10+ Nghị luận về 1 tác phẩm văn học (điểm cao)

Nghị luận về 1 tác phẩm văn học điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Nghị luận về 1 tác phẩm văn học (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Nghị luận về 1 tác phẩm văn học

a) Mở bài: Giới thiệu tác phẩm truyện/ tác phẩm kịch (tên tác phẩm, thể loại, tác giả,…); Nêu nội dung khái quát cần phân tích, đánh giá 

b) Thân bài:

+ Tóm tắt nội dung chính của tác phẩm truyện/ tác phẩm kịch

+ Phân tích, đánh giá về chủ đề của truyện sự trên cứ liệu dẫn ra từ tác phẩm 

+ Phân tích đánh giá những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm. Mỗi phân tích, đánh giá đều cần những chi tiết tiêu biểu được dẫn ra từ tác phẩm. 

c) Kết bài: Khái quát nội dung chính đã trình bày ở thân bài, khẳng định giá trị nghệ thuật của tác phẩm, đưa ra một số ý tưởng mở rộng…

Nghị luận về 1 tác phẩm văn học - mẫu 1

Tức cảnh Pác Bó là bài thơ tứ tuyệt do Hồ Chí Minh sáng tác năm 1941, khi Người trở về nước sau hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước. Bài thơ thể hiện tinh thần lạc quan, ung dung của Bác trong hoàn cảnh khó khăn nơi núi rừng Việt Bắc.

Mở đầu bài thơ, Bác phác họa cuộc sống giản dị nhưng đầy chất thơ:

"Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng."

Quảng cáo

Cuộc sống nơi núi rừng Pác Bó thật khắc nghiệt, chỉ có hang đá làm nhà, chỉ có cháo bẹ, rau măng làm thức ăn. Tuy nhiên, từ “vẫn sẵn sàng” cho thấy sự chủ động, tinh thần vui vẻ và thích nghi của Người trước gian khổ.

Hai câu sau thể hiện sự ung dung, tự tại của Bác:

"Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang."

Trên bàn đá đơn sơ, Bác miệt mài nghiên cứu, dịch Lịch sử Đảng, chuẩn bị cho công cuộc đấu tranh giành độc lập. Điều đặc biệt là từ “sang” – một cách nói hài hước, thể hiện tinh thần lạc quan, coi gian khổ là niềm vui, là vinh quang của người chiến sĩ cách mạng.

Bằng thể thơ tứ tuyệt giản dị, súc tích, Hồ Chí Minh đã thể hiện tinh thần thép, lối sống giản dị và ý chí cách mạng kiên cường. Bài thơ để lại bài học sâu sắc về tinh thần lạc quan và ý chí vượt khó, đáng để mỗi người học tập.

Quảng cáo

Nghị luận về 1 tác phẩm văn học - mẫu 2

Trong số những tác phẩm văn học đặc sắc, tôi đặc biệt ấn tượng với truyện ngắn "Chí Phèo" của Nam Cao. Khám phá tác phẩm này không chỉ mang lại cho tôi những cảm xúc sâu sắc từ sự phản ánh chân thực về hiện thực xã hội mà còn đưa tôi vào thế giới độc đáo và sáng tạo của tác giả khi miêu tả tâm lý nhân vật Chí Phèo.

Cách tác giả kể chuyện không chỉ là việc trình bày các sự kiện và diễn biến trong câu chuyện một cách đơn thuần. Thay vào đó, Nam Cao đã áp dụng một cách kể chuyện độc đáo, không chỉ tập trung vào sự kiện mà còn chú trọng vào tâm lý phức tạp của nhân vật, đặc biệt là Chí Phèo - từ quá trình biến đổi sau thời gian ở tù cho đến quá trình hoàn lương và trở thành người lương thiện.

Ngay từ đầu tác phẩm, Nam Cao đã sử dụng một cách kể chuyện đặc biệt để mô tả Chí Phèo khi anh ta say rượu, điều này tạo nên sự độc đáo bằng cách kết hợp lời mô tả của tác giả và lời nội tâm của nhân vật trong những lời chửi. Việc sử dụng lời độc thoại nội tâm giúp độc giả hiểu rõ hơn về tâm trạng của nhân vật và thấy rõ góc nhìn đa chiều của tác giả.

