò lừa gạt qua tập tục cướp vợ. Dù rất gay gắt phản đối nhưng Mị vẫn ngang nhiên bị gắt về cúng trình ma, làm vợ A Sử. Mị đã là con dâu nhà thống lí Pá Tra từ thời khắc ấy - con dâu gạt nợ. Những ngày tháng tăm tối nặng nề đã bắt đầu. Cô phải làm việc quần quật vì bọn chúng muốn vắt kiệt sức lao động của kẻ ăn người ở. Và đã rất nhiều lần Mị muốn tự tử bằng nắm lá ngón trong tay, nhưng vì lòng hiếu thảo với cha, cô đã ngậm ngùi chịu đựng, quay trở lại nhà thống lý.

Con người, nếu sống lâu trong cái khổ, người ta sẽ muốn bứt phá, thay đổi để thoát li khỏi sự nghèo khổ. Tuy nhiên đối với Mị, cô dường như đã “quen với khổ rồi”. Và chính suy nghĩ ấy đã nắm giữ lấy tâm hồn cô, chôn vùi đi tuổi trẻ của cô và cũng vì thế mà cô dần bị tê liệt sức sống. Sau khi bố mất, Mị cũng không nghĩ đến việc tìm cái chết nữa. Cũng có thể thấy được rằng, cô sống mà như đã chết. Thường thì khi khổ quá người ta thường kêu trời than thân trách phận. Đằng này, sống lâu trong nhà thống lí, Mị chịu lắm gian truân nhọc nhằn đến nỗi “Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa” so sánh mình với lũ súc nô kia. Theo thời gian, cô cũng không còn nghĩ ngợi gì đến điều này nữa. Cuộc sống cứ lặp đi lặp lại một cách nhàm chán: "Tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp”. Thậm chí, “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Đọc những dòng văn này, ta càng thêm phẩn nộ trước sự bóc lột trắng trợn, giam cầm cả thể xác lẫn tâm hồn của con người nói chúng và ở đây là người phụ nữ nói riêng. Và chính những cái áp bức này đã làm biến dạng cả tâm hồn của Mị, cô dần mất đi ý niệm về không gian và thời gian, đầu óc lúc nào cũng nghĩ đến việc làm lụng, càng ngày càng ít nói hay nói cách khác cô đã mất đi khả năng giao tiếp của con người. Đến nỗi, nhà văn đã liên tưởng đến hình ảnh cô “ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Đúng thế, Mị cứ lầm lũi câm nín với cái ách hữu hình lẫn vô hình đang đè nặng trên đôi vai gầy guộc khác gì cái mai mà con rùa đã mang.

Không những thế, đời Mị nó không chỉ khổ về thể xác, mà nó còn là cả những đớn đau về một tâm hồn trong hoạt cảnh tù đày. Mị mang danh là vợ A Sử thế nhưng giữa họ không hề có tình yêu, Mị cũng từng có một người yêu, nhưng món nợ của cha mà đứt gánh. Khi về nhà này làm dâu, dường như cuộc đời của Mị chuyển sang hẳn kiếp nô lệ, bị bóc lột không chỉ sức lao động mà con là tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Không gian sống của Mị là một căn buồng có một cái lỗ vuông bằng bàn tay, thật chẳng khác gì cái nhà tù, mà từ đó trông ra “lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”, đời Mị cứ ngồi ở cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi. Phải chăng đây là nhà ngục và chính cô Mị là tù nhân chung thân. Người tù ấy chẳng biết khi nào mưới có thể thoát ra được, hẳn mòn mỏi cho đến lúc chết. Thế nên để chống chọi với đau đớn đang tàn phá tâm hồn và thể xác, Mị bị buộc phải trở nên chai lì một cách bất lực, sống cuộc đời của một con rùa lầm lũi trong xó cửa, cam chịu và bế tắc.

