Giới thiệu về Nguyễn Tuân (chi tiết, ngắn gọn)
Tổng hợp Giới thiệu về Nguyễn Tuân hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
Giới thiệu về Nguyễn Tuân (chi tiết, ngắn gọn)
Bài giảng: Người lái đò sông đà - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Đề bài: Giới thiệu một vài nét về nhà văn Nguyễn Tuân và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
Dàn ý Giới thiệu về Nguyễn Tuân
a) Mở bài: Giới thiệu về tác giả Nguyễn Tuân.
b) Thân bài:
- Vài nét cuộc đời và sự nghiệp:
+ Năm sinh năm mất.
+ Quê quán, gia đình.
+ Những biến chuyển trong cuộc đời.
- Một số các đóng góp văn học:
+ Đóng góp cho nền văn học nước nhà.
+ Một vài các tác phẩm nổi tiếng.
+ Các thể loại sáng tác.
+ Chức danh được công nhận.
c) Kết bài:
+ Sáng tác các tác phẩm văn học giá trị cho nước nhà.
+ Tác giả là tác giả xứng đáng được ca ngợi, tôn vinh.
Giới thiệu về Nguyễn Tuân - mẫu 1
Nguyễn Tuân là cây bút tiêu biểu nhất của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Nguyễn Tuân "là một cái định nghĩa về người nghệ sĩ" như có người đã nói thế. Vẻ đẹp văn chương, dấu ấn về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện trên những kiệt tác văn chương như "Vang bóng một thời" (1940), "Sông Đà" (1960), "Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi" (1972), "Tờ hoa" (1966), v.v...
Về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, sách Văn 12 có viết: "Nguyễn Tuân có phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc. Phong cách ấy, trước hết có thể thâu tóm trong mấy chữ phóng túng, tài hoa và uyên bác".
Cái nhìn của Nguyễn Tuân mang tính phát hiện độc đáo đối với thế giới khách quan, tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống, cái đẹp tài hoa, phi thường, cái đẹp ở phương tiện văn hoá, mĩ thuật, Cách uống trà, thưởng lan, cách thả thơ của người xưa ("Vang bóng một thời"), con sông Đà và người lái đò "tay lái ra hoa" (Sông Đà), cái độn tóc chị Hoài "đổ tung xuống như một trận mưa rào đen nhánh" ("Tóc chị Hoài" v.v... đã được ông nói đến một cách tài hoa, hấp dẫn.
Người ta hay nói "chủ nghĩa xê dịch" của Nguyễn Tuân. Thật ra đó là cách sống sáng tạo của riêng ông mà ông gọi là đi và viết, để "thay đổi thực đơn cho giác quan". Quá khứ, hiện tại và tương lai, không gian và thời gian đã liên kết thành tuyến, thành mảng trên trang văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp thẩm mĩ, đem đến nhiều liên tưởng, ấn tượng kì thú cho người đọc. Những tính cách phi thường (Huấn Cao, Người lái đò Sông Đà),những tình cảm, cảm giác mãnh liệt của những phong cách tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao, rừng thiêng, ghềnh thác dữ dội (cảnh mặt trời mọc ở ngoài đảo Cô Tô, đỉnh núi Phan-xi-păng với hoa đỗ quyên năm sắc rực rỡ, với cây trúc như cái phất trần, là con sông tuyến Hiền Lương, là con Sông Đà "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình...", là tiếng thác rống lên như tiếng rống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn trong rừng cháy,v.v...).
Văn Nguyễn Tuân rất uyên bác, độc đáo. Các kiến thức về văn hoá, địa lí, lịch sử, phong tục, những miền quê, những vùng đất... được ông kể rất đậm đà, duyên dáng. Ông là bậc thầy về ngôn ngữ văn chương: giàu có, sáng tạo.
Nói đến phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân là nói đến tuỳ bút, những trang văn xuôi đầy chất thơ của một tâm hồn nghệ sĩ, của một cây bút tài hoa, uyẻn bác, phóng túng, độc đáo hiếm có.
Giới thiệu về Nguyễn Tuân - mẫu 2
Nguyễn Tuân (1910-1987) là nhà văn lãng mạn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam, một cây bút tiên phong của nền văn học mới. Con người và sự nghiệp văn học Nguyễn Tuân với những nét phong cách nổi bật tài hoa, uyên bác đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả.
Nguyễn Tuân quê ở Nhân Mục, thôn Thượng Đình, nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân Hà Nội. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. Thân sinh của Nguyễn Tuân là cụ Nguyễn An Lan, tú tài khoa thi Hán học cuối cùng. Một nhà nho tài hoa bất đắc chí có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng và phong cách Nguyễn Tuân.