Nam Cao đã mô tả Chí Phèo, một đứa trẻ mồ côi lương thiện, trải qua những thăng trầm từ việc bị bá kiến đẩy vào tù đến việc trở thành kẻ đầy thù hận của làng Vũ Đại. Việc này không chỉ làm nổi bật cốt truyện với các yếu tố làm nên con người nông dân, nông thôn Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh, mà còn làm tăng thêm sự hấp dẫn của tác phẩm.

Quảng cáo

Cao điểm của nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao thực sự là khi ông phân tích quá trình hoàn lương của Chí Phèo thông qua mối quan hệ với Thị Nở. Sự biến đổi của tâm lý Chí Phèo được mô tả một cách chi tiết và phức tạp. Tình yêu và hạnh phúc mà Thị Nở mang lại đã làm cho Chí Phèo nhận thức sâu sắc về cuộc sống. Ông đã vượt qua trạng thái say mê, lắng nghe những âm thanh trong trẻo của cuộc sống, trải qua những cảm xúc từ niềm vui đến nỗi buồn, và mơ ước về một cuộc sống hạnh phúc và bình yên. Chí Phèo thậm chí đã chọn đối mặt với sự thay đổi trong tình yêu và sự chấp nhận sự tàn nhẫn của cuộc sống.

Chí Phèo không chỉ thu hút độc giả bởi cốt truyện độc đáo và chân thực, mà còn là sự khéo léo trong cách tác giả diễn đạt và phân tích tâm lý nhân vật. Tác phẩm này không chỉ là một câu chuyện về nông thôn Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh, mà còn là một bức tranh sâu sắc về lòng nhân ái và sự lương thiện ẩn sau những số phận bất hạnh. Đó là lý do tại sao truyện ngắn Chí Phèo không chỉ được đánh giá cao về khía cạnh nghệ thuật mà còn về sự nhạy bén trong việc phản ánh cuộc sống thực của những con người không may mắn trong xã hội.

Nghị luận về 1 tác phẩm văn học - mẫu 3

Trong lòng mẹ là đoạn trích từ hồi ký Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, tái hiện nỗi đau và tình yêu thương mãnh liệt của bé Hồng dành cho mẹ trong những năm tháng tuổi thơ cay đắng.

Mở đầu đoạn trích, tác giả kể về hoàn cảnh đáng thương của bé Hồng. Cha mất sớm, mẹ vì nghèo khó mà phải tha hương cầu thực, còn cậu bé lại sống trong sự cay nghiệt của họ hàng. Đặc biệt, người cô luôn gieo rắc vào đầu bé những lời nói độc ác về mẹ, khiến cậu bé vô cùng đau đớn. Tuy nhiên, bé Hồng không hề lung lay mà vẫn một lòng yêu thương, tin tưởng mẹ.

Đỉnh điểm cảm xúc là khoảnh khắc bé Hồng được gặp lại mẹ:

"Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi vừa hỏi: “Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ không?”"

Hình ảnh người mẹ hiện lên đầy yêu thương, trìu mến. Bé Hồng lao vào lòng mẹ, khóc nức nở, cảm nhận hơi ấm và tình thương mà cậu khao khát bấy lâu.

Bằng nghệ thuật kể chuyện chân thực, giàu cảm xúc cùng lối viết tinh tế, Trong lòng mẹ đã khắc họa sâu sắc tình mẫu tử thiêng liêng, đồng thời tố cáo những định kiến khắc nghiệt của xã hội phong kiến. Đoạn trích không chỉ làm lay động trái tim người đọc mà còn để lại bài học sâu sắc về lòng yêu thương và sự đồng cảm trong cuộc sống.

Nghị luận về 1 tác phẩm văn học - mẫu 4

Nguyễn Tuân, người được đánh giá là "nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời tìm kiếm cái đẹp," có vị thế quan trọng và ý nghĩa lớn trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Trước cách mạng, ông thoát khỏi hiện thực, hướng về một thời kỳ vang bóng, và tập "Vang bóng một thời" là biểu tượng cho phong cách văn học của ông trước cách mạng. Trong tập này, "Chữ người tử tù" đứng ra như một tác phẩm đại diện, thể hiện rõ phong cách của ông và giá trị nhân văn của tác phẩm.