Có thể nói, tài năng của Tô Hoài càng trở nên nỗi bật qua bút pháp hiện thực được ông sủ dụng trong bài. Trong văn học, bút pháp hiện thực là cách thức hành văn, dùng chữ, bố cục, cách sử dụng các phương tiện biểu hiện chân thật nhất cái sự thật tàn khốc trước mắt và đưa vào trong các tác phẩm để tạo thành một hình thức nghệ thuật nào đó. Qua ngòi bút hiện thực của mình, tất cả cuộc sống của con người nơi vùng núi Tây Bắc nói chung hay của Mị nói riêng như hiện lên trước mắt người đọc. Tất cả cái khổ, cái cực, cái tù đày ấy, người dân lao động phải chịu đựng trong một thời gian dài được tác giả miêu tả quá đổi chân thực đến nỗi bi thương. Bằng sự quan sát tinh tế và ngòi bút hiện thực của mình, Tô Hoài đã đi sâu vào tận cùng ý thức và trong đáy sâu tìm thức nhân vật để rồi khắc hoạ nên một cô Mị thật đáng thương nhưng cũng rất đáng phục. Có thể thấy được, bằng tấm lòng, sự am hiểu sâu sắc về cuộc sống của người phụ nữ miền núi và tài năng khắc hoạ tính cách nhân vật của nhà văn, chỉ qua một đoạn văn nhỏ đã đủ khiến người đọc thấu hiểu được nội tâm của Mị. Hơn nữa, cách giới thiệu nhân vật của ông cũng rất gây chú ý, cách kể ngắn gọn cung với lối dẫn tình tiết khéo léo làm cho mạch truyện càng cuốn hút.

Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm thành công không chỉ của Tô Hoài mà còn của cả nền văn học Việt Nam hiện đại viết về đề tài miền núi. Mị là nhân vật đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc bởi cuộc đời đầy giống bão và con người ta như nhận ra thêm một bài học sâu sắc qua những cái tù đày làm tê liệt sức sống của Mị trong đoạn trích trên. Số phận của nhân vật đã gợi được sự thương cảm trong lòng người đọc và cũng gợi lên sự trân trọng đối với những gì họ đang có ở thời điểm hiện tại để biết nâng niu, trân quý giá trị của cuộc sống này hơn.

Mị sau khi về làm dâu - mẫu 7

"Vợ chồng A Phủ" là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Tô Hoài. Truyện ngắn đã thành công khắc họa cuộc sống và vẻ đẹp của bà con nhân dân vùng Tây Bắc. Trong đó, nhân vật Mị đã để lại những ấn tượng vô cùng sâu sắc trong lòng độc giả. Nhà văn đã không chỉ đem đến hình ảnh một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tiềm tàng sức sống mà còn tái hiện chân thực sự bất công mà con người phải chịu đựng khi bọn thực dân, chúa đất nắm quyền.

Mị chính là nạn nhân của những áp bức, bất công trong xã hội xưa. Mang danh con dâu nhà thống lí - một gia đình nổi tiếng giàu có ở vùng nhưng Mị chẳng được hưởng một giây phút sung sướng. Tô Hoài đã miêu tả rất chi tiết những khó khăn, cực nhọc mà Mị phải trải qua: "Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, cũng là con ngựa [...] Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày". Một người con gái trẻ trung, xinh đẹp bao người theo đuổi khi xưa, giờ lại phải sống như người ở, còn chẳng bằng con trâu, con ngựa trong nhà. Ngay đến không gian riêng của Mị cũng chỉ là cái buồng "kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào  trông ra cũng chỉ thấy trắng trắng, không biết là sương hay là nắng". Sự tù túng ấy như ngày ngày vùi dập tâm hồn cô gái. Cuộc sống ngục tù, luôn phải làm việc quần quật, lại còn thường xuyên bị đánh đập đã khiến niềm hi vọng trong lòng Mị dần lụi tắt.