Ông học đến cuối bậc thành chung thì bị đuổi vì tham gia cuộc bãi khoá phản đối mấy giáo viên người Pháp nói xấu người Việt Nam. Năm 1930, do “xê dịch” không có giấy phép qua Lào sang Thái Lan, ông bị tù. Ra tù, ông bắt đầu nghiệp cầm bút bằng việc viết báo, viết văn. Nhưng ông chỉ thực sự nổi tiếng từ năm 1938 với các tác phẩm Một chuyến đi, Vang bóng một thời. Năm 1941, ông lại bị bắt giam vì giao du với những người hoạt động chính trị. Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân trở thành một cây bút tiêu biểu hết lòng phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến, giữ chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam từ 1948-1958. Ông mất ngày 28/7/1987 tại Hà Nội. Với những đóng góp to lớn và có giá trị cho nền văn học nước nhà, năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật.
Con người Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Ông yêu tiếng mẹ đẻ, trân trọng những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc, những kiệt tác văn chương trung đại, những lời ca tiếng hát của mỗi miền quê, các món ăn truyền thống, dân dã. Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Với ông, viết văn là để thể hiện cái tôi một cách kì cùng. Con người ông rất mực tài hoa, uyên bác, thông hiểu sâu sắc nhiều ngành khoa học và nghệ thuật. Ông cũng là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình, coi nghệ thuật là một hình thái lao động cực kì nghiêm túc, thậm chí nghệ thuật là một sự khổ hạnh (những đứa con hoang). Những đặc điểm ấy về con người Nguyễn Tuân có ảnh hưởng lớn đến phong cách nghệ thuật của ông.
Nguyễn Tuân thử bút ở nhiều thể loại truyện ngắn hiện thực trào phúng, thơ, nhưng mãi đến đầu năm 1938 mới nhận ra sở trường của mình và thành công với: Một chuyến đi (1938); Thiếu quê hương (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941). Sự nghiệp của ông có thể chia làm hai chặng khá rõ rệt trước và sau Cách mạng tháng Tám từ một nhà văn lãng mạn chuyển thành nhà văn cách mạng.
Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân sáng tác xung quanh ba đề tài chính.
“Chủ nghĩa xê dịch” thể hiện cái tôi lãng tử của nhà văn theo bước chân qua những miền quê để đi tìm cảm giác mới lạ, “thay thực đơn cho các giác quan”. Tuy Nguyễn Tuân tìm đến với chủ nghĩa xê dịch “như một phản ứng bất lực trước thời cuộc nhưng với đề tài này, ông đã thể hiện được những cảnh sắc và phong vị quê hương đất nước bằng một ngòi bút đầy trìu mến và tài hoa, qua đó nhà văn bày tỏ được tấm lòng yêu nước thiết tha trong tác phẩm của mình: Một chuyến đi, “Thiếu quê hương…”.
Ở đề tài “vang bóng một thời”, nhà văn đi tìm và làm sống lại vẻ đẹp riêng của một thời xưa cũ với những phong tục văn hóa, những thú tiêu dao lành mạnh, tao nhã, gắn với những con người thuộc lớp nhà nho tài hoa bất đắc chí. Những sáng tác này thể hiện một cách kín đáo và ý nhị tấm lòng yêu mến, trân trọng những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc. Tác phẩm chính là tập truyện ngắn Vang bóng một thời.
Đề tài đời sống tâm trạng bi quan của một cái tôi hoang mang, bế tắc, tìm cách thoát li trong đàn hát, trong rượu và thuốc phiện, qua đó ta thấy được tâm trạng khủng hoảng của lớp thanh niên đương thời. Nhưng đôi khi ở đó vẫn vút lên “niềm khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao, được nâng đỡ trên đôi cánh của nghệ thuật”. Tác phẩm chính là Chiếc lư đồng mắt cua, Tàn đèn dầu lạc.
Sau Cách mạng, lòng yêu nước và sự bất mãn với chế độ thực dân đã đưa Nguyễn Tuân đến với Cách mạng và kháng chiến. Sáng tác của ông trong thời kỳ này tập trung phản ánh hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân anh hùng, tài hoa trong chiến đấu và sản xuất. Tác phẩm Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (1972), Sông Đà (1960).
Dù ở giai đoạn nào, Nguyễn Tuân cũng có một phong cách nghệ thuật độc đáo mà biểu hiện chính là sự tài hoa, uyên bác.
Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân được biết đến như là một nhà văn duy mĩ. Ông trân trọng và đề cao cái đẹp. Với ông, cái đẹp chỉ tồn tại trong một thời xưa cũ, do vậy, ông đi tìm và làm sống dậy cái đẹp của thời xưa và phê phán, chối bỏ xã hội trên phương diện văn hóa. Nguyễn Tuân quan niệm xã hội đương thời là “xã hội cơ khí giết chết cái đẹp”. Ông cũng nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ, tập trung miêu tả những nhà nho tài hoa bất đắc chí, đứng cao hơn hoàn cảnh. Nhân vật của ông trong giai đoạn này mang dáng dấp của những con người “đặc tuyển”. Nguyễn Tuân đi tìm cảm giác mới lạ, “cái nguồn sống bồng bột tắc lối thoát (Tóc chị Hoài) trong “xê dịch” và trụy lạc.
