10+ Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ (điểm cao)
Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ
- Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ (mẫu 1)
- Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ (mẫu 2)
- Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ (mẫu 3)
- Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ (mẫu 4)
- Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ (mẫu 5)
- Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ (mẫu 6)
- Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ (mẫu 7)
10+ Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ (điểm cao)
Dàn ý Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ
1. Mở bài
- Thương vợ được viết khoảng năm 1896 - 1897. Bà Tú tên Phạm Thị Mẫn, là người vợ hiền thục đảm đang, tần tảo lo cho chồng con, nên tác giá rất quý trọng và có viết một số bài thơ về bà. Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện ra phía trước, ỏng Tú khuất ở phía sau, nhìn kĩ mới nhận ra và hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn tri ân vợ.
- Đặc biệt, bài Thương vợ thể hiện lòng thương quý và biết ơn người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh cho chồng con.
2. Thân bài
a) Việc mưu sinh vất vả của bà Tú
- Việc mưu sinh vất vả của bà Tú được diễn ta trong bốn câu đầu.
- Thời gian (quanh năm), công việc (buôn bán), không gian (ở mom sông): quanh năm bà Tú miệt mài buôn bán vất vả ở mom sông, lo liệu việc mưu sinh cho cả nhà và nuôi lũ con (năm con), lại nuôi luôn cá chồng (với một chồng). Lối nói úp mở vừa hóm hỉnh trong hai câu 1, 2 vừa nhấn mạnh lòng biết ơn pha lẫn sự ăn năn và tỏ ý thương quý bà Tú.
- Câu 3 mượn hình ảnh con cò trong ca dao, có sử dụng biện pháp đảo ngữ (lặn lội thân cò để diễn tả việc buôn bán vất vả của bà Tú, lặn lội cả những nơi vắng vẻ, nguy hiểm (nơi quãng vắng). Câu 4 tả cảnh bà Tú phải chen chúc trên mặt nước vào những buổi đò đông, eo sèo mua bán thật tất bật, nhọc nhằn.
b) Những đức tính cao đẹp của bà Tú
- Bà Tú là ngươi đảm dang, tháo vát, chu đáo với chồng con:
Nuôi đủ năm con với một chồng.
- Trong hai câu 5 và 6, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự quên mình của vợ:
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
- Duyên một mà nợ hai nhưng bà Tú không một lời phàn nàn, lặng lẽ chấp nhận sự vất vả vì chồng con.
- Nắng mưa chỉ sự vất vả, năm, mười là số lượng phiếm chỉ để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo ("năm nắng mười mưa"), vừa nói lên sự vất vả gian truân, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.
3. Kết bài
- Xã hội xưa "trọng nam khinh nữ", coi người phụ nữ là thân phận phụ thuộc. Một nhà nho như Tú Xương dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là "quan ăn lương vợ", không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khiếm khuyết. Một con người như thế là một nhân cách đẹp.
Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ - mẫu 1
Cảm nhận của em về hình tượng bà Tú trong bài "Thương vợ" của tác giả Trần Tế Xương Trần Tế Xương còn được gọi là Tú Xương, quê ở Nam Định. Bản thân ông trên con đường hoa cử lại không thành đạt mà chỉ đạt đến bậc Tú tài. Cá tính của ông thì đầy góc cạnh, không chịu gò mình.
Về sự nghiệp sáng tác, ông có trên 100 bài thơ, chủ yếu là thơ nôm gồm hai mảng trào phúng và trữ tình. Trong đó tác phẩm "Thương vợ" của ông thuộc đề tài nói về người vợ. Đây là một đề tài hiếm gặp trong thời kì văn học trung đại, và đó cũng có thể là điều minh chứng cho tình yêu thương vô hạn và sự biết ơn của Tú Xương với vợ của mình.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, đảo, đối, được chia làm bốn phần: đề - thực - luận - kết. phần đầu là hình ảnh của bà Tú dưới cái nhìn của ông Tú.
"Quanh năm buôn bán ở mom sôngNuôi đủ năm con với một chồng"
Công việc của bà Tú là buôn bán nhưng không phải ở trong chợ mà là ở mom sông, là một nơi nguy hiểm, không vững chãi. Thời gian mà bà Tú phải làm là quanh năm thời điểm này cho ta thấy công việc của bà phải làm là một công việc liên tục lặp lại khép kín không có thời gian để bà nghỉ ngơi.
Câu thứ hai khi đọc người đọc có thể cảm nhận phong cách viết thơ tự trào hóm hỉnh của Tú Xương. Ông không chỉ kể ra rằng bà Tú đã phải nuôi đủ con và chồng cả đủ ăn, đủ mặc, đủ tiêu xài cho những thói chơi tao nhã của nhà nho như Tế Xương. Ông còn kể rất tỉ mỉ "năm con", "một chồng" và rồi còn tự tách hạ một mình mình đứng dưới cuối câu tưởng chừng đang tự cho mọi người biết ông như một kẻ ăn bám lấy vợ và cũng cần đến sự chăm lo của vợ giống các con mình.
Thật đáng cười cho một nhà nho bám vợ như ông:
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông"
Ở đây ta có thể thấy rõ tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ dùng trong thân cò, một hình ảnh hay được đùng để ví von với người phụ nữ Việt có số phận cực khổ.
"Lặn lội thân cò khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đông"
Trong câu thơ thứ ba tác giả đã đảo ngược từ lặn lội đứng trước danh từ chủ thể thân cò kết hợp với cụm từ quãng vắng, ngoài ra có thể để ý ta sẽ thấy một sự đối lập ở hai câu ba và bốn giữa "lặn lội" và "eo sèo"; "khi quãng vắng" - "buổi đò đông" cho thấy nỗi vất vả một mình của bà Tú vừa phải gánh vác công việc để kiếm tiền đảm bảo một cuộc sống vừa đủ lại vừa phải lo toan việc gia đình. Bốn câu thơ đầu nói nên cuộc sống bấp bênh của bà Tú nhưng dù vậy bà vẫn chăm lo chu đáo cho gia đình.
Nhà thơ thể hiện sự thán phục hình ảnh người phụ nữ tảo tần, nhỏ bé, tiếp tục cực tả nỗi vất vả đơn chiếc nhưng đồng thời cũng kín đáo tự nhận mình là vô tích sự, làm khổ vợ con.
"Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công"
Ở hai câu năm và sáu đều sử dụng các thành ngữ dân gian như "một duyên hai nợ" ; "năm nắng mười mưa" là những câu chữ nói nên sỗ phận cực khổ của một con người.
Thành ngữ ở câu năm phiếm chỉ duyên chỉ có một mà nợ đến những hai, gánh nặng thì nhiều mà hạnh phúc và sự may mắn thì lại ít ỏi. Câu sáu với cách kết hợp từ tăng tiến ẩn dụ cho nỗi vất vả nhọc nhằn cùng với nghệ thuật đối "năm náng mười mưa" với "dám quản công" thể hiện sự hi sinh trầm lặng