"Chữ người tử tù" xuất hiện trong tập "Vang bóng một thời," được xuất bản năm 1940. Tác phẩm, khi lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Tao đàn với tựa đề "Dòng chữ cuối cùng," sau đó được in thành sách với tựa đề "Chữ người tử tù." Tác phẩm này chứa đựng đầy đủ tinh thần của Nguyễn Tuân, cũng như giá trị nhân văn của nó. "Chữ" là biểu tượng của cái đẹp và sự sáng tạo, cần phải được tôn vinh và khen ngợi. "Người tử tù" đại diện cho cái xấu và cái ác, cần phải bị loại bỏ khỏi xã hội. Từ tiêu đề, tác giả đã tạo ra mâu thuẫn, gợi lên tình huống truyện éo le, kích thích sự tò mò của độc giả, và thông qua đó, làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc sống.

Tác phẩm có tình huống gặp gỡ độc đáo, diễn ra trong bối cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng nhưng không gặp thời. Địa vị xã hội của hai nhân vật đối nghịch nhau. Huấn Cao, kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Ngược lại, quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho luật lệ và trật tự xã hội. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo ngược hoàn toàn: Huấn Cao là người tài năng viết thư pháp, sáng tạo ra cái đẹp, trong khi quản ngục lại yêu thương và trân trọng cái đẹp. Điều này tạo nên mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó giữa họ. Với tình huống truyện độc đáo, tác giả đã giúp câu chuyện phát triển một cách hợp lý và logic, đẩy đến cao trào, từ đó làm nổi bật chủ đề: Sự bất tử của cái đẹp, chiến thắng của cái đẹp, và sức mạnh cảm hóa của nó.

Một điểm nổi bật trong tác phẩm là Huấn Cao, người có tài năng viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi. Cái tài của ông không chỉ là đẹp ở mức độ bình thường, mà đã đạt đến mức độ phi thường, siêu phàm. Vẻ đẹp của Huấn Cao không chỉ là vẻ đẹp của tài năng, mà còn là vẻ đẹp của tính thiêng liêng: ông tôn trọng từng nét chữ mà mình viết ra, coi chúng như những món quà từ thượng đế để trao cho thế gian. Ông không viết chữ để vì uy quyền, mà chỉ trao chữ cho những tấm lòng trong thiên hạ. Tấm lòng thiêng liêng của Huấn Cao còn thể hiện khi ông đồng ý cho viên quản ngục xin chữ, tặng cho ông một tấm lòng quý giá trong xã hội tàn nhẫn.

Viên quản ngục, người sống trong môi trường tù tội, có tính cách dịu dàng và biết trọng những người ngay thẳng. Nhân cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống trong tù, nơi đầy tàn nhẫn và lừa lọc. Viên quản ngục tỏ ra nhạy bén với vẻ đẹp, tình cảm cao đẹp của Huấn Cao, và trong những giây phút cuối đời, ông tổ chức một đêm xin chữ với tâm huyết để có được nét chữ của Huấn Cao. Ba nhân vật - Huấn Cao, viên quản ngục, và người tử tù, tất cả đều mang trong mình một vẻ đẹp riêng, và tác phẩm đã tạo ra sự hòa quyện, sáng tạo ra không khí cổ xưa với nhịp điệu câu văn chậm và thong thả.

Tác phẩm "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân không chỉ là một câu chuyện về chiến thắng của cái đẹp trước cái xấu, mà còn là sự biểu hiện của lòng trân trọng văn hóa truyền thống, sự kiêu hãnh dựa trên giá trị của nghệ thuật và cái đẹp. Sự độc đáo của tình huống truyện, kỹ thuật xây dựng nhân vật tinh tế, và ngôn ngữ tài hoa đều làm cho tác phẩm trở nên thành công và sâu sắc.

Nghị luận về 1 tác phẩm văn học - mẫu 5

Để một tác phẩm văn học trở nên ấn tượng và thành công, nhiều yếu tố đóng góp vào sự thành công đó, bao gồm nội dung, nghệ thuật sáng tạo, và giá trị nhân văn mà tác phẩm mang lại. Trong số những yếu tố quan trọng đó, cách xây dựng tình huống truyện đóng vai trò quan trọng. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp của tác phẩm "Vợ Nhặt" của nhà văn Kim Lân.

Tác phẩm này tập trung mô tả cuộc sống khó khăn và nghèo đói của nhân dân Việt Nam vào những năm 1945. Nhân vật chính, Tràng, là một người đàn ông nghèo đói sống cùng mẹ. Kim Lân mô tả Tràng với những đặc điểm xấu xí và đầy cảm xúc "hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt bặm lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn."

Cuộc sống khó khăn của Tràng và mẹ được mô tả chân thực qua các đoạn văn miêu tả "những búi cỏ dại lổn nhổn," "đống quần áo rách vắt khươm mươi niên trong một góc nhà," và "hai cái ang nước để khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi." Tác giả đã tận dụng từ ngôn ngữ sinh động để làm nổi bật sự giản dị và đau lòng của cuộc sống này, khiến độc giả không thể không cảm thấy đồng cảm và xót thương đối với những số phận khốn khổ này.

Một phần quan trọng của cốt truyện là công việc phu xe của Tràng, nơi anh ta vui vẻ và lạc quan giữa cảnh đói khát và vất vả. Câu hò như "Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì" không chỉ là cách giải tỏa mệt mỏi, đói khát mà còn là cơ hội để Tràng gặp được Thị, người con gái mang theo sự thay đổi lớn trong cuộc sống của anh.

Thực tế, cách mà Thị đã thay đổi từ một người phụ nữ đói khát thành một người vợ có hạnh phúc đã làm cho cốt truyện trở nên độc đáo và hấp dẫn. Tình huống này không chỉ thách thức quan điểm về vẻ ngoại hình và vị trí xã hội, mà còn làm nổi bật lòng nhân ái và sự kiên nhẫn trong tình yêu.

Cuộc sống hôn nhân của Tràng và Thị được mô tả trong bối cảnh đặc biệt, với sự ngạc nhiên và châm biếm từ xã hội xung quanh. Mọi người đứng ngưỡng cửa, bàn tán khi Tràng dẫn Thị về nhà, thể hiện sự ngạc nhiên và chấp nhận khó khăn của gia đình Tràng.

Tác phẩm "Vợ Nhặt" không chỉ là một câu chuyện về cuộc sống khó khăn mà còn là một bức tranh về lòng nhân ái và sự kiên nhẫn trong tình yêu giữa hai con người nghèo đói. Kim Lân đã thành công trong việc xây dựng một tình huống truyện độc đáo, thách thức quan niệm xã hội và làm tôn lên những giá trị nhân văn sâu sắc.

Nghị luận về 1 tác phẩm văn học - mẫu 6

Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông thường sáng tác về người nông dân và cuộc sống thôn quê với những nét đặc trưng, giản dị mà đầy chân thật. "Làng" là một trong những truyện ngắn nổi tiếng của Kim Lân, được viết trong bối cảnh kháng chiến chống Pháp, tác phẩm đã khắc họa sâu sắc tình yêu làng và lòng yêu nước của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là nhân vật ông Hai.

Truyện ngắn "Làng" xoay quanh tâm trạng của ông Hai, một người nông dân yêu làng Chợ Dầu tha thiết. Khi phải rời làng đi tản cư, ông Hai luôn nhớ về quê hương, nhớ từng con đường, ngôi nhà, cảnh vật và đặc biệt là những con người gắn bó với cuộc đời ông. Lòng yêu làng của ông còn được thể hiện rõ qua những câu chuyện ông kể cho mọi người, niềm tự hào khi nhắc đến những người con của làng Chợ Dầu anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm.

Đỉnh điểm của câu chuyện là khi ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc. Ông đau đớn, hụt hẫng, không dám tin vào sự thật ấy. Lòng ông trĩu nặng với cảm giác tủi hổ, nhục nhã và đau đớn, như thể niềm tự hào cả đời đã bị chà đạp. Ông Hai dường như muốn lẩn tránh mọi người, lo sợ họ sẽ biết rằng quê hương của ông đã đi theo giặc. Những câu văn miêu tả nội tâm nhân vật lúc bấy giờ của Kim Lân vừa sắc sảo vừa chân thật, khiến người đọc cảm nhận rõ nỗi đau khổ, sự giằng xé và lòng trung thành không gì có thể lay chuyển của ông Hai.

Điều này càng thể hiện rõ khi ông Hai đứng trước sự lựa chọn làng hoặc nước. Ông Hai nhận ra, yêu làng nhưng cũng cần yêu nước. Bởi chỉ có lòng yêu nước mới là lý tưởng cao đẹp, là nền tảng cho lòng yêu làng của mình. Quyết định cuối cùng của ông Hai đã khẳng định tấm lòng thủy chung với cách mạng, ông không màng đến sự thiệt thòi của bản thân, chỉ mong "cách mạng còn làng".

Qua đó, tác phẩm "Làng" đã khắc họa thành công bức chân dung của người nông dân trong thời kháng chiến chống Pháp. Tình yêu làng của họ là thứ tình cảm rất đặc biệt: vừa gần gũi, giản dị nhưng cũng rất cao cả, thiêng liêng. Qua nhân vật ông Hai, Kim Lân đã truyền tải thông điệp rằng: lòng yêu làng phải đi đôi với lòng yêu nước, chỉ khi đất nước độc lập, yên bình thì làng mới có thể yên ổn và phát triển.

Bằng giọng văn chân thật, gần gũi, lối kể chuyện mộc mạc nhưng sâu sắc, Kim Lân đã tạo nên một tác phẩm giàu ý nghĩa, thấm đượm lòng yêu nước. Truyện ngắn "Làng" không chỉ là một bức tranh về cuộc sống làng quê Việt Nam thời kháng chiến, mà còn là một lời khẳng định về sức mạnh tinh thần của người dân, về lòng trung thành tuyệt đối với quê hương, đất nước.

Nghị luận về 1 tác phẩm văn học - mẫu 7

Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn nổi tiếng của văn học hiện đại Việt Nam, đặc biệt thành công với những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh và cuộc sống người dân Nam Bộ. Tác phẩm "Chiếc lược ngà" là một trong những truyện ngắn nổi bật nhất của ông, kể về tình cảm gia đình trong bối cảnh chiến tranh tàn khốc, cụ thể là tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Qua câu chuyện đầy cảm động này, nhà văn đã làm nổi bật lên tình yêu thương thiêng liêng và sâu sắc của người cha dành cho con, dù chiến tranh và cách biệt đã gây ra nhiều khó khăn và tổn thương.

Truyện mở đầu với hình ảnh ông Sáu – một chiến sĩ kháng chiến ở xa nhà đã lâu, khao khát được gặp lại con gái là bé Thu. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ lại diễn ra trong một tình huống đầy trớ trêu. Bé Thu – vì không nhận ra người cha mà mình chưa gặp bao giờ, lại có vết sẹo lớn trên mặt – đã xa lánh, từ chối và thậm chí có những hành động phản kháng với ông Sáu. Những ngày ông Sáu ở nhà, bé Thu nhất định không gọi ông là ba, khiến ông đau lòng và bất lực. Nhưng đằng sau sự bướng bỉnh, bé Thu cũng mang trong lòng niềm mong mỏi, yêu thương cha sâu đậm, chỉ là nó chưa có cơ hội bộc lộ.

Cao trào của câu chuyện là khoảnh khắc bé Thu gọi tiếng “ba” khi ông Sáu phải lên đường trở lại chiến trường. Tiếng “ba” đột ngột, mãnh liệt vang lên trong những giây phút cuối cùng trước khi ông Sáu phải đi xa, làm bật lên những giọt nước mắt của người cha. Tình cảm cha con sâu sắc bị gián đoạn đã khiến tiếng gọi ấy trở thành một khoảnh khắc đáng nhớ, khắc sâu vào tâm hồn ông Sáu, đồng thời cũng là một nỗi ám ảnh đẹp đẽ cho bé Thu.

Trong khoảng thời gian ở chiến khu, hình ảnh con gái với tiếng gọi thân thương cứ mãi khắc khoải trong lòng ông Sáu, thôi thúc ông làm một món quà đặc biệt cho con. Ông dành mọi tâm huyết của mình để tạc một chiếc lược ngà, một món quà giản dị nhưng chứa đầy tình cảm và sự yêu thương. Những dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” được ông khắc lên cây lược là minh chứng cho tình yêu của ông với con gái, cũng như một niềm hy vọng nhỏ bé mà ông mang theo bên mình. Chiếc lược không chỉ là vật kỷ niệm mà còn là biểu tượng của tình phụ tử thiêng liêng trong hoàn cảnh nghiệt ngã của chiến tranh.

Cuối cùng, ông Sáu không thể trao chiếc lược cho bé Thu. Ông hy sinh khi chiến tranh còn chưa kết thúc, để lại chiếc lược như một di vật cuối cùng cho đồng đội gửi lại cho con. Hình ảnh người cha hy sinh khi chưa thể hoàn thành ước nguyện nhỏ nhoi đã để lại trong lòng người đọc một niềm xúc động sâu sắc. Chiếc lược ngà giờ đây trở thành biểu tượng của tình cha con vượt qua mọi khoảng cách không gian và thời gian, cũng là lời nhắn nhủ của nhà văn về sự trân quý của tình cảm gia đình.

Nguyễn Quang Sáng đã sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giàu cảm xúc và lối kể chuyện giản dị nhưng sâu sắc để tái hiện một tình cảm gia đình đẹp đẽ mà bi thương. Qua hình tượng ông Sáu và bé Thu, nhà văn đã khắc họa tình phụ tử trong chiến tranh, gợi lên trong lòng người đọc niềm thương cảm sâu sắc và sự trân trọng đối với những giá trị gia đình giản dị nhưng thiêng liêng. Câu chuyện về chiếc lược ngà giúp ta hiểu thêm về những mất mát mà chiến tranh mang lại, đồng thời cảm nhận sâu sắc tình cảm gia đình và sự hy sinh vô điều kiện của những người lính, những người cha dành cho con cái.

Nghị luận về 1 tác phẩm văn học - mẫu 8

“Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu là một trong những tác phẩm thơ nổi bật nhất trong nền văn học cách mạng Việt Nam. Được sáng tác năm 1948, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp gian khổ, bài thơ là một bức chân dung cảm động về tình đồng chí, đồng đội giữa những người lính, những con người bình dị nhưng tràn đầy lòng yêu nước và tinh thần hy sinh. Chính Hữu đã khắc họa một cách giản dị và chân thực vẻ đẹp tình đồng chí giữa những người lính, khiến người đọc cảm nhận được sự thiêng liêng và cao quý của tình cảm này.

Ngay từ câu thơ mở đầu, Chính Hữu đã đưa ra một khái niệm đặc biệt: "Đồng chí!" Đó không chỉ là cách gọi thông thường giữa những người lính mà còn là một từ đầy ý nghĩa, tượng trưng cho sự gắn bó, sự đồng lòng và tình cảm chân thành giữa những người chiến đấu bên nhau. Những người lính trong bài thơ là những con người giản dị, xuất thân từ nông thôn, từng “quê hương anh nước mặn, đồng chua / làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.” Họ đến từ những vùng đất nghèo khó khác nhau nhưng cùng chung lý tưởng và niềm tin yêu tổ quốc, họ gặp nhau và trở thành đồng chí, đồng đội, cùng chung vai sát cánh trong cuộc chiến khốc liệt.

Hình ảnh "đôi người xa lạ" trở thành "đôi tri kỉ" và rồi là "đồng chí" đã thể hiện một cách sâu sắc quá trình gắn bó của những người lính. Tình đồng chí nảy nở từ những khó khăn, gian khổ của cuộc sống chiến đấu, từ sự chia sẻ những thiếu thốn và khó khăn. Những câu thơ tiếp theo thể hiện rõ sự chia sẻ đó:

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày”

Những câu thơ bình dị, mộc mạc đã phơi bày cuộc sống thiếu thốn, khắc nghiệt của người lính nơi chiến trường. Áo rách, quần vá, những ngày đông giá lạnh mà vẫn mỉm cười – tất cả là hình ảnh chân thực của những người lính vừa gian khó vừa kiên cường. Họ chịu đựng cái lạnh, vượt qua mọi khó khăn không phải một mình mà là cùng nhau, giúp đỡ và san sẻ, thể hiện rõ nét tình đồng chí thiêng liêng.

Khổ thơ cuối khép lại bằng một hình ảnh ấn tượng và giàu ý nghĩa:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Khung cảnh đêm rừng hoang vu lạnh lẽo càng làm nổi bật sự quyết tâm và tinh thần thép của người lính. Họ đứng cạnh bên nhau trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, tạo nên một hình ảnh kiên cường, không khuất phục trước mọi khó khăn. Cụm từ “đầu súng trăng treo” là hình ảnh thơ độc đáo, gợi lên vẻ đẹp thơ mộng và sự bình dị ngay trong không khí khốc liệt của chiến tranh. Vầng trăng treo lơ lửng nơi đầu súng mang ý nghĩa biểu tượng, vừa thể hiện sự cao cả của lý tưởng chiến đấu, vừa nói lên khát vọng hòa bình của những người lính.

Như vậy, “Đồng chí” của Chính Hữu không chỉ khắc họa hình ảnh chân thực về cuộc sống của người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp, mà còn làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chí – tình cảm đặc biệt đã giúp người lính vượt qua những khó khăn, thử thách của chiến tranh. Bài thơ là một khúc ca về tình người trong thời chiến, về tình đồng chí bền chặt và thiêng liêng của những con người có chung lý tưởng.

Bằng ngôn ngữ giản dị, trong sáng, những câu thơ không cầu kỳ nhưng mang sức gợi lớn, Chính Hữu đã tạo nên một bài thơ vừa chân thực vừa giàu cảm xúc. “Đồng chí” không chỉ là bức chân dung của những người lính Việt Nam trong kháng chiến mà còn là biểu tượng của tình người, của ý chí kiên cường, của tinh thần đoàn kết. Bài thơ đã để lại trong lòng người đọc sự xúc động và trân trọng trước tình đồng chí cao đẹp – một trong những giá trị thiêng liêng của dân tộc Việt Nam

Nghị luận về 1 tác phẩm văn học - mẫu 9

Văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930-1945 đã ghi dấu ấn sâu đậm với những tác phẩm phản ánh chân thực số phận con người trong xã hội cũ. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất chính là Lão Hạc của Nam Cao. Với nội dung cảm động và nghệ thuật đặc sắc, truyện ngắn này không chỉ tố cáo hiện thực tàn khốc mà còn thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn đối với những con người nghèo khổ.

Lão Hạc kể về cuộc đời của một lão nông nghèo khổ, sống cô độc trong làng quê Việt Nam xưa. Lão có một cậu con trai nhưng vì không đủ tiền cưới vợ, anh bỏ đi làm phu đồn điền. Ở nhà, lão Hạc chỉ có con chó Vàng – kỷ vật của con trai – làm bầu bạn. Nhưng rồi vì quá túng quẫn, lão đành bán con chó trong đau đớn. Sau đó, lão sống nhờ vào sự giúp đỡ của ông giáo, nhưng cuối cùng lại chọn cái chết bằng bả chó để giữ lại chút danh dự và không làm phiền ai.

Trước hết, tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống khốn khổ của người nông dân trước Cách mạng Tháng Tám. Lão Hạc là đại diện cho những người nghèo không lối thoát, bị cái đói, cái nghèo và những định kiến xã hội dồn ép đến đường cùng. Quyết định bán chó và cái chết đầy đau đớn của lão là kết cục bi thảm nhưng cũng là một cách để lão giữ trọn nhân cách của mình.

Bên cạnh đó, truyện thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc. Nam Cao không chỉ thương cảm trước số phận bi kịch của người nông dân mà còn trân trọng phẩm chất đáng quý của họ. Lão Hạc dù nghèo nhưng vẫn giàu lòng tự trọng, không muốn làm phiền người khác. Tình cảm cha con của lão cũng vô cùng thiêng liêng khi lão dành dụm từng đồng cho con trai.

Về nghệ thuật, Lão Hạc là một truyện ngắn xuất sắc với cách kể chuyện linh hoạt, kết hợp giữa lời kể của nhân vật ông giáo và lời thoại của lão Hạc. Ngôn ngữ mộc mạc, chân thực giúp truyện dễ đi vào lòng người. Đặc biệt, Nam Cao đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh ẩn dụ “cái chết của lão Hạc” như một lời tố cáo xã hội bất công đẩy người lương thiện vào đường cùng.

Lão Hạc không chỉ là câu chuyện về một con người mà còn là câu chuyện về cả một tầng lớp trong xã hội. Qua đó, Nam Cao đã thể hiện tấm lòng xót thương đối với người nông dân, đồng thời lên án xã hội phong kiến bất công. Dù ra đời từ rất lâu, nhưng tác phẩm vẫn để lại những bài học sâu sắc về nhân cách, tình cha con và lòng tự trọng, khiến người đọc không thể nào quên.

Nghị luận về 1 tác phẩm văn học - mẫu 10

Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, bên cạnh những tác phẩm thơ văn nổi tiếng của cụ Nguyễn Đình Chiểu như: Ngư tiều y thuật vấn đáp, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh… thì truyện thơ Lục Vân Tiên là một tác phẩm lớn của nền văn học Việt Nam, có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa dân gian các tỉnh phía Nam.