Ông có một lối viết tự do, phóng túng, vừa đĩnh đạc, cổ kính lại vừa trẻ trung, hiện đại không chỉ dùng vốn ngôn ngữ văn học phong phú, ông còn sử dụng hiểu biết về nhiều ngành nghệ thuật, khoa học khác như hội họa, điện ảnh, âm nhạc, quân sự, võ thuật, để gợi dựng hình tượng, đem đến người đọc nhiều liên tưởng thú vị.
Sau Cách mạng ông vẫn tiếp tục khẳng định nét tài hoa, uyên bác những cũng có những thay đổi rõ rệt. Cũng nhìn con người trên phương diện văn hóa nhưng Nguyễn Tuân không còn đối lập xưa và nay mà tìm được sự ấm áp của cuộc đời. Cái đẹp không chỉ có trong thời xưa cũ mà còn có trong thiên nhiên, đời sống lao động sản xuất và chiến đấu. Chất tài hoa nghệ sĩ không chỉ có ở những con người đặc tuyển mà còn có ở đại chúng nhân dân, ngay trong nghề nghiệp của họ như anh bộ đội, chị dân quân, người lái đò sông Đà. Ông cũng không còn đối lập cái phi thường với cái bình thường. Nét tài hoa hòa lẫn với những tâm tư rất bình dị, rất người. Giọng văn không còn khinh bạc, mà có thì chỉ để ném vào mặt kẻ thù cướp nước, bán nước và các mặt tiêu cực của xã hội.
Với những nét độc đáo và riêng biệt nói trên, Nguyễn Tuân tìm đến với thể loại tuỳ bút như một tất yếu và có công nâng tuỳ bút lên đỉnh cao. Do đó, ông được mệnh danh là “ông hoàng” của thể loại tuỳ bút. Tuỳ bút Nguyễn Tuân cũng đã thể hiện rõ phong cách phóng túng của ông. Các sáng tác này giàu có thông tin và tính thời sự cao, có nhiều yếu tố truyện. Nhà văn đã xây dựng được một lõi sự việc, các nhân vật được miêu tả một cách kĩ lưỡng, có tính cách riêng, đi sâu vào tâm lí. Lời văn kết hợp triết luận, trữ tình bàn bạc một cách thoải mái. Qua đó ta thấy được tâm hồn phóng túng, sức liên tưởng tưởng tượng bất ngờ, táo bạo của nhà văn, không tồn tại ở thể tĩnh tại mà nhìn trong chiều sâu thời gian và chiều rộng không gian. Ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Tuân giàu có, đa dạng, một mặt thể hiện cảm xúc trữ tình của một cái tôi uyên bác mà trẻ trung, hiện đại; mặt khác thể hiện sự tinh tế, giàu cảm xúc thẩm mĩ, đầy chất thơ và khả năng tạo hình. Câu văn co duỗi nhịp nhàng.
Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời tìm kiếm và khẳng định cái đẹp, một định nghĩa về người nghệ sĩ. Ông có đóng góp to lớn cho quá trình hiện đại hóa văn xuôi tiếng Việt, đặc biệt là thể loại tuỳ bút. Ông xứng đáng là một nghệ sĩ lớn một nhà văn hóa lớn của dân tộc.
Giới thiệu về Nguyễn Tuân - mẫu 3
Nhà văn Nguyễn Tuân (1910-1987) được xem là một trong những tác giả lãng mạn xuất sắc nhất trong văn học Việt Nam, đồng thời là một biểu tượng hàng đầu của văn học hiện đại. Sự sáng tạo của ông đã để lại dấu ấn mạnh mẽ trong lòng độc giả, và tiết lộ một con người và một sự nghiệp văn học đầy sắc sảo và tài hoa.
