10+ Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc (điểm cao)
Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc
- Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc (mẫu 1)
- Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc (mẫu 2)
- Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc (mẫu 3)
- Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc (mẫu 4)
- Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc (mẫu 5)
- Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc (mẫu 6)
- Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc (mẫu 7)
10+ Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc (điểm cao)
Dàn ý Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc
1. Mở bài
+ Giới thiệu chung về tác giả Tố Hữu – cây bút tiêu biểu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
+ Giới thiệu bài thơ Việt Bắc (1954), hoàn cảnh sáng tác: sau chiến thắng Điện Biên Phủ, cán bộ cách mạng rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản Thủ đô.
+ Dẫn dắt vào 16 câu thơ cuối – khúc ca chia tay đầy lưu luyến, khắc họa hình ảnh Bác Hồ, niềm biết ơn với Đảng và niềm tin hướng về tương lai.
2. Thân bài
a. Hình ảnh Bác Hồ giản dị mà thiêng liêng (8 câu đầu)
Trích thơ:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
+ Tình cảm sâu nặng của Việt Bắc với Bác Hồ: từ “thưa giùm” thể hiện sự trân trọng, gần gũi, lời nhắn gửi thân tình.
+ Bác Hồ hiện lên trong hồi ức:
-"Ông Cụ mắt sáng ngời": giản dị, thân thương như người ông trong gia đình.
-"Áo nâu túi vải": biểu tượng của lối sống thanh bạch, giản đơn.
+ Vẻ đẹp phi thường trong sự đời thường:
-“Ung dung yên ngựa”: phong thái điềm tĩnh, nhẹ nhàng.
-“Đường suối reo”, “rừng núi trông theo”: thiên nhiên cũng như thấm đẫm tình cảm, thiêng liêng hóa hình ảnh Người.
→ Khẳng định: Hình ảnh Bác vừa gần gũi, vừa trở nên thiêng liêng trong tâm hồn người dân Việt Bắc.
b. Lòng biết ơn với Đảng và niềm tin vào tương lai (6 câu tiếp)
Trích thơ:
Lòng ta ơn Đảng đời đời
Ngược xuôi, đôi mặt một lời song song.
Ngàn năm xưa, nước non Hồng
Còn đây, ơn Đảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.
+ Tấm lòng thủy chung, biết ơn với Đảng:
-“Lòng ta ơn Đảng đời đời” – khẳng định sự gắn bó bền chặt, vĩnh cửu.
-“Đôi mặt một lời song song”: sự đồng lòng, đoàn kết giữa nhân dân – Đảng.
+ Lịch sử và tương lai được nối liền:
-Từ “ngàn năm xưa” đến “ngàn năm sau” – Đảng như sợi chỉ đỏ nối liền quá khứ, hiện tại và tương lai.
-Nhấn mạnh công lao của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
→ Niềm tin sâu sắc vào con đường mà Đảng đã, đang và sẽ dẫn dắt dân tộc.
c. Khúc hát chia tay tràn đầy hy vọng (2 câu cuối)
Trích thơ:
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.
+ Không gian chia tay nhưng không buồn bã mà rộn ràng, tươi vui:
-“Cầm tay nhau” – biểu hiện của sự gắn bó, đoàn kết.
-“Hát vui chung” – lời ca thay cho nước mắt, lạc quan và đầy hứa hẹn.
+ Niềm tin vào ngày hội tụ, chiến thắng:
-“Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô” – một lời hứa, một khát vọng về tương lai đất nước thanh bình, thống nhất.
→ Kết thúc bài thơ bằng âm hưởng tươi sáng, mở ra viễn cảnh tươi đẹp cho dân tộc.
3. Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung: 16 câu thơ cuối là lời kết xúc động, thể hiện tình cảm gắn bó với Bác Hồ, lòng biết ơn Đảng và niềm tin mãnh liệt vào tương lai dân tộc.
+ Khẳng định giá trị nghệ thuật:
-Thể thơ lục bát mềm mại, mang âm hưởng dân gian.
-Ngôn ngữ giàu cảm xúc, hình ảnh gần gũi, bình dị mà sâu sắc.
+ Tố Hữu đã kết thúc bài thơ một cách đầy tinh tế, vừa xúc động vừa ngập tràn hi vọng, để lại dư âm sâu lắng trong lòng người đọc.
Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc - mẫu 1
Trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại, Việt Bắc của Tố Hữu là một trong những đỉnh cao rực rỡ. Bài thơ không chỉ là khúc ca nghĩa tình sâu nặng giữa người cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc mà còn là bản anh hùng ca, bản tình ca về đất nước, con người và cách mạng. Một trong những điểm nhấn sâu sắc và cảm động nhất của bài thơ là hình tượng Bác Hồ – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc – được khắc họa đầy chân thực và xúc động. Đặc biệt, ở đoạn thơ cuối bài, Bác hiện lên không phải với ánh hào quang của một lãnh tụ, mà lại gần gũi, đời thường, như một con người bình dị giữa thiên nhiên núi rừng Việt Bắc:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ người
Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi rừng núi trông theo bóng Người...
Nếu ở phần đầu bài thơ, hình ảnh Bác Hồ thường gắn liền với sức mạnh tinh thần tiếp thêm ý chí chiến đấu cho người lính cách mạng, thì trong đoạn thơ này, Người hiện lên với vẻ đẹp dung dị, gần gũi, thân thương đến lạ thường. “Ông Cụ mắt sáng ngời” là cách gọi mộc mạc, kính yêu, thể hiện tình cảm thân mật như con cháu dành cho một người ông đáng kính. “Áo nâu túi vải” – bộ trang phục quen thuộc của Bác, vốn đơn sơ mà lại khiến bao người xúc động, vì nó thể hiện rõ phong cách sống giản dị, thanh bạch của Người.
Hình ảnh Bác trên lưng ngựa, "ung dung yên ngựa trên đường suối reo", không phải tư thế oai phong lẫm liệt của một vị tướng chỉ huy, mà lại là dáng dấp khoan thai, điềm tĩnh giữa thiên nhiên hùng vĩ. Ánh mắt của Bác, bước chân của Bác như in đậm trong lòng núi rừng. "Người đi rừng núi trông theo bóng Người" – câu thơ như nhấn mạnh mối quan hệ thiêng liêng giữa thiên nhiên đất nước với con người vĩ đại đã gắn bó sâu sắc với nó. Có thể nói, Bác hiện lên trong đoạn thơ như một ông tiên trong truyện cổ tích – rất đời thường, rất giản dị, nhưng vẫn đẹp một cách phi thường.
Sau khi tái hiện hình ảnh Bác Hồ, bài thơ khép lại bằng những câu thơ mang âm hưởng tươi vui, mở ra một tương lai tràn đầy hi vọng:
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé hát cùng Thủ đô.
Dù bài thơ nói về một cuộc chia tay – cuộc chia tay giữa người cán bộ kháng chiến với Việt Bắc sau chiến thắng – nhưng không mang gam màu buồn bã, đau thương mà lại đầy lạc quan, tin tưởng. Hai câu thơ cuối như một lời hứa, một niềm tin vào ngày đoàn tụ, ngày đất nước thanh bình, khi mọi người có thể “hát cùng Thủ đô”, hát vang ca khúc khải hoàn của tự do và hạnh phúc. Đó cũng là lời giã biệt đẹp nhất – một lời chia tay hướng về tương lai.
Bài thơ Việt Bắc kết thúc nhưng để lại trong lòng người đọc những dư âm khó phai. Thành công của bài thơ không chỉ đến từ nội dung đậm đà tình cảm cách mạng, mà còn bởi nghệ thuật thể hiện độc đáo. Tố Hữu đã khéo léo vận dụng thể thơ lục bát truyền thống, kết hợp với chất văn xuôi nhẹ nhàng, uyển chuyển để tạo nên âm hưởng ngọt ngào, dễ đi vào lòng người. Những hình ảnh so sánh giàu tính dân tộc, ngôn ngữ giàu cảm xúc, cách xưng hô “mình – ta” quen thuộc trong ca dao góp phần tạo nên nét riêng biệt của bài thơ.
Tóm lại, hình tượng Bác Hồ trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu không chỉ là biểu tượng của niềm tin cách mạng, mà còn là hình ảnh đời thường vô cùng thân thương và gần gũi. Qua hình ảnh ấy, Tố Hữu đã thể hiện tình cảm kính yêu, sự gắn bó sâu sắc của nhân dân với Bác – một con người giản dị mà vĩ đại. Và chính từ sự giản dị ấy, Bác trở nên phi thường hơn bao giờ hết trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam.
Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc - mẫu 2
Tố Hữu là lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại. Thơ ông luôn thể hiện sâu sắc sự gắn bó giữa con người với cách mạng, giữa tình cảm cá nhân và lý tưởng dân tộc. Trong đó, bài thơ Việt Bắc được xem là một kiệt tác, không chỉ giàu chất trữ tình mà còn đậm đà tính sử thi. Đặc biệt, 16 câu thơ cuối của bài là khúc ca chia tay sâu lắng và xúc động, khắc họa hình ảnh Bác Hồ bình dị, thể hiện lòng biết ơn với Đảng và niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Trước hết, tám câu thơ đầu đã khắc họa đầy xúc động hình ảnh Bác Hồ – vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc – qua hồi tưởng của người dân Việt Bắc:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Trong lời nhắn nhủ “thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người”, hình ảnh Bác Hồ hiện lên thật gần gũi, thân thương. Cách gọi “Ông Cụ” mộc mạc mà trìu mến khiến Người như một người thân thiết trong gia đình. Từ ánh mắt “sáng ngời”, đến chiếc áo nâu túi vải giản dị, Bác hiện lên không phải với vẻ ngoài hào nhoáng của một vị lãnh tụ, mà bằng chính sự bình dị, thanh cao mà ai cũng phải kính phục.
Đặc biệt, hình ảnh Bác trên yên ngựa “ung dung” giữa cảnh núi rừng “suối reo”, “đèo cao” cho thấy phong thái khoan thai, điềm tĩnh, đầy uy nghi mà không hề cách biệt. Rừng núi “trông theo bóng Người” không chỉ là sự nhân hóa thiên nhiên, mà còn là cách Tố Hữu thể hiện tình cảm sâu nặng của không gian Việt Bắc với Bác Hồ – vị cha già của dân tộc. Qua đó, Bác không chỉ là biểu tượng cách mạng mà còn là hình ảnh thiêng liêng, gần gũi, như một ông tiên giữa đời thường.
Sau khi khắc họa chân dung Bác Hồ, bài thơ tiếp tục khơi dậy lòng biết ơn sâu sắc đối với Đảng – người dẫn đường cho dân tộc, với sáu câu thơ đầy xúc cảm:
Lòng ta ơn Đảng đời đời
Ngược xuôi, đôi mặt một lời song song.
Ngàn năm xưa, nước non Hồng
Còn đây, ơn Đảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.
Lời thơ vang lên như một lời thề sắt son. Từ “đời đời”, “ngàn năm”, “dài lâu”, “càng sâu càng nồng” đều là những từ ngữ mang tính khẳng định vĩnh cửu. Chúng gợi ra một tình cảm bền bỉ, trường tồn của nhân dân đối với Đảng – người đã lãnh đạo dân tộc vượt qua muôn vàn thử thách, giành lại độc lập, tự do. Hình ảnh “ngược xuôi, đôi mặt một lời song song” còn thể hiện sự đồng lòng, gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, như hai dòng sông luôn song hành, không rời nhau nửa bước. Dòng lịch sử dân tộc từ “nước non Hồng” đến “mai sau” được nối tiếp bởi ánh sáng của Đảng, mở ra một dòng chảy vững bền cho tương lai đất nước.
Cuối cùng, bài thơ khép lại bằng hai câu thơ tràn đầy niềm vui và hy vọng:
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.
Dù là lời chia tay, nhưng lại không mang màu sắc buồn thương, mà rực rỡ niềm vui. Hình ảnh “cầm tay nhau” biểu hiện sự đoàn kết, gắn bó keo sơn giữa những người kháng chiến với nhân dân Việt Bắc. Lời hứa “hát cùng Thủ đô” như một tín hiệu lạc quan về một ngày hội ngộ trong hòa bình, ngày kháng chiến thắng lợi và đất nước thống nhất. Giai điệu bài thơ dường như chuyển thành một khúc ca hi vọng, tạm biệt nhưng đầy hứa hẹn, như lời giã từ đẹp nhất dành cho một thời kỳ lịch sử hào hùng.
Tóm lại, 16 câu thơ cuối bài Việt Bắc là một kết thúc đầy cảm xúc, vừa thấm đẫm tình cảm với Bác Hồ và Đảng, vừa mở ra niềm tin vào tương lai. Tố Hữu đã vận dụng thành công thể thơ lục bát mềm mại, ngôn ngữ giản dị, đậm chất dân gian để truyền tải những giá trị lớn lao một cách tự nhiên, sâu sắc. Chính sự kết hợp giữa cảm xúc cá nhân và lý tưởng dân tộc đã làm nên sức sống bền vững cho những câu thơ này trong lòng người đọc bao thế hệ.
Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc - mẫu 3
Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, người đã đặt nền móng cho phong cách thơ trữ tình – chính trị đậm màu dân tộc. Việt Bắc, sáng tác vào năm 1954, là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông, vừa mang âm hưởng của thơ ca dân gian, vừa kết tinh tinh thần thời đại. Trong bài thơ này, đoạn kết gồm 16 câu cuối là một nốt nhạc đẹp đẽ và đầy cảm xúc, thể hiện nỗi nhớ Bác Hồ kính yêu, lòng biết ơn với Đảng và khát vọng về một tương lai tươi sáng của đất nước.
Mở đầu đoạn thơ là hình ảnh người cán bộ từ giã núi rừng Việt Bắc, mang theo cả tấm lòng của đồng bào gửi gắm đến Bác Hồ:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Lời thơ như một tiếng nói chân tình, giản dị mà sâu sắc. “Mình về với Bác” là cách nói gần gũi, chan chứa tình cảm gắn bó như giữa người thân trong một gia đình. Cụm từ “thưa giùm” khiến lời thơ thêm phần tha thiết, cho thấy nỗi nhớ nhung luôn canh cánh trong lòng đồng bào. Hình ảnh Bác hiện lên thật bình dị: “mắt sáng ngời”, “áo nâu túi vải” – những chi tiết tuy đơn sơ nhưng lại gợi nên một vẻ đẹp phi thường. Không phải vẻ đẹp bên ngoài của quyền uy, mà là vẻ đẹp toát lên từ tâm hồn thanh cao, lối sống giản dị và phong thái ung dung.
Tư thế “ung dung yên ngựa trên đường suối reo” làm nổi bật sự điềm tĩnh, tự tin và gần gũi của Bác trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Rừng núi cũng như mang linh hồn, “trông theo bóng Người” như để bày tỏ sự quyến luyến, trân trọng. Đoạn thơ đã vẽ nên một hình tượng Bác Hồ vừa gần gũi như một người cha, người ông trong gia đình, vừa thiêng liêng như biểu tượng của non sông đất nước.
Sáu câu thơ tiếp theo chuyển mạch cảm xúc từ nỗi nhớ Bác sang lòng biết ơn đối với Đảng Cộng sản – tổ chức đã soi sáng con đường giải phóng dân tộc:
Lòng ta ơn Đảng đời đời
Ngược xuôi, đôi mặt một lời song song.
Ngàn năm xưa, nước non Hồng
Còn đây, ơn Đảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.
Lòng biết ơn với Đảng không chỉ là cảm xúc cá nhân mà trở thành một tiếng nói tập thể, như một lời hứa nguyện thiêng liêng. “Lòng ta ơn Đảng đời đời” là một câu thơ giản dị mà hùng hồn, khẳng định vai trò lịch sử trường tồn của Đảng trong lòng nhân dân. Hình ảnh “đôi mặt một lời song song” thể hiện sự đồng tâm nhất trí, lòng tin tuyệt đối của nhân dân vào đường lối lãnh đạo của Đảng. Từ chiều sâu lịch sử của “nước non Hồng” đến viễn cảnh “ngàn năm non nước mai sau”, Tố Hữu đã khéo léo nối liền quá khứ – hiện tại – tương lai, để khẳng định vai trò bất biến của Đảng trong sự nghiệp dựng xây và bảo vệ Tổ quốc.
Không dừng lại ở sự tri ân, bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh đầy tươi vui và lạc quan:
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.
Hai câu thơ là lời giã biệt mà cũng là lời hứa hẹn. “Cầm tay nhau” – một cử chỉ thân tình, gợi nên sự đồng lòng đoàn kết giữa những con người từng sát cánh trong kháng chiến. “Hát vui chung” và “hát cùng Thủ đô” là biểu tượng cho niềm vui chiến thắng, cho ngày đoàn tụ trong hòa bình. Lời thơ khép lại nhẹ nhàng mà mở ra một không gian tương lai tràn đầy hi vọng, một đất nước thanh bình nơi nhân dân được sống trong độc lập, tự do.
Tóm lại, 16 câu thơ cuối bài Việt Bắc không chỉ là lời tiễn biệt đầy cảm xúc mà còn là bản hòa ca đẹp đẽ về tình cảm cách mạng. Qua hình ảnh Bác Hồ giản dị mà thiêng liêng, lòng biết ơn sâu nặng với Đảng, và niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp, Tố Hữu đã khẳng định tư tưởng chủ đạo của bài thơ: tình cảm gắn bó giữa nhân dân với cách mạng, với lãnh tụ và tương lai đất nước. Bằng thể thơ lục bát giàu âm điệu dân tộc, giọng điệu trữ tình sâu lắng, đoạn thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc qua bao thế hệ.
Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc - mẫu 4
Tố Hữu là tiếng nói tiêu biểu cho hồn thơ cách mạng Việt Nam. Thơ ông không chỉ là sự kết tinh của tình yêu nước, lý tưởng cách mạng, mà còn mang âm điệu trữ tình tha thiết, đậm chất dân tộc. Việt Bắc – tác phẩm sáng tác sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 – đã trở thành một bản tình ca cách mạng sâu sắc. Ở 16 câu thơ cuối bài, Tố Hữu không chỉ gửi gắm tâm tình của người cán bộ cách mạng khi rời chiến khu, mà còn khắc họa hình ảnh Bác Hồ giản dị, thể hiện lòng tri ân đối với Đảng và niềm tin mãnh liệt vào tương lai của đất nước.
Mở đầu đoạn thơ là lời nhắn nhủ chan chứa cảm xúc:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Câu thơ vang lên như một lời dặn nhỏ nhẹ mà thắm đượm tình cảm. “Mình về” là lời gọi thân thương, gần gũi, “với Bác” không chỉ là về xuôi, mà là về với cội nguồn lãnh đạo cách mạng. “Thưa giùm” là cách nói chân thành, mộc mạc mà sâu nặng ân tình. Việt Bắc – biểu tượng của hậu phương kháng chiến – vẫn luôn hướng lòng về Bác với tình cảm thủy chung, nồng hậu.
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Bác hiện lên không phải với dáng vẻ của một chính khách cao sang, mà với hình ảnh của một người nông dân chân chất, giản dị. “Mắt sáng ngời” là ánh mắt của niềm tin, của trí tuệ và nhân hậu. Chiếc áo nâu và túi vải – vốn là biểu tượng của sự thanh đạm – dưới con mắt của nhân dân lại “đẹp tươi lạ thường”, bởi nó chứa đựng phẩm chất cao quý của một vị lãnh tụ gần dân, sống giữa dân.
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Những vần thơ tiếp theo là hình ảnh đầy cảm xúc về Bác trong không gian núi rừng Việt Bắc. Sáng sớm tinh mơ, trong tiếng suối róc rách, Bác hiện lên với dáng vẻ “ung dung yên ngựa”, bình thản và thanh cao. Mỗi bước chân Bác in dấu trên từng ngọn đèo, từng lối nhỏ, gợi nên mối gắn bó thiêng liêng giữa Người với thiên nhiên và với cuộc kháng chiến. Câu thơ cuối “rừng núi trông theo bóng Người” là sự nhân hóa đầy xúc động – như cả đất trời cũng bịn rịn, lưu luyến không muốn xa Người. Đó cũng chính là tâm trạng của nhân dân Việt Bắc trong giờ phút chia tay.
Nếu hình ảnh Bác gợi sự gần gũi và kính yêu, thì sáu câu thơ tiếp theo lại mở ra một tầng cảm xúc lớn hơn – lòng biết ơn đối với Đảng Cộng sản Việt Nam:
Lòng ta ơn Đảng đời đời
Ngược xuôi, đôi mặt một lời song song.
Ngàn năm xưa, nước non Hồng
Còn đây, ơn Đảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.
“Lòng ta ơn Đảng” – câu thơ mở đầu như một lời khẳng định dứt khoát, mạnh mẽ. Tấm lòng ấy không chỉ mang tính cá nhân mà đại diện cho nhân dân cả nước. Hình ảnh “đôi mặt một lời song song” khắc họa mối quan hệ khăng khít, thủy chung giữa Đảng và nhân dân – đồng lòng, đồng chí hướng. Bằng việc liên hệ lịch sử dân tộc từ “ngàn năm xưa” đến “ngàn năm sau”, tác giả đã đặt vai trò của Đảng vào dòng chảy trường tồn của dân tộc, như một điểm tựa vững chắc. Điệp từ “ơn Đảng” cùng với các từ láy “dài lâu”, “càng sâu càng nồng” không chỉ là biểu hiện của lòng biết ơn, mà còn là niềm tin sắt đá vào vai trò lãnh đạo của Đảng trong hiện tại và tương lai.
Khép lại bài thơ là hai câu thơ mang dư âm vui tươi, giàu hi vọng:
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.
Trong không khí chia tay, hình ảnh “cầm tay nhau” như một biểu tượng của sự gắn bó, đoàn kết, của lời hứa sẽ còn gặp lại. Không phải là nỗi buồn ly biệt, mà là niềm vui trong ngày hội lớn. “Hát cùng Thủ đô” là hình ảnh tượng trưng cho thắng lợi, cho sự hội tụ sau ngày đất nước thống nhất. Lời thơ như khúc ca lạc quan, khép lại bài thơ bằng ánh sáng rạng rỡ của niềm tin vào ngày mai.
Tóm lại, 16 câu cuối bài Việt Bắc là một đoạn thơ đầy cảm xúc, thể hiện sâu sắc tình cảm cách mạng: nhớ thương Bác Hồ, lòng biết ơn với Đảng và hi vọng về tương lai hòa bình, thịnh vượng. Bằng giọng thơ tha thiết, hình ảnh mộc mạc nhưng giàu biểu tượng, và lối diễn đạt gần gũi với ngôn ngữ dân gian, Tố Hữu đã chạm đến trái tim người đọc bằng tình cảm chân thật và tinh thần lạc quan sâu sắc. Đây chính là kết tinh của một hồn thơ cách mạng trữ tình đậm chất Việt Nam.
Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc - mẫu 5
Trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam, Tố Hữu là ngòi bút trữ tình – chính trị tiêu biểu, luôn dùng thơ để nói lên tiếng lòng của một người chiến sĩ yêu nước, tha thiết với Đảng, với Bác Hồ và nhân dân. Việt Bắc là đỉnh cao nghệ thuật trong sự nghiệp sáng tác của ông, kết tinh cảm xúc của một thời kỳ kháng chiến gian khổ nhưng đầy nghĩa tình. Đặc biệt, 16 câu thơ cuối bài không chỉ là một lời chia tay, mà còn là biểu hiện sống động của lòng biết ơn sâu sắc, nỗi nhớ khôn nguôi và niềm tin lạc quan vào tương lai dân tộc.
Mở đầu đoạn thơ, hình ảnh Bác Hồ được nhắc đến với tất cả sự trân quý và yêu thương:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Tác giả mở lời như một cuộc trò chuyện thân mật. “Mình về” là lời nói của người ở lại, “với Bác” không chỉ là sự di chuyển địa lý mà còn là về với trung tâm đầu não của cách mạng. Cụm từ “thưa giùm” như một lời gửi gắm chân tình, thể hiện nỗi niềm của núi rừng Việt Bắc luôn hướng về Bác bằng tình cảm sâu nặng, thủy chung.
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Hình ảnh Bác hiện lên qua lăng kính mộc mạc mà đầy yêu kính của người dân Việt Bắc. Bác được gọi một cách thân thiết là “Ông Cụ”, gần gũi như người trong gia đình. “Mắt sáng ngời” là ánh mắt của trí tuệ, niềm tin và nghị lực. Chiếc áo nâu và túi vải vốn giản dị, nhưng qua con mắt yêu thương lại trở thành “đẹp tươi lạ thường”, bởi trong sự đơn sơ ấy là cả một tâm hồn cao cả, một con người sống vì dân vì nước.
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Những câu thơ này tái hiện lại hình ảnh Bác trong đời sống sinh hoạt thường ngày nơi chiến khu. Giữa sương sớm và tiếng suối róc rách, dáng Bác “ung dung yên ngựa” hiện lên bình dị mà thanh cao. Những bước chân của Người in hằn trên từng cung đường, ngọn đèo. Đặc biệt, câu thơ “rừng núi trông theo bóng Người” không chỉ là hình ảnh nhân hóa, mà còn là biểu tượng của lòng dân luôn dõi theo, trân quý và lưu luyến khi Bác rời đi. Thiên nhiên cũng như thấm đẫm tình người, trở thành nhân chứng cho mối quan hệ sâu nặng giữa Bác với mảnh đất cách mạng.
Nếu phần đầu là nỗi nhớ và sự tôn kính với Bác Hồ, thì sáu câu tiếp theo là tấm lòng biết ơn son sắt với Đảng:
Lòng ta ơn Đảng đời đời
Ngược xuôi, đôi mặt một lời song song.
Ngàn năm xưa, nước non Hồng
Còn đây, ơn Đảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.
Lời thơ dứt khoát mà tha thiết. “Lòng ta ơn Đảng đời đời” là sự khẳng định vững chắc tình cảm thủy chung mà nhân dân dành cho Đảng – người dẫn dắt dân tộc đi qua những tháng năm gian lao. Hình ảnh “đôi mặt một lời song song” thể hiện sự đồng hành, gắn bó giữa Đảng và nhân dân, như hai đường thẳng song song không bao giờ chia lìa. Những mốc thời gian “ngàn năm xưa” và “ngàn năm mai sau” kéo dài mạch cảm xúc, đặt vai trò của Đảng trong dòng chảy lịch sử từ quá khứ đến tương lai. Càng đi qua thử thách, lòng dân với Đảng lại càng đậm đà, sâu sắc – “càng sâu càng nồng”.
Khép lại đoạn thơ là hai câu thơ mang gam màu tươi sáng, mở ra hình ảnh của một ngày mai đoàn tụ trong khúc ca chiến thắng:
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.
Nếu phần trên là những dòng hoài niệm thì hai câu thơ cuối là một lời hứa, một khát vọng. “Cầm tay nhau” là cử chỉ thân thương gắn kết, còn “hát vui chung” là âm vang của niềm hạnh phúc tập thể. “Hát cùng Thủ đô” là hình ảnh của ngày vui chiến thắng, khi cách mạng thành công, đất nước thống nhất, mọi người có thể sum họp trong không khí hân hoan. Không có bi lụy chia xa, đoạn thơ kết lại bằng niềm tin yêu rạng rỡ, hướng về tương lai tươi đẹp.
Tóm lại, 16 câu cuối bài Việt Bắc là lời chia tay nhưng cũng là lời hẹn gặp, là nỗi nhớ nhưng cũng là niềm tin. Qua hình ảnh Bác Hồ gần gũi mà thiêng liêng, qua lòng biết ơn với Đảng sâu sắc và âm hưởng lạc quan trong những dòng thơ cuối, Tố Hữu đã khẳng định tình cảm cách mạng như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ. Bằng bút pháp trữ tình đặc trưng, giọng điệu ngọt ngào, thấm đượm hồn dân tộc, đoạn thơ đã để lại dư âm sâu lắng trong lòng người đọc và khép lại bài thơ bằng một tiếng nói trọn vẹn của tình yêu nước, yêu cách mạng.
Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc - mẫu 6
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học cách mạng Việt Nam. Thơ ông luôn gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp cách mạng, thể hiện lý tưởng cộng sản và tình cảm thiết tha với đất nước, nhân dân. Việt Bắc là tác phẩm tiêu biểu của Tố Hữu viết sau chiến thắng Điện Biên Phủ, đánh dấu thời khắc lịch sử khi Trung ương rời chiến khu về tiếp quản Thủ đô. Trong 16 câu thơ cuối của bài, Tố Hữu đã gửi gắm những tình cảm chân thành, sâu nặng: nỗi nhớ tha thiết với Bác Hồ, lòng biết ơn đối với Đảng và niềm tin rạng rỡ vào tương lai dân tộc.
Ngay từ những câu thơ đầu tiên của đoạn kết, hình ảnh Bác Hồ hiện lên qua lời nhắn gửi của người ở lại với tất cả sự trân trọng và xúc động:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Lời thơ nhẹ nhàng mà thắm đượm ân tình. “Mình về với Bác” là cách nói gần gũi, gợi tình cảm thân thiết như trong gia đình. Từ “thưa giùm” thể hiện sự gửi gắm đầy xúc động, như một lời nhắn nhỏ nhẹ nhưng nặng nghĩa. Trong ký ức của người dân Việt Bắc, Bác Hồ hiện lên là “Ông Cụ” có “mắt sáng ngời” – đôi mắt mang ánh sáng của trí tuệ, của niềm tin yêu. Chiếc “áo nâu túi vải” mộc mạc mà “đẹp tươi lạ thường” – đẹp bởi sự giản dị, bởi vẻ đẹp tâm hồn và phong cách sống thanh cao của một con người vĩ đại. Tố Hữu đã khắc họa chân dung Bác không bằng những hình ảnh cao xa, mà bằng chính những chi tiết đời thường, gần gũi với nhân dân.
Tiếp nối dòng cảm xúc ấy, nhà thơ tái hiện lại những khoảnh khắc gắn bó giữa Bác và núi rừng Việt Bắc:
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Không gian thơ thoáng đãng, yên bình với tiếng “suối reo”, sương sớm và con đường đèo uốn lượn. Trong khung cảnh ấy, Bác hiện lên thật bình dị và thanh thản. Hình ảnh “ung dung yên ngựa” thể hiện thần thái tự tại, đầy bản lĩnh của một vị lãnh tụ giữa thiên nhiên. Từng bước đi của Bác gắn bó với từng lối mòn, từng ngọn đèo của Việt Bắc, và mỗi bước chân Người đều để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng nhân dân. Câu thơ cuối “Người đi, rừng núi trông theo bóng Người” vừa có ý nghĩa nhân hóa thiên nhiên, vừa diễn tả tình cảm tha thiết, luyến lưu của núi rừng đối với Bác – như chính tấm lòng người dân Việt Bắc vẫn luôn dõi theo bóng dáng thân thương ấy.
Sáu câu thơ tiếp theo là tiếng nói tri ân với Đảng – người dẫn đường cho dân tộc vượt qua bao thử thách:
Lòng ta ơn Đảng đời đời
Ngược xuôi, đôi mặt một lời song song.
Ngàn năm xưa, nước non Hồng
Còn đây, ơn Đảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.
Từ những cảm xúc riêng chuyển sang tình cảm lớn lao với Đảng, lời thơ vang lên như một lời khẳng định thiêng liêng. “Lòng ta ơn Đảng đời đời” là lời tri ân được nói ra từ sâu thẳm trái tim, là sự biết ơn không gì lay chuyển. Hình ảnh “đôi mặt một lời song song” tượng trưng cho sự đồng thuận, thống nhất giữa Đảng và nhân dân – hai lực lượng cùng nhìn về một hướng, cùng bước trên một con đường. Tố Hữu đưa người đọc ngược dòng lịch sử về “nước non Hồng”, từ buổi đầu dựng nước để khẳng định vai trò lịch sử của Đảng trong việc “nối dòng dài lâu” – tiếp nối truyền thống yêu nước, bảo vệ đất nước. Càng nhìn về tương lai “ngàn năm sau”, tấm lòng với Đảng lại càng “sâu”, càng “nồng” – một thứ tình cảm thiêng liêng, không phai nhạt qua thời gian.
Khép lại đoạn thơ là hai câu mang sắc thái tươi vui, rộn ràng:
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.
Sau những dòng hồi tưởng và biết ơn, lời thơ chuyển sang âm hưởng của niềm vui, niềm tin. Hình ảnh “cầm tay nhau” gợi sự thân thiết, đoàn kết. “Hát vui chung” và “hát cùng Thủ đô” không chỉ là lời hứa, mà còn là ước mơ về một ngày hội lớn – ngày đất nước thanh bình, non sông quy tụ, nhân dân đoàn tụ trong ánh sáng tự do. Hai câu thơ khép lại bài thơ bằng sự lạc quan, khát vọng, thể hiện niềm tin sắt đá vào thắng lợi và tương lai tươi sáng của dân tộc.
Tóm lại, 16 câu thơ cuối bài Việt Bắc là một bản hòa âm đẹp đẽ giữa tình cảm riêng và lý tưởng lớn. Tố Hữu đã khéo léo kết hợp chất trữ tình truyền thống với tinh thần cách mạng để thể hiện hình ảnh Bác Hồ bình dị mà cao cả, lòng biết ơn sâu sắc với Đảng và niềm tin son sắt vào ngày mai. Với thể thơ lục bát mềm mại, ngôn ngữ gần gũi, hình ảnh sâu sắc, đoạn thơ đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc và trở thành một phần không thể thiếu của nền thơ ca dân tộc.
Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc - mẫu 7
Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của nền thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại. Trong suốt sự nghiệp sáng tác, ông luôn gắn bó sâu sắc với lý tưởng cộng sản, đồng thời thể hiện một tâm hồn trữ tình đậm đà bản sắc dân tộc. Việt Bắc là một trong những bài thơ nổi bật của ông, viết vào năm 1954 – thời điểm quân và dân ta giành thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ và các cơ quan Trung ương chuẩn bị rời chiến khu trở về Thủ đô. 16 câu thơ cuối bài Việt Bắc là lời chia tay nhưng không nhuốm màu bi lụy, mà ngược lại, thấm đẫm niềm tin, sự tri ân và tình cảm sâu nặng với Bác Hồ, với Đảng, và với tương lai đất nước.
Tám câu thơ đầu trong đoạn trích là một khúc hoài niệm về hình ảnh Bác Hồ – người cha già của dân tộc – trong mắt người dân Việt Bắc:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Hình ảnh Bác được hiện lên đầy gần gũi mà vẫn thiêng liêng. Cách gọi “Ông Cụ” thể hiện tình cảm thân thiết, gần gũi như người thân ruột thịt. “Mắt sáng ngời” là đôi mắt mang ánh sáng của trí tuệ, của niềm tin và lý tưởng cách mạng. Chiếc “áo nâu túi vải” – biểu tượng của sự giản dị – lại được miêu tả là “đẹp tươi lạ thường”, bởi chính từ sự đơn sơ ấy toát lên vẻ đẹp cao cả của một con người vĩ đại. Những hình ảnh thơ như “ung dung yên ngựa”, “trên đường suối reo”, hay “bước lên đèo” không chỉ miêu tả dáng vẻ phong thái của Bác, mà còn gợi ra sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Đặc biệt, câu thơ “Người đi, rừng núi trông theo bóng Người” tạo nên cảm giác thiên nhiên cũng mang nặng ân tình với Bác – một hình tượng thiêng liêng, bất tử trong lòng dân tộc.
Không chỉ dừng lại ở tình cảm với Bác Hồ, sáu câu thơ tiếp theo thể hiện tấm lòng biết ơn sâu sắc của người cán bộ kháng chiến với Đảng:
Lòng ta ơn Đảng đời đời
Ngược xuôi, đôi mặt một lời song song.
Ngàn năm xưa, nước non Hồng
Còn đây, ơn Đảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.
Câu thơ “Lòng ta ơn Đảng đời đời” mở đầu như một lời thề, một lời khẳng định về niềm tin vững chắc, trường tồn đối với Đảng – lực lượng lãnh đạo cao nhất trong cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc. Hình ảnh “đôi mặt một lời song song” mang ý nghĩa tượng trưng, diễn tả sự đoàn kết, đồng lòng giữa Đảng và nhân dân – hai lực lượng không thể tách rời trong cuộc hành trình lịch sử. Các mốc thời gian “ngàn năm xưa”, “ngàn năm sau” tạo nên chiều sâu lịch sử và tầm vóc trường tồn cho mối ân tình ấy. Càng về sau, lòng biết ơn ấy không chỉ được khẳng định, mà còn được nâng lên thành niềm tin vững bền vào con đường tương lai mà Đảng đã dẫn lối.
Kết lại đoạn thơ là hai câu ngắn gọn, nhưng tràn đầy niềm tin và lạc quan vào ngày mai tươi sáng:
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.
Đây là một hình ảnh đẹp đẽ, giàu cảm xúc. Cử chỉ “cầm tay nhau” không chỉ biểu hiện cho sự gắn bó giữa những người chiến sĩ với nhân dân Việt Bắc, mà còn là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc. Câu thơ cuối “hát cùng Thủ đô” mang âm hưởng vui tươi, lạc quan, hướng đến một ngày mai hội ngộ trong hòa bình. Cuộc chia tay không hề buồn bã, trái lại, ngập tràn niềm tin và kỳ vọng vào một tương lai rực rỡ khi đất nước thanh bình, nhân dân được sống trong tự do, hạnh phúc.
Tóm lại, 16 câu thơ cuối bài Việt Bắc là một kết thúc hoàn hảo, gói trọn bao tình cảm sâu sắc: nỗi nhớ Bác Hồ kính yêu, lòng biết ơn Đảng Cộng sản và niềm tin bất diệt vào ngày mai của Tổ quốc. Với thể thơ lục bát giàu nhạc tính, ngôn từ mộc mạc mà gợi cảm, hình ảnh chân thực mà giàu sức gợi, Tố Hữu đã viết nên một bản tình ca cách mạng đầy cảm xúc, để lại trong lòng người đọc dư âm lắng sâu và niềm xúc động chân thành.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Phân tích 16 câu giữa Vội vàng
- Phân tích 18 câu đầu của bài Trao duyên
- Phân tích 2 câu đầu bài Chiều tối
- Phân tích 2 câu đầu bài Tỏ lòng
- Phân tích 2 câu đầu bài Tự tình
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