Đây là tác phẩm được cụ Đồ Chiểu viết trước khi Pháp xâm lược đất nước ta. Tác phẩm có tổng 2.075 câu thơ với hình thức truyện kể văn vần (hay còn gọi là truyện thơ) cùng nhiều hình tượng nghệ thuật đẹp trong văn chương đã được nhân dân đón nhận, yêu thích. Trong đó, nhân vật nam chính của tác phẩm là người hết mực hiếu thảo, nêu cao lý tưởng, dũng cảm đánh cướp Phong Lai cứu dân, đánh giặc Ô Qua cứu nước. Nhân vật nữ chính Kiều Nguyệt Nga, là cô gái thủy chung son sắt với Lục Vân Tiên theo quan điểm lấy chữ nghĩa làm gốc. Các nhà nghiên cứu nhận định, tác phẩm có sức sống rất lớn trong đời sống tinh thần của nhiều thế hệ người Việt Nam, nhất là người dân Nam Bộ.

Tác phẩm Lục Vân Tiên đã thể hiện tư tưởng của cụ Nguyễn Đình Chiểu. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm không chỉ là gửi gắm niềm khát vọng, lý tưởng sống, mục đích sống, ý chí sống to lớn của cụ Nguyễn Đình Chiểu mà còn phản ánh cuộc đời của cụ. Thông qua các tuyến nhân vật, cụ đã phê phán mạnh mẽ những xấu xa của xã hội.

Những câu thơ quen thuộc trong tác phẩm Lục Vân Tiên đã đi vào lòng nhiều thế hệ như: “Trước đèn xem chuyện Tây Minh/ Gẫm cười hai chữ “nhơn tình” éo le/ Hỡi ai, lẳng lặng mà nghe/ Giữ răn việc trước, lành dè thân sau/ Trai thì trung hiếu làm đầu/ Gái thì tiết hạnh làm câu trau mình…”.

Tác phẩm truyện thơ Lục Vân Tiên là một tác phẩm độc đáo “có một không hai” trong số những truyện thơ ở Việt Nam. Cụ đã tiếp thu được những tinh hoa của văn hóa dân gian từ cách cảm, cách nghĩ đến lời ăn tiếng nói của người dân lao động nên khi chuyển tải vào tác phẩm Lục Vân Tiên, tác phẩm đã trở nên gần gũi với dân gian và sớm được nhân dân khai thác như nguồn chất liệu cho dân ca.

Tác phẩm Lục Vân Tiên không chỉ được xuất bản ở nhiều giai đoạn, mà còn được đưa vào dưới dạng đờn ca tài tử, với hình thức “ca ra bộ” đầu tiên của hình thức đờn ca tài tử, là một bước đệm để xây dựng nghệ thuật sân khấu cải lương. Đặc biệt, từ tác phẩm Lục Vân Tiên đã cho ra đời loại hình diễn xướng Nói thơ Vân Tiên.

Hình thức diễn xướng Nói thơ Vân Tiên trên vùng đất Bến Tre đã lan tỏa và có mặt trong một không gian rộng lớn cho thấy rằng, tác phẩm truyện thơ Lục Vân Tiên có một giá trị rất sâu sắc trong đời sống cộng đồng. “Nói thơ Vân Tiên” hiện vẫn còn được lưu giữ trong ký ức của nhiều người lớn tuổi và được truyền dạy cho các thế hệ trẻ về sau.

Thế hệ trẻ sẽ tiếp tục gìn giữ, kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của Bến Tre, trong đó, cần phát huy loại hình diễn xướng Nói thơ Vân Tiên phù hợp với điều kiện hiện nay như: trong sinh hoạt đoàn thể, trong giao lưu, trong các cuộc thi diễn…

Để tuyên truyền về các tác phẩm thơ văn của cụ Đồ Chiểu, nhất là truyện thơ Lục Vân Tiên, Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh nhiều tỉnh thành trên cả nước đã nhiều năm tổ chức Liên hoan Đờn ca tài tử và Hội thi hóa trang Lục Vân Tiên - Kiều Nguyệt Nga. Trong đó, có trình diễn lại truyện thơ Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đã có những định hướng về nội dung này. Bên cạnh những hoạt động nghiên cứu, dự kiến sẽ có lớp tập huấn cho các đối tượng như: học sinh, sinh viên, công nhân, viên chức, lao động, hướng dẫn viên và những người hoạt động trong hoạt động du lịch…

Truyện thơ Lục Vân Tiên đã trở thành tác phẩm quen thuộc trong các tầng lớp nhân dân cả xưa và nay, có thể ít người nhớ hết trọn vẹn truyện thơ nhưng các tuyến nhân vật như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga… đã đi sâu vào tâm thức của nhiều thế hệ, và nhiều người vẫn nhớ vài đoạn thơ trong số ấy: “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi/ Làm người thế ấy cũng phi anh hùng...”.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học