Nguyễn Tuân sinh ra tại Nhân Mục, thôn Thượng Đình, ngày nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông lớn lên trong một gia đình thuộc tầng lớp nhà nho, trong bối cảnh khi mà Hán học đang trên đà suy thoái. Thân sinh của Nguyễn Tuân có sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ cụ Nguyễn An Lan, một nhà nho với thành tích xuất sắc trong kỳ thi Hán học cuối cùng. Điều này đã tạo nên nền tảng về tri thức và phong cách văn hóa đặc trưng cho Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân đã hoàn tất việc học ở trường chung hẹn, nhưng lại bị đuổi học sau khi tham gia vào một cuộc biểu tình phản đối giáo viên người Pháp nói xấu về người Việt Nam. Năm 1930, do việc "xê dịch" trái phép sang Lào và Thái Lan, ông bị giam giữ. Sau khi ra tù, ông bắt đầu sự nghiệp văn chương bằng việc viết báo và tạo ra các tác phẩm văn học. Tuy nhiên, tên tuổi của ông không thực sự nổi tiếng cho đến năm 1938, khi ông sáng tác các tác phẩm như "Một chuyến đi" và "Vang bóng một thời." Năm 1941, ông bị bắt giam vì giao du với các hoạt động chính trị. Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân trở thành một trong những tác giả tiêu biểu, đóng góp to lớn trong việc phục vụ nhân dân và kháng chiến. Ông giữ chức vụ Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam từ 1948 đến 1958. Nguyễn Tuân qua đời vào ngày 28/7/1987 tại Hà Nội và vinh dự được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật vào năm 1996, để vinh danh những đóng góp quan trọng của ông cho văn học Việt Nam.
Nguyễn Tuân là một người trí thức yêu nước và những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Ông trân trọng tiếng nói của quê hương, quý trọng những giá trị văn hóa cổ truyền, kiệt tác văn chương cổ điển, nhạc cổ điển, các món ăn truyền thống, và văn hóa dân gian. Ý thức cá nhân của Nguyễn Tuân phát triển độc đáo, và với ông, viết văn là cách thể hiện tâm hồn và cá nhân một cách đặc biệt. Ông là một tài hoa vượt trội, uyên bác và có sự thông hiểu sâu sắc về nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm cả khoa học và nghệ thuật. Ông coi nghệ thuật như một hình thái lao động nghiêm túc và thậm chí như một loại khổ hạnh. Tất cả những đặc điểm này về con người Nguyễn Tuân đã tạo nên phong cách nghệ thuật riêng biệt của ông.
Tác phẩm của Nguyễn Tuân trải qua nhiều giai đoạn, với mỗi giai đoạn thể hiện một phong cách khác nhau. Trước Cách mạng, ông tập trung sáng tác quanh ba đề tài chính, bao gồm "Chủ nghĩa xê dịch," "vang bóng một thời," và cuộc sống tâm trạng bi quan của những người trẻ lạc hướng. Trong giai đoạn này, ông đã miêu tả cảnh sắc và hương vị quê hương một cách tươi đẹp và tình cảm, nhấn mạnh tình yêu sâu sắc đối với đất nước trong tác phẩm "Một chuyến đi" và "Thiếu quê hương..."
Ở đề tài "vang bóng một thời," ông tìm kiếm và tái hiện vẻ đẹp riêng của thời xưa với các phong tục văn hóa, thú tiêu dao lành mạnh, tao nhã, liên quan đến những nhà nho tài hoa bất đắc chí. Các tác phẩm này thể hiện sự tôn trọng và tình cảm đối với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Tập truyện ngắn "Vang bóng một thời" chính là biểu tượng cho đề tài này.
Sau Cách mạng, lòng yêu nước và sự bất mãn trước thực dân làm Nguyễn Tuân trở thành một tác giả cách mạng. Sáng tác của ông tập trung vào việc phản ánh hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, với sự tôn vinh quê hương, đất nước, và nhân dân anh hùng. Các tác phẩm như "Đường vui," "Tình chiến dịch," "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi," và "Sông Đà" là minh chứng cho sự cam kết của ông đối với sự độc lập và tự do của quê hương.
Nguyễn Tuân luôn có phong cách nghệ thuật độc đáo, với sự tài hoa và uyên bác xuất sắc. Trước Cách mạng, ông được biết đến như một nhà văn duy mĩ, coi trọng cái đẹp, và nhấn mạnh sự tương phản giữa thời xưa và thời nay. Tuy nhiên, sau Cách mạng, Nguyễn Tuân không còn tạo ra sự đối lập giữa cái bình thường và cái phi thường. Ông tìm thấy cái đẹp không chỉ trong quá khứ mà còn trong thiên nhiên, cuộc sống hàng ngày, và trong cuộc kháng chiến và sản xuất. Phong cách nghệ thuật của ông trở nên ấm áp và truyền tải thông điệp tích cực hơn, thể hiện tình yêu và tôn trọng đối với vẻ đẹp ở mọi khía cạnh của cuộc sống.
Nguyễn Tuân đã tạo ra những tác phẩm đa dạng, phong cách tự do, và thông điệp phong phú, sử dụng kiến thức rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như hội họa, điện ảnh, âm nhạc, quân sự, võ thuật để xây dựng các tác phẩm và nhân vật đa chiều. Cách ông sử dụng ngôn ngữ văn học đa dạng và hình tượng sáng tạo đã tạo ra những tác phẩm đầy trí tưởng tượng và thú vị.