Ngày qua ngày, Mị trở nên chai sạn với nỗi đau: "Ở trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Cô cứ lặp đi lặp lại những công việc nhàm chán một cách máy móc. Khác với người con gái vui tươi, hoạt bát khi xưa, hình ảnh Mị giờ đây chỉ là "một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Chỉ một chi tiết ấy thôi, độc giả cũng thấy được sự bế tắc  trong cuộc sống của Mị. Điều này khiến cho nhân vật ngày một lặng im, bất lực, "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa" và nghĩ rằng mình sẽ mãi bị giam hãm ở chốn này, "đến bao giờ chết thì thôi". Cả khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng vào cột nhà, Mị cũng chẳng mảy may suy nghĩ, vẫn thản nhiên đốt lửa hơ tay. Đây chính là thái độ buông xuôi của con người trước thực tại đau khổ, nghiệt ngã.

Cứ tưởng tâm hồn Mị đã bị vùi sâu vào trong bóng đêm ở chốn ngục tù kia, nhưng thực chất, sức sống vẫn luôn tiềm tàng ở người con gái ấy. Khi mới bị bắt về làm dâu nhà thống lí, Mị thà ăn lá ngón tự tử chứ quyết không muốn bị giam hãm trong ngôi nhà đó. Và trong đêm tình mùa xuân, sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị lại có dịp được bùng phát. Âm thanh tiếng sáo, tiếng chuyện trò, cười đùa vọng từ ngoài vào đã đánh thức kí ức về những ngày xa xưa của Mị. Giờ đây, cô ý thức được rằng bản thân mình vẫn còn đang tồn tại, rằng "Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Cái thực tại nghiệt ngã kia không thể nào giam cầm được tâm hồn Mị. Và Mị không chịu đựng nữa. Một loạt các hành động được Tô Hoài liệt kê: "không nói", "đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng", "Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách". Tất cả đều cho thấy sự thức tỉnh trong tâm hồn tưởng như đã lụi tàn của người con gái Tây Bắc. Sức sống vẫn như một ngọn lửa âm ỉ cháy, chỉ đợi thời cơ để bùng lên dữ dội.

Rồi trong đêm đông lạnh giá, nhìn thấy dòng nước mắt lăn trên má A Phủ, Mị không kìm nổi sự thương xót. Nhớ đến mình cũng đã từng bị trói, từng chịu sự đánh đập, hành hạ, cô bất bình, phẫn uất vô cùng. Biết bao cảm xúc dồn nén giờ đây bộc phát thành hành động. Mị đã cởi trói cho A Phủ rồi cũng vụt chạy đi, thoát khỏi chốn địa ngục trần gian đã giam cầm mình bao lâu nay. Hành động này chính là một sự phản kháng, phá tan xiềng xích, đạp đổ cường quyền áp bức của bè lũ thống trị.

Như vậy, qua hình tượng nhân vật Mị, Tô Hoài đã thể hiện lòng đồng cảm với những con người phải chịu sự bất công, bóc lột. Với ngôn ngữ giản dị cùng cách kể chuyện linh hoạt, ông lên tiếng tố cáo tội ác của bọn thống trị. Đồng thời, ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn cao quý và sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của người dân trên vùng núi Tây Bắc.

Truyện ngắn " Vợ chồng A Phủ" đã mang vô vàn thông điệp ý nghĩa đến với độc giả mọi thế hệ. Với nhân vật Mị, Tô Hoài không chỉ bày tỏ lòng yêu thương, cảm thông và trân  trọng tới bà con đồng bào miền núi. Tuy phải chịu hoàn cảnh khó khăn, bị chèn ép không thương tiếc nhưng họ vẫn sáng lên với niềm tin, khát khao sống mãnh liệt và sức phản kháng tiềm tàng trong sâu thẳm tâm hồn. Nhờ vậy, tác phẩm vẫn còn giữ nguyên được giá trị cho đến tận ngày hôm nay.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học