10+ Phân tích 4 câu đầu Việt Bắc (điểm cao)
Phân tích 4 câu đầu Việt Bắc điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
10+ Phân tích 4 câu đầu Việt Bắc (điểm cao)
Dàn ý Phân tích 4 câu đầu Việt Bắc
1. Mở bài
- Đôi nét về tác giả Tố Hữu, bài thơ Việt Bắc.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: 4 câu thơ đầu.
2. Thân bài
- Nội dung 4 câu thơ đầu: lời tâm tình của người ở lại trong giờ phút chia li đầy quyến luyến, bịn rịn.
+ “ Mười lăm năm” => Chiều dài thời gian gắn bó.
+ Hình ảnh “cây, núi, sống” => Gợi nhắc về chuyện đạo lí ân tình.
+ “Mình, ta” => Là những đại từ xưng hô mang âm điệu ngọt ngào.
+ Điệp “nhớ” => Tô đậm nỗi nhớ.
- Đánh giá nghệ thuật.
+ Thể thơ lục bát được sử dụng nhịp nhàng.
+ Hình ảnh thơ sinh động, giàu sức biểu cảm.
3. Kết bài
- Bốn câu thơ đầu là lời tâm tình kẻ ở muốn nhắn nhủ đến người về xuôi, dù phải chia xa nhưng cũng đừng quên khoảng thời chúng ta đã cùng nhau gắn bó, nghĩa tình.
Phân tích 4 câu đầu Việt Bắc - mẫu 1
Với tất cả niềm yêu thương và sự trân trọng, các nhà văn, nhà thơ- họ đã vẽ nên những bức tranh về cuộc đời đầy sinh động qua từng vần thơ. Là một người chiến sĩ, sớm được giác ngộ lí tưởng và hoạt động cách mạng từ khi còn trẻ. Tố Hữu với rất nhiều những sáng tác, ông đã tái hiện lại các chặng đường Cách mạng dân tộc. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến Việt Bắc- một tác phẩm mang đậm phong cách nghệ thuật của Tố Hữu. Trong đó, chỉ với bốn câu đầu bài thơ Việt Bắc đã nói lên tình cảm gắn bó son sắt của đồng bào nhân nhân Việt Bắc dành cho những cán bộ cách mạng về xuôi.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười năm lăm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Tố Hữu là lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông tiêu biểu cho phong cách trữ tình chính trị và đậm đà bản sắc dân tộc. Các tác phẩm của ông luôn hướng tới cái ta chung, mang một tình cảm lớn, lẽ sống lớn và niềm vui lớn.
Tập thơ Việt Bắc được tác giả sáng tác viết một sự kiện lịch sử quan trọng. Vào tháng 10 năm 1954, sau khi miền Bắc đã được giải phóng, chủ tịch Hồ cùng Trung ương Đảng và chính phủ đã họp và quyết định rời chiến khu Việt Bắc trở về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Bài thơ là tái hiện khung cảnh chia li bịn rịn, lưu luyến giữa đồng bảo Việt Bắc với những cán bộ cách mạng.
Người ở lại thường không yên lòng, họ lo lắng rằng khi nhưng cán bộ trở về xuôi sẽ không còn nhớ tới mình, sẽ quên đi bao tháng ngày chung sống đầy kỉ niệm.
“Mình về mình có nhớ ta?”
Câu thơ đầu là một câu hỏi tu từ mà kẻ ở muốn hỏi người về xuôi. Việc sử dụng đại từ nhân xưng mình- ta đã gợi nên mối quan hệ thân mật, gần gũi, kết hợp cùng điệp khúc “mình về mình có nhớ” được lặp lại hai lần, qua đó đã bộc lộ những nỗi niềm băn khoăn, trăn trở, gợi nhắc người ra đi đừng quên những kỉ niệm nghĩa tình sâu nặng nơi núi rừng Việt Bắc.
“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
“mười lăm năm” là quãng thời gian không dài cũng chẳng ngắn. Nhưng quãng thời gian ấy lại chứa đựng bao kỉ niệm khó quên từ buổi đầu thành lập chiến khu cho đến giờ phút chia tay đầy thương nhớ này. Nợi đây đã hằn sâu những dấu tích không thể nào phai của những năm tháng kháng chiến đầy đầy gian khổ mà hào hùng. Qua đó, người ở lại đã nhắc nhở người ra đi nhớ về nghĩa tình cách mạng thắm thiết, thủy chung trong suốt “mười lăm năm ấy”. Câu thơ trên nghe thì giống như ca dao, nhưng lại phảng phất âm hưởng của câu thơ Kiều:
“Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”
Không chỉ gợi nhắc nỗi nhớ về thời gian, Việt Bắc còn gợi nhắc người ra đi nhớ về thiên nhiên, cảnh vật, của núi rừng Việt Bắc:
“Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Một loạt hình ảnh hiện ra như: “cây, núi, sông, nguồn” trước hết những hình ảnh này mang ý nghĩa tả thực, là hình ảnh thiên nhiên quen thuộc mà người cách mạng đã gắn bó trong những tháng ngày kháng chiến ở mảnh đất Việt Bắc, không chỉ thế, câu thơ trên gợi nhắc người chiến sĩ về một đạo lí: cây sinh sôi và lớn lên ở núi, nguồn là nơi bắt đầu của những con sông. Điệp khúc “nhìn… nhớ” được lặp lại như một lời nhắc nhở với người ra đi về chiến khu Việt Bắc- cái nôi của Cách mạng.
Bằng ngòi bút tài của của mình, Tố Hữu đã viết lên những vần thơ chứa chan cảm xúc làm cho người đọc không khỏi xúc động về tình cảm chân thành, sâu nặng, thủy chung của Việt Bắc dành cho các chiến sĩ cách mang. Vơi việc sử dung linh hoạt thể thơ lục bát kết hợp với các từ láy giàu sức biểu cảm, hình ảnh hoán dụ, sinh động. Tất cả đã góp phần vẽ nên một khung cảnh giã biệt với nguồn cảm xúc dạt dào. Đó là tình cảm giữa cán bộ và nhân dân, tình cảm giữa đồng bào và đồng chí. Họ đã cùng nhau kề vai sát cánh làm nên chiến thắng vang dội của Cách mạng.
Việt Bắc không chỉ là khúc tình ca mà còn là khúc hùng ca của cách mạng. Qua tác phẩm, nhà thơ ca ngợi những con người Việt Bắc giản dị mà hiền lành, đã cùng đồng hành với những chiến sĩ trong những tháng ngày chiến đấu anh dũng, hào hùng.
Phân tích 4 câu đầu Việt Bắc - mẫu 2
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, tiêu biểu cho thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người Cách mạng. Thơ ông đậm đà tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Bài thơ "Việt Bắc" là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. "Việt Bắc" là một trong những bài thơ được xếp vào hạng những bài thơ "tống biệt" của Tố Hữu. Mặc dù là đề tài cũ, nhưng bài thơ vẫn mới mẻ bởi "Việt Bắc" ra đời trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào tháng 10/1954. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một cuộc chia ly với nỗi buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa cán bộ và nhân dân sâu đậm ân tình. Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là sự thể hiện tinh tế và sâu sắc những rung động trong trái tim của người đi và người ở trong giờ phút phân li.
Bốn câu thơ đầu là lời của người ở lại nói với người ra đi:
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tác giả mở đầu bằng một câu hỏi mang âm hưởng ca dao, tình yêu: "Mình về mình có nhớ ta". "Mình về" là hoàn cảnh để người ở lại bộc lộ nỗi niềm. "Về" gợi đến sự chia li, đó là sự chia li của người ra đi và người ở lại. Về mặt kết cấu câu thơ thì "mình" đứng ở đầu câu, còn "ta" đứng ở cuối câu thơ. Nó gợi lên cái khoảng cách giữa "ta" và "mình". Nỗi niềm gợi lên qua câu hỏi ấy của người ở lại là nỗi nhớ, tình cảm của người ở lại hướng tới người ra đi. Đứng giữa câu thơ là một từ "nhớ", nó làm cho "mình" và "ta" dường như được xích lại gần nhau hơn. Cơ sở tạo nên nỗi nhớ ấy là: "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Câu thơ phảng phất âm hưởng của thơ Kiều, nhưng từ âm hưởng đó lại vang lên nỗi niềm tình cảm của những con người trong một thời kháng chiến. "Mười lăm năm ấy" gợi đến một quãng thời gian khó khăn, một thời đau thương, mất mát. Tuy vậy, dường như tất cả mất mát đau thương ấy chìm đi, đọng lại trong câu thơ chỉ còn là tình cảm "thiết tha mặn nồng". Đó chính là sự gắn bó thân thiết, tình cảm chia bùi sẻ ngọt trong "mười lăm năm ấy" giữa "ta" và "mình". Bởi vậy, hỏi nhưng cũng chính là để bộc lộ tình cảm và hỏi chính là thể hiện mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình.
Đến câu thơ thứ ba cũng là một câu hỏi. Câu hỏi: "Mình về mình có nhớ không" cũng có sự lặp lại gần giống câu thơ đầu. Tuy vậy, đối tượng hỏi không chỉ còn bó hẹp trong mối quan hệ giữa "ta - mình" và nỗi nhớ dường như không còn chỉ hướng tới "ta", mà nỗi nhớ đó đã hướng vào đối tượng rộng lớn hơn rất nhiều, đó chính là không gian "núi rừng" và "sông nguồn". Câu hỏi gợi về không gian có "núi", có "nguồn" ở núi rừng Việt Bắc. Đây chính là không gian quen thuộc gắn với người ở lại và cũng gắn bó với cả người ra đi. Không gian đó với người ra đi và người ở lại không còn là không gian vô hồn, vô cảm mà là không gian chứa đầy kỉ niệm, nó góp phần tạo nên tình cảm cho người ra đi.
Ở trong câu thơ xuất hiện nhiều lần hai động từ chỉ hành động "nhìn" và "nhớ". Một hành động tác động vào thị giác, một hành động tác động vào tâm tưởng; một hành động hướng tới hiện tại, một hành động hướng về quá khứ. Sự đan xen giữa các hành động đó mà người ở lại đưa ra là để muốn nhắc nhở người ra đi sống ở hiện tại đừng quên về quá khứ, sống ở miền xuôi đừng quên miền ngược, đừng quên về những kỉ niệm của một thời đã qua. Đó chính là mong muốn của người ở lại nhắn nhủ tới người ra đi. Trước khi mong muốn người ra đi để nhớ thì người ở lại đã thể hiện nỗi nhớ của mình. Nỗi nhớ đó biểu đạt trực tiếp qua động từ "nhớ" xuất hiện nhiều lần ở khổ thơ, càng về cuối thì từ "nhớ" xuất hiện càng nhiều đã thể hiện cường độ nhớ ngày một tăng và nó đã tạo nên âm hưởng chủ đạo cho bài thơ. Đó là âm hưởng nhớ thương, ân tình tha thiết.
Bốn câu thơ đầu chỉ với hai câu hỏi, nhưng chủ yếu là để giãi bày tình cảm và để mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình, bởi giữa hai đối tượng đó có sự gắn bó khăng khít trong một thời kháng chiến và một vùng kháng chiến.
Phân tích 4 câu đầu Việt Bắc - mẫu 3
Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, đậm chất trữ tình. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị như tập thơ “Từ ấy”, “Máu và hoa”… trong đó tiêu biểu nhất là bài thơ “Việt Bắc” trích trong tập thơ “Việt Bắc”. Bài thơ đã thể hiện một cách thành công về nỗi nhớ nhung, tâm trạng bồi hồi, lưu luyến trong buổi chia tay của người Việt Bắc với cán bộ cách mạng. Điều đó được thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Việt Bắc là căn cứ địa cách mạng, là cái nôi kháng chiến. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 7 năm 1954, hiệp định Giơ ne vơ được kí kết. Tháng 10 năm 1954, Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử ấy Tố Hữu đã viết bài thơ “Việt Bắc”.
Câu thơ mở đầu là một câu hỏi tu từ chứa nhiều cảm xúc:
“Mình về mình có nhớ ta”
“Mình” là chỉ người ra đi - người chiến sĩ cách mạng, “ta” chính là người Việt Bắc. Câu hỏi chính là lời của người ở lại hỏi người ra đi rằng khi người chiến sĩ cách mạng về xuôi rồi còn có nhớ đến người Việt Bắc hay không? Với cách xưng hô “mình - ta” đậm chất ca dao cùng với điệp từ mình đã cho ta thấy được tình cảm gắn bó thân thiết đầy yêu thương, làm cho nỗi nhớ càng trở nên day dứt khôn nguôi. Người Việt Bắc muốn hỏi người kháng chiến có nhớ:
“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Mười lăm năm là từ chỉ thời gian, là khoảng thời gian gắn bó keo sơn giữa người chiến sĩ và người Việt Bắc. Đó là một khoảng thời gian dài cùng nhau chiến đấu, cùng nhau vượt qua biết bao gian khổ. Từ “ấy” vang lên chứ tác giả không sử dụng từ “đó” như để làm tăng thêm ý nghĩa của khoảng thời gian “mười lăm năm” đồng thời thể hiện sự trân trọng của tác giả với những ngày tháng gắn bó. Những từ “thiết tha”, “mặn nồng” là những từ nhấn mạnh tình cảm gắn bó keo sơn giữa người Việt Bắc và người cách mạng. Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh hơn về tình nghĩa thủy chung son sắt luôn hướng tới cách mạng, hướng tới những người chiến sĩ của người dân Việt Bắc.
Câu thơ tiếp theo như một lời nhắc nhở đối với người chiến sĩ cách mạng:
“Mình về mình có nhớ không”
Vẫn là câu hỏi tu từ, vẫn là cách xưng hô “mình” nhưng đây là câu hỏi vang lên như một lời nhắc nhở “có nhớ không”. Người Việt Bắc muốn nhắc nhở người chiến sĩ cách mạng về xuôi hãy nhớ đến Việt Bắc, hãy:
“Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Khi về tới Hà Nội, người cách mạng khi nhìn thấy cây ở Hà Nội phồn hoa thì hãy nhớ đến núi rừng nơi Việt Bắc. Hãy nhớ nơi gắn bó thủy chung, son sắc, nơi người cách mạng và người Việt Bắc đã cùng chiến đấu, cùng nhau vượt qua bao gian khổ. Khi nhìn thấy sông thì hãy nhớ đến nguồn, hãy nhớ đến sông núi Việt Bắc, nhớ đến những dòng sông cùng các chiến sĩ cách mạng chiến đấu. Hay đó chính là lời nhắc nhở của người Việt Bắc đối với người chiến sĩ cách mạng khi trở về xuôi nhìn thấy cảnh vật nơi phồn hoa đô thị tươi đẹp ấy thì hãy nhớ đến con người Việt Bắc, nhớ đến những ngày tháng chiến đấu gian khổ nơi núi rừng đầy hiểm trở, cheo leo. Điệp từ “nhìn” và “nhớ” dường như đã nhấn mạnh ý hỏi của người ở lại. Mong muốn những người cách mạng luôn nhớ về nơi Việt Bắc. Nơi có những con người sắt son, thủy chung, luôn mong nhớ về người cách mạng.
Bốn câu thơ đầu tiên là lời của người Việt Bắc hỏi người cán bộ về xuôi. Với lối đối đáp cách xưng hô “mình - ta”, điệp từ cùng với từ láy, đặc biệt là kết hợp với câu hỏi tu từ đã cho thấy được tình cảm gắn bó thiết tha, mặn nồng, thủy chung son sắt của người Việt Bắc. Qua đó ta có thể cảm nhận được phẩm chất tốt đẹp của con người nơi đây. Dù phải sống trong khó khăn, đồi núi hiểm trở, thiếu thốn nhưng tình yêu của họ đối với người chiến sĩ là không hề thay đổi, luôn luôn cồn cào, da diết và mãnh liệt.
Phân tích 4 câu đầu Việt Bắc - mẫu 4
Tố Hữu không phải một nhà thơ đi tìm cái mới ở những chốn xa xăm và lạ lẫm. Ông khơi nguồn cho sự mới ngay trên cái nền truyền thống của thơ ca dân tộc, để biểu đạt tình cảm yêu thương tình nghĩa. Điều này được thể hiện rất rõ qua bốn câu thơ đầu trong “Việt Bắc”.
“Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ - ne - vơ về Đông Dương được kí kết. Vào tháng 10 năm 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân dịp ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ. Tác phẩm là khúc ca ân tình về kháng chiến, con người Việt Nam trong cách mạng. Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Hai đại từ “Mình” và “ta” được lặp lại nhiều lần khiến lời thơ trở thành lời đối thoại, lời tâm tình tha thiết. Tố Hữu đã vận dụng cách xưng hô thân mật quen thuộc trong những câu ca dao, dân ca truyền thống để diễn tả nghĩa tình cách mạng. “Mình” - người cán bộ về xuôi, “ta” - người dân Việt Bắc. Cụm từ “thiết tha mặn nồng” diễn tả sự gắn bó, tình sâu nghĩa nặng giữa người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta?”, “Mình về mình có nhớ không?” vừa bộc lộ sự quyến luyến, nhớ nhung lại vừa mang âm điệu của một lời dặn dò tình nghĩa. Dù hôm nay các chiến sĩ cách mạng trở về thủ đô nhưng đừng bao giờ quên đi khoảng thời gian gắn bó “Mười lăm năm ấy”, hãy mãi khắc ghi hình ảnh con người và thiên nhiên Việt Bắc trong lòng. Câu thơ “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” gợi nhắc đến truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” quý báu của dân tộc. Núi rừng Việt Bắc đã cưu mang, che chở cho cán bộ cách mạng. Nhờ có những người dân nơi đây mà kháng chiến mới thắng lợi vẻ vang, hòa bình được lập lại. Ân tình ấy không thể nào quên!
Đoạn thơ đầu đã khắc họa khung cảnh chia tay đầy xúc động giữa người dân Việt Bắc với các cán bộ cách mạng. Qua đó, nhà thơ ca ngợi tình cảm thủy chung, son sắt của con người Việt Nam trong những năm kháng chiến gian lao.
Phân tích 4 câu đầu Việt Bắc - mẫu 5
Nhà thơ Tố Hữu là một trong những nhà thơ đi đầu trong phong trào thơ ca Cách mạng, là nhà thơ tiêu biểu nhất cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Chặng đường nghệ thuật của ông gắn liền với những hình ảnh, sự kiện nổi bật của dân tộc. Một trong số đó phải kể đến bài thơ Việt Bắc - một bài thơ đỉnh cao trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Đặc biệt, chỉ với bốn câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã tái hiện niềm yêu thương, nỗi nhớ mong bồi hồi lưu luyến của người dân Việt Bắc với cán bộ Cách mạng:
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Câu thơ mở đầu là một câu hỏi tu từ với biết bao cảm xúc chất chứa trong đó: "Mình về mình có nhớ ta". "Mình" chỉ những người chiến sĩ Cách mạng, những người đã hoàn thành nhiệm vụ và phải ra đi, "ta" chính là những người đồng bào ở Việt Bắc. Câu hỏi ấy như một nỗi niềm khó tả của người ở lại, họ muốn biết rằng những người chiến sĩ cách mạng ấy khi về miền xuôi rồi còn nhớ đến những người Việt Bắc hay không? Cách xưng hô "mình - ta" mang đậm nét dân gian trong các câu ca dao, nó thể hiện một tình cảm gắn bó đầy yêu thương khiến cho nỗi nhớ ngày càng da diết, khôn nguôi khó tả.
"Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng"
Mười lăm năm không quá dài nhưng cũng chẳng ngắn, là khoảng thời gian gắn bó bền chặt của những người chiến sĩ cách mạng với con người vùng đất Việt Bắc. Quãng thời gian ấy họ đã cùng nhau chiến đấu, cùng nhau vượt qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ. Từ "ấy" được tác giả sử dụng đã làm tăng thêm ý nghĩa của khoảng thời gian này, thể hiện sự trân trọng với những tháng ngày ở Việt Bắc ấy. Những từ "thiết tha", "mặn nồng" lại một lần nữa nhấn mạnh thêm tình cảm keo sơn giữa những người Việt Bắc với người cách mạng. Qua đây, tác giả đã cho người đọc cảm nhận được nghĩa tình, tấm lòng luôn hướng đến cách mạng của những người dân Việt Bắc.
Hai câu thơ tiếp theo như lời nhắc nhở dành cho những người ra đi:
"Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn"
Nhà thơ lại một lần nữa sử dụng câu hỏi tu từ, cách xưng hô "mình" để nhắc nhở những người chiến sĩ Cách mạng hãy nhớ đến Việt Bắc khi đã về miền xuôi. Cho dù có về nơi phố xá phồn hoa thì vẫn hãy nhớ tới nơi núi rừng Việt Bắc, nơi mà họ đã chiến đấu, cùng nhau vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ. Khi mà nhìn thấy cây hãy nhớ đến nơi núi rừng, nhìn sông hãy nhớ đến nguồn, hãy nhớ về nơi núi rừng Việt Bắc đã cùng những người chiến sĩ vượt qua biết bao khó khăn gian khổ, cùng nhau chiến đấu anh hùng. Các điệp từ "nhìn", "nhớ" đã nhấn mạnh ý hỏi của người ở lại, cũng như để khẳng định mong muốn những người chiến sĩ hãy luôn nhớ về Việt Bắc - nơi có những con người son sắt, thuỷ chung, luôn một lòng hướng về cách mạng.
Chỉ với bốn câu thơ lục bát ngắn gọn nhưng nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được biết bao ý nghĩa trong đây. Chúng ta thấy được tình cảm thuỷ chung son sắt, sự gắn bó đầy sâu đậm giữa người đi - người ở. Nhà thơ còn sử dụng các nghệ thuật như lối đối đáp, cách xưng hô mình - ta, điệp từ, hình ảnh hoán dụ... rất thành công. Nó đã thể hiện sự tiêu biểu trong phong cách thơ của Tố Hữu.
Qua đoạn thơ này chúng ta đã hiểu được tình cảm, sự yêu thương mà người Việt Bắc với những người chiến sĩ cách mạng dành cho nhau. Thứ tình cảm ấy không phải là sự hoa mĩ, tô vẽ mà là những thứ chân thành xuất phát từ trái tim đầy yêu thương. Tám câu thơ trong bài thơ "Việt Bắc" đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng đầy sâu sắc về tình cảm gắn bó này.
Phân tích 4 câu đầu Việt Bắc - mẫu 6
Những ngày tháng chiến đấu chống thực dân Pháp đầy gian khổ của nhân dân ta cuối cùng cũng dành được thắng lợi vô cùng vẻ vang, huy hoàng. Để làm nên thành công đó không thể không nhắc đến đóng góp của thơ văn cổ vũ cách mạng nêu lên tinh thần đấu tranh, khí thế hừng hực của nhân dân ta. Tố Hữu chính là một nhà thơ lớn, có những tác phẩm vô cùng nổi bật ở giai đoạn này. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông nói về tình cảm khăng khít, gắn bó sâu nặng giữa quân và dân ta là bài thơ Việt Bắc. Mở đầu là 4 câu thơ nói về không gian chia tay của người đi - kẻ ở.
Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng thể hiện lẽ sống, lí tưởng, tình cảm của con người Việt Nam hiện đại. Thơ ông mang đậm chất trữ tình chính trị sâu sắc: hướng đến cái chung về lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và của cả dân tộc, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính toàn dân. Bên cạnh đó, ông còn là nhà thơ khéo léo trong việc kết hợp các biện pháp nghệ thuật: Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm thắm, chân thành; vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng cách nói quen thuộc với dân tộc. Đặc biệt ông phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, từ láy, thanh điệu, vần thơ,…
Tập thơ Việt Bắc là một trong những sáng tác vô cùng nổi tiếng của ông. Bài thơ là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những con người kháng chiến; ca ngợi Đảng và Bác Hồ, tình quân - dân, tiền tuyến - hậu phương, miền xuôi - ngược, cán bộ - quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, thiên nhiên, đất nước con người,…
Mở đầu đoạn trích là khung cảnh chia tay của người ở lại và người chiến sĩ ra đi, trở về miền xuôi:
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”
Người ở lại mở lời bắt đầu cho cuộc đối thoại giữa người đi - kẻ ở trong khung cảnh chia tay. Bao nhiêu suy tư, trăn trở của người ở lại được gửi gắm vào những câu hỏi dành cho người ra đi: liệu rằng người ra đi có nhớ về khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó thiết tha, mặn nồng đã qua hay không? Có nhớ về con người, thiên nhiên, căn cứ đầu não cách mạng của nơi này hay không? Chỉ với bốn câu thơ nhưng người dân Việt Bắc đã tái hiện toàn bộ những gì hai bên đã có với nhau: đó là thời gian dài đằng đẵng, là những kỉ niệm đã có cùng nhau. Tố Hữu vô cùng khéo léo khi vận dụng cách xưng hô “mình - ta” vốn được dùng trong lối đối đáp xưa vào bài thơ của mình cùng với câu hỏi tu từ, điệp từ “nhớ” càng gây ấn tượng với bạn đọc về nét giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng chân thành của con người nơi đây.
Có lẽ vì thế mà quê hương cách mạng Việt Bắc đã không ngần ngại chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu viết nên thi phẩm cùng tên. Nhiều năm tháng qua đi nhưng tác phẩm vẫn giữ nguyên những giá trị, ý nghĩa tốt đẹp của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Phân tích 4 câu đầu Việt Bắc - mẫu 7
Tố Hữu là một trong những thi sĩ trữ tình chính trị. Vừa tham gia chiến đấu nên thơ ông dành rất nhiều tình cảm cho con người và lý tưởng sống của Cách mạng Việt Nam. Trong đó, tác phẩm “Việt Bắc” là bài thơ thấm đượm hồn thơ của Tố Hữu và là bản hùng ca về kháng chiến chống Pháp.
Tác phẩm được viết nhân sự kiện các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ phải rồi chiến khu Việt Bắc để về Thủ đô, sau hiệp định Giơnevơ được ký kết thành công vào tháng 10 năm 1954. Bài thơ không chỉ ghi lại mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc mà còn là lời tâm sự đầy yêu thương, thể hiện tình cảm son sắt thủy chung của người đi và chiến khu Việt Bắc. Cảnh chia ly bịn rịn ấy được khắc họa chân thực, sinh động và xúc động của bốn cầu thơ đầu:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Theo lịch sử Việt Nam, thì Việt Bắc là tên gọi chung của sáu tỉnh phía Bắc thời kháng chiến chống Pháp, là Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, được viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Đây là khu căn cứ địa kháng chiến, được Đảng và Chính phủ thành lập từ năm 1940. Chính ở nơi đây, nhân dân Việt Bắc và cán bộ chiến sĩ đã trải qua 15 năm gắn bó nghĩa tình, keo sơn, từ 1940 đến 1954.
Sau khi quân ta đánh bại quân giặc để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vẻ vang, rúng động thế giới, thì đến tháng 10.1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt Bắc. Cảnh và người trong buổi chia ly có 1-0-2 ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho tác giả viết nên bài thơ “Việt Bắc” nổi tiếng. Xuyên suốt tác phẩm là nỗi niềm thương nhớ về những năm tháng chiến tranh gian khổ mà đầy nghĩa tình của quân và dân.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng một câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao: “Mình về mình có nhớ ta”. “Mình về” ở đây tiết lộ cho độc giả thấy hoàn cảnh để đưa đến nỗi niềm của người ở lại. Đó là đang tiễn người đi về nhà. Chữ “mình” và “ta” được sắp xếp đứng cách xa nhau và chữ “nhớ” được đứng ở giữa. Điều đó thể hiện, dù mình và ta có cách xa nhau bao nhiêu thì vẫn nhớ mãi về nhau. Nỗi nhớ ấy dựa trên 15 năm gắn bó thiết tha mặn nồng: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” . Dường như, câu thơ mang dáng dấp nỗi nhớ trong thơ Kiều: “Mười lăm năm ấy biết bao là tình”. Nhưng nếu như Kiều là tình yêu thì ở đây là tình đồng chí, đồng bào trong một thời kháng chiến đầy gian lao, khốc liệt. 15 năm với biết bao đau thương mất mát, giờ đây chỉ còn là tình cảm thiết tha mặn nồng. 15 năm là quãng thời gian có thể ví như là ¼ đời người. Người ở và người đi đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, đã cùng vào sinh ra tử. Vì thế, nói chia ly sao mà xót xa đến thế!
Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc ta càng thấy trân trọng hơn tình cảm của người dân Việt Nam dành cho nhau trong gian khổ. Dường như càng khốc liệt bao nhiêu thì con người càng yêu mến nhau, đùm bọc che chở cho nhau nhiều hơn. Chính vì thế, câu sau tác giả lại tiếp tục thêm câu hỏi tu từ: “Mình về mình có nhớ không”. Giờ đây, mình và ta đã hòa thành một. Nỗi lòng của người ở cũng như của người đi, tất cả đều là nỗi nhớ. Và nỗi nhớ ấy không chỉ dừng lại ở nội tâm mà lan rộng ra cả núi rừng, sông suối “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đây như vừa là lời nhắn nhủ của người ở lại với người đi rằng, sau này dù đi đâu về đâu khi nhìn thấy cây thì cũng hãy nhớ tới núi rừng Việt Bắc, khi nhìn thấy sông thì cũng nhớ tới cội nguồn chiến khu này. Đồng thời cũng vừa là lời hứa của người đi rằng sẽ luôn nhớ về chiến khu Việt Bắc từ núi cho tới nguồn mỗi khi nhìn thấy cây, thấy sông.
Trong câu thơ xuất hiện hai từ chỉ hành động “nhìn” và “nhớ”. Một hành động mô tả hoạt động thị giác, một động từ mô tả hoạt động trong tâm tưởng. Nhìn là đang nói về hiện tại, tương lai. Nhớ là nói về quá khứ. Điều này nhấn mạnh rằng dù người ở và người đi tương lai có như thế nào thì vẫn nhớ về quá khứ bên nhau. Động từ “nhớ” xuất hiện với tần suất dày, như để khẳng định như để khắc sâu hơn vào tâm hồn người và cảnh Việt Bắc về nỗi nhớ. Đồng thời qua đây ta có thể cảm nhận được tấm lòng chân thực, tình cảm chân thành của người dân miền núi dành cho chiến sĩ. Dù nghèo khổ ra sao, nguy hiểm, gian lao thế nào, họ vẫn luôn dành cho các cán bộ miền xuôi một tình cảm da diết và mãi vững bền qua năm tháng.
Qua bốn câu thơ đầu độc giả vô cùng cảm động trước tình cảm chân thành sâu sắc giữa bà con chiến khu Việt Bắc với các cán bộ, chiến sĩ Cách mạng. Nếu như, 15 năm người ta sống trong sung sướng, sang giàu chưa chắc đã gắn bó, nghĩa tình như khi người ta sống trong gian khổ hiểm nguy. Bởi thế, khi phải nói lời chia tay, mối thâm tình ấy của người đi và người ở càng thêm day rứt, luyến lưu.
Vì là người trong cuộc, lại là một hồn thơ yêu nước nên nhà thơ Tố Hữu đã vẽ nên bức tranh thật sinh động, tuy mộc mạc, giản dị nhưng thấm đượm tính nhân văn.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Phân tích 4 câu đầu Vội vàng
- Phân tích 4 khổ thơ đầu bài Sóng
- Phân tích 6 câu đầu Bài ca ngất ngưởng
- Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ
- Phân tích 6 câu đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