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn và nhà nghiên cứu tài hoa trong văn học Việt Nam. Sự ảnh hưởng của ông trải rộng từ thể loại tuỳ bút tới văn xuôi, và ông được mệnh danh là "ông hoàng" của thể loại tuỳ bút. Tác phẩm tuỳ bút của Nguyễn Tuân thể hiện phong cách nghệ thuật phóng túng, đa dạng về nội dung và sáng tạo, với sự kết hợp giữa triết lý và cảm xúc trữ tình, và câu văn nhịp nhàng, lôi cuốn.
Với đóng góp lớn và giá trị đối với văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân là một nhà văn vĩ đại và một biểu tượng văn hóa của dân tộc.
Giới thiệu về Nguyễn Tuân - mẫu 4
Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 ở phố Hàng Bạc, Hà Nội, quê ở thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục (tên nôm là làng Mọc), nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông trưởng thành trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
Nguyễn Tuân sở trường về tùy bút và ký. Ông viết văn với một phong cách tài hoa uyên bác và được xem là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụng Tiếng Việt. Các tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngôn ngữ, giàu có, điêu luyện. Sách giáo khoa hiện hành xếp ông vào một trong 9 tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông còn là một diễn viên tay ngang, tham gia phim “Cánh đồng ma” năm 1938, và phim “Chị Dậu” (1980).
Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung Nam Định (tương đương với cấp Trung học cơ sở hiện nay, tiền thân của trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định ngày nay) thì bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên Pháp nói xấu người Việt (1929). Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì đi qua biên giới tới Thái Lan không có giấy phép. Sau khi ra tù, ông bắt đầu sự nghiệp viết lách của mình.
Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1935, nhưng nổi tiếng từ năm 1938 với các tác phẩm tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo như Vang bóng một thời, Một chuyến đi… Năm 1941, ông lại bị bắt giam một lần nữa và gặp gỡ, tiếp xúc với những người hoạt động chính trị. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Từ 1948 đến 1957, ông giữ chức Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.
Các tác phẩm chính sau cách mạng của Nguyễn Tuân là tập tùy bút Sông Đà (1960) là kết quả chuyến đi thực tế vùng Tây Bắc, một số tập ký chống Mỹ (1965-1975) và nhiều bài tùy bút về cảnh sắc và hương vị đất nước. Ông chủ trương chủ nghĩa xê dịch không thích cuộc sống trầm lặng, bình ổn nên ông đi suốt chiều dài đất nước để tìm những điều mới mẻ,độc đáo.
Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào ngày 28 tháng 7 năm 1987. Năm 1996 ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).
Giới thiệu về Nguyễn Tuân - mẫu 5
Xuất hiện trên đàn văn vào cuối thập niên 30 và đầu 40 thế kỷ XX, Nguyễn Tuân đã khẳng định ngay lập tức tên tuổi của mình ở một văn phẩm gần như thâu tóm và kết tinh mọi tinh hoa làm nên sự hoàn thiện và hoàn mỹ của một phong cách viết “Vang bóng một thời”. Với khởi đầu rất ấn tượng là “Vang bóng một thời”, Nguyễn Tuân đến với Cách mạng tháng Tám bằng sự tận lực sống với thời cuộc, với sự sống đương đại, nhãn tiền.
Với Nguyễn Tuân, đã chọn nghề viết, ông đã không ngừng viết bất cứ lúc nào, dẫu với bất cứ chuyển động nào của lịch sử. Tháng Tám – mùa thu cũng đã vào văn Nguyễn Tuân trong vẻ lộng lẫy của một bức sơn mài. Ông không ngần ngại đi lên chiến khu Việt Bắc, viết những trang mới nồng ấm tình người trong “Đường vui”, “Tình chiến dịch”…
Nguyễn Tuân là một cây bút có sức viết dồi dào. Cả trước và sau Cách mạng Tháng Tám, ông đều để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị như “Vang bóng một thời”, “Tuỳ bút I”, “Thiếu quê hương”, “Chiếc lư đồng mắt cua”, “Tóc chị Hoài”, “Đường vui”, “Tình chiến dịch”, “Sông Đà”, “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”… đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc bởi nó mang phong cách uyên bác, tài hoa, độc đáo và một giọng văn rất riêng.
Ông ưa một lối viết liên tưởng mang tính chất tạo hình, ông viết không chỉ bằng ngòi bút của một nhà văn mà dường như còn viết bằng nhãn quan, bằng ngòi bút của một họa sỹ, của một nhà điêu khắc nên văn của ông rất giàu màu sắc, rất giàu hình khối, rất giàu chất điện ảnh. Chất điện ảnh, chất điêu khắc, chất hội họa đã làm cho sự hoa mỹ trong lời văn của Nguyễn Tuân rất rõ nét và đa dạng.
Gần 50 năm hoạt động văn học liên tục, Nguyễn Tuân đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển văn xuôi quốc ngữ Việt Nam hiện đại, với phong cách nghệ thuật độc đáo, trình độ sử dụng tiếng Việt điêu luyện. Con đường nghệ thuật này của ông tiêu biểu cho một lớp văn nghệ sĩ Việt Nam vốn mang quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật, đã chuyển mình trở thành văn nghệ sĩ cách mạng. Toàn bộ sáng tác của ông thấm đẫm tinh thần dân tộc thiết tha, nhất là những giá trị văn hóa cổ truyền.
Giới nghiên cứu ca tụng những bữa tiệc ngôn từ trên trang văn Nguyễn Tuân và đề cập đến việc soạn một từ điển ngôn ngữ Nguyễn Tuân, với những “phố Phái”, “huyện đảo”… mà ông đã góp vào kho từ vựng chung của tiếng Việt. Người ta hiểu rằng cả một vùng trời lung linh ngôn ngữ ấy là tinh kết của một cuộc sống từng trải, si mê góp nhặt từng mảy vàng tiếng mẹ đẻ…
Nguyễn Tuân thực sự là một bậc thầy ngôn từ mà rất lâu nữa mới có nhà văn khác sánh kịp. Chẳng hạn, ông dùng cụm từ “Hà Nội nội thành” về nghĩa tương đương cụm từ “nội thành Hà Nội” nhưng đọc cụm từ của Nguyễn Tuân ta thấy sự hội tụ tinh hoa đất kinh kỳ rất rõ ở trong một vùng địa lý chật hẹp.
Có thể nói, bất kỳ ở giai đoạn nào, ông cũng có những tác phẩm để đời. Ngoài truyện ký, Nguyễn Tuân còn viết tiểu luận phê bình và viết các chân dung văn học. Ông viết về tiếng Việt giàu và đẹp, về Truyện Kiều, về Tú Xương, Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Thạch Lam, về Dostoyevsky, Sekhov, Lỗ Tấn. Với vốn hiểu biết phong phú trong nhiều lĩnh vực, với năng lực thẩm mỹ sắc sảo và lối viết tài hoa phóng túng, những bài viết đó thường đậm đà, có những phát hiện độc đáo, tâm đắc.
Ngoài ra, đỉnh cao trong văn nghiệp đồ sộ mà Nguyễn Tuân để lại là những bài tùy bút với phong cách riêng biệt không lẫn với bất cứ cây bút nào. Ông cũng được coi là một trong 3 nhà văn (cùng với Tố Hữu và Xuân Diệu) sớm có tác phẩm ngay từ những ngày đầu chào mừng kỷ nguyên độc lập của dân tộc.
Nếu như dòng tùy bút trước Cách mạng Tháng Tám của Nguyễn Tuân thấm đẫm sự kiêu bạc của cái “tôi” tác giả – một con người tài hoa, khinh bạc, muốn “nổi loạn” chống lại xã hội phàm tục, thì sau Cách mạng tháng Tám, ông đã hòa mình vào cuộc sống nhân dân, rũ bỏ cái “tôi”, vươn lên thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa văn nghệ. “Tùy bút kháng chiến” đã có cái nhìn ấm áp, tin yêu với cuộc đời mới, sự gắn bó cảm động giữa nhà văn và quần chúng kháng chiến.
Trong một số truyện như “Những con đò danh dự”, “Thắng càn”, ông đã thể hiện chân thực những người lao động bình thường giản dị mà rất mực anh dũng. Đặc biệt, tùy bút “Sông Đà” viết về cuộc sống đổi thay đi lên chủ nghĩa xã hội ở vùng Tây Bắc và những tác phẩm tùy bút viết trong những năm chống Mỹ cứu nước viết về cuộc chiến đấu anh hùng của quân dân Thủ đô Hà Nội, được tập hợp trong tác phẩm “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” chính là những chiến công sáng chói của người chiến sĩ văn nghệ Nguyễn Tuân.
Có thể nói, tùy bút Nguyễn Tuân thấm đượm thứ văn hóa Đông Tây đã được ông tiếp nhận – không chỉ hiểu triết lý mà còn thấm cả đạo lý, dù hấp thụ sâu sắc chủ nghĩa tự do cá nhân vẫn thấy mình nặng nợ với đất nước, với làng xóm, phố phường, thấy mình có gốc rễ từ lịch sử.
Chỉ riêng các tác phẩm viết về Hà Nội thật khó quên. Các thú chơi xưa của các nhà Nho như uống rượu, uống trà, thả thơ… được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả từ cái nhìn đầy hoài niệm hướng về quá khứ trong tập “Vang bóng một thời”. Rồi sau này, chỉ cần tùy bút “Phở” đã thâu tóm những gì cần biết và cả cách thưởng thức món phở. Hoặc vi mô hơn, chỉ cần hai chữ “Phố Phái” là cả một dòng tranh vẽ phố cổ Hà Nội đặc sắc của danh họa Bùi Xuân Phái được định danh.
Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí “khổ hạnh” và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỷ của mình để chứng minh cho quan niệm ấy. Nguyễn Tuân đã có đóng góp to lớn cho quá trình hiện đại hóa văn xuôi tiếng Việt, đặc biệt là thể loại tuỳ bút. Ông xứng đáng là một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn của dân tộc.
Đối với Nguyễn Tuân, văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật. Tài phải đi đôi với tâm. Ấy là “thiên lương” trong sạch, là lòng yêu nước thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục. Người đọc mến Nguyễn Tuân về tài, nhưng còn trọng ông về nhân cách đó nữa.
Giới thiệu về Nguyễn Tuân - mẫu 6
Xuất hiện trên văn đàn vào đầu thế kỷ XX, Nguyễn Tuân là một tên tuổi lớn của văn học Việt Nam hiện đại, một nhà văn bậc thầy, một nhân cách văn hóa mẫu mực. Ông đã để lại một sự nghiệp văn học đồ sộ mà đỉnh cao là những bài tùy bút với phong cách riêng biệt không lẫn với bất cứ cây bút nào.
Nguyễn Tuân sinh ngày 10/7/1910, quê ở làng Nhân Mục (thường gọi là làng Mọc), thôn Thượng Đình, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Xuất hiện trên đàn văn vào cuối thập niên 30 và đầu 40 thế kỷ XX, Nguyễn Tuân đã khẳng định ngay lập tức tên tuổi của mình ở một văn phẩm gần như thâu tóm và kết tinh mọi tinh hoa làm nên sự hoàn thiện và hoàn mỹ của một phong cách viết “Vang bóng một thời”. Với khởi đầu rất ấn tượng là “Vang bóng một thời”, Nguyễn Tuân đến với Cách mạng tháng Tám bằng sự tận lực sống với thời cuộc, với sự sống đương đại, nhãn tiền. Với Nguyễn Tuân, đã chọn nghề viết, ông đã không ngừng viết bất cứ lúc nào, dẫu với bất cứ chuyển động nào của lịch sử. Tháng Tám – mùa thu cũng đã vào văn Nguyễn Tuân trong vẻ lộng lẫy của một bức sơn mài. Ông không ngần ngại đi lên chiến khu Việt Bắc, viết những trang mới nồng ấm tình người trong “Đường vui”, “Tình chiến dịch”…
Nguyễn Tuân là một cây bút có sức viết dồi dào. Cả trước và sau Cách mạng Tháng Tám, ông đều để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị như “Vang bóng một thời”, “Tuỳ bút I”, “Thiếu quê hương”, “Chiếc lư đồng mắt cua”, “Tóc chị Hoài”, “Đường vui”, “Tình chiến dịch”, “Sông Đà”, “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”… đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc bởi nó mang phong cách uyên bác, tài hoa, độc đáo và một giọng văn rất riêng. Ông ưa một lối viết liên tưởng mang tính chất tạo hình, ông viết không chỉ bằng ngòi bút của một nhà văn mà dường như còn viết bằng nhãn quan, bằng ngòi bút của một họa sỹ, của một nhà điêu khắc nên văn của ông rất giàu màu sắc, rất giàu hình khối, rất giàu chất điện ảnh. Chất điện ảnh, chất điêu khắc, chất hội họa đã làm cho sự hoa mỹ trong lời văn của Nguyễn Tuân rất rõ nét và đa dạng.
Gần 50 năm hoạt động văn học liên tục, Nguyễn Tuân đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển văn xuôi quốc ngữ Việt Nam hiện đại, với phong cách nghệ thuật độc đáo, trình độ sử dụng tiếng Việt điêu luyện. Con đường nghệ thuật này của ông tiêu biểu cho một lớp văn nghệ sĩ Việt Nam vốn mang quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật, đã chuyển mình trở thành văn nghệ sĩ cách mạng. Toàn bộ sáng tác của ông thấm đẫm tinh thần dân tộc thiết tha, nhất là những giá trị văn hóa cổ truyền.Giới nghiên cứu ca tụng những bữa tiệc ngôn từ trên trang văn Nguyễn Tuân và đề cập đến việc soạn một từ điển ngôn ngữ Nguyễn Tuân, với những “phố Phái”, “huyện đảo”… mà ông đã góp vào kho từ vựng chung của tiếng Việt. Người ta hiểu rằng cả một vùng trời lung linh ngôn ngữ ấy là tinh kết của một cuộc sống từng trải, si mê góp nhặt từng mảy vàng tiếng mẹ đẻ… Nguyễn Tuân thực sự là một bậc thầy ngôn từ mà rất lâu nữa mới có nhà văn khác sánh kịp. Chẳng hạn, ông dùng cụm từ “Hà Nội nội thành” về nghĩa tương đương cụm từ “nội thành Hà Nội” nhưng đọc cụm từ của Nguyễn Tuân ta thấy sự hội tụ tinh hoa đất kinh kỳ rất rõ ở trong một vùng địa lý chật hẹp.
Có thể nói, bất kỳ ở giai đoạn nào, ông cũng có những tác phẩm để đời. Ngoài truyện ký, Nguyễn Tuân còn viết tiểu luận phê bình và viết các chân dung văn học. Ông viết về tiếng Việt giàu và đẹp, về Truyện Kiều, về Tú Xương, Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Thạch Lam, về Dostoyevsky, Sekhov, Lỗ Tấn. Với vốn hiểu biết phong phú trong nhiều lĩnh vực, với năng lực thẩm mỹ sắc sảo và lối viết tài hoa phóng túng, những bài viết đó thường đậm đà, có những phát hiện độc đáo, tâm đắc.
Ngoài ra, đỉnh cao trong văn nghiệp đồ sộ mà Nguyễn Tuân để lại là những bài tùy bút với phong cách riêng biệt không lẫn với bất cứ cây bút nào. Ông cũng được coi là một trong 3 nhà văn (cùng với Tố Hữu và Xuân Diệu) sớm có tác phẩm ngay từ những ngày đầu chào mừng kỷ nguyên độc lập của dân tộc.Nếu như dòng tùy bút trước Cách mạng Tháng Tám của Nguyễn Tuân thấm đẫm sự kiêu bạc của cái “tôi” tác giả – một con người tài hoa, khinh bạc, muốn “nổi loạn” chống lại xã hội phàm tục, thì sau Cách mạng tháng Tám, ông đã hòa mình vào cuộc sống nhân dân, rũ bỏ cái “tôi”, vươn lên thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa văn nghệ. “Tùy bút kháng chiến” đã có cái nhìn ấm áp, tin yêu với cuộc đời mới, sự gắn bó cảm động giữa nhà văn và quần chúng kháng chiến. Trong một số truyện như “Những con đò danh dự”, “Thắng càn”, ông đã thể hiện chân thực những người lao động bình thường giản dị mà rất mực anh dũng trong cuộc chiến đấu đầy gian khổ của dân tộc.Đặc biệt, tùy bút “Sông Đà” viết về cuộc sống đổi thay đi lên chủ nghĩa xã hội ở vùng Tây Bắc và những tác phẩm tùy bút viết trong những năm chống Mỹ cứu nước viết về cuộc chiến đấu anh hùng của quân dân Thủ đô Hà Nội, được tập hợp trong tác phẩm “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” chính là những chiến công sáng chói của người chiến sĩ văn nghệ Nguyễn Tuân.
Có thể nói, tùy bút Nguyễn Tuân thấm đượm thứ văn hóa Đông Tây đã được ông tiếp nhận – không chỉ hiểu triết lý mà còn thấm cả đạo lý, dù hấp thụ sâu sắc chủ nghĩa tự do cá nhân vẫn thấy mình nặng nợ với đất nước, với làng xóm, phố phường, thấy mình có gốc rễ từ lịch sử.
Chỉ riêng các tác phẩm viết về Hà Nội thật khó quên. Các thú chơi xưa của các nhà Nho như uống rượu, uống trà, thả thơ… được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả từ cái nhìn đầy hoài niệm hướng về quá khứ trong tập “Vang bóng một thời”. Rồi sau này, chỉ cần tùy bút “Phở” đã thâu tóm những gì cần biết và cả cách thưởng thức món phở. Hoặc vi mô hơn, chỉ cần hai chữ “Phố Phái” là cả một dòng tranh vẽ phố cổ Hà Nội đặc sắc của danh họa Bùi Xuân Phái được định danh.Đối với ông, văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật. Tài phải đi đôi với tâm. Ấy là “thiên lương” trong sạch, là lòng yêu nước thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục. Người đọc mến Nguyễn Tuân về tài, nhưng còn trọng ông về nhân cách đó nữa.Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I, cho các tác phẩm “Nguyễn” (truyện ngắn, 1945), “Đường vui” (tuỳ bút, 1949), “Tùy bút kháng chiến” (1955), “Sông Đà” (tuỳ bút, 1960), “Tình chiến dịch” (tùy bút, 1960), “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” (tùy bút, 1972), “Ký” (1976), “Tuyển tập Nguyễn Tuân” (tập I, 1981; tập II, 1982), “Chuyện nghề” (phê bình tiểu luận, 1986).
Ông mất tại Hà Nội, tên ông được đặt cho một con đường ở Hà Nội.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 Ôn thi THPT Quốc gia khác:
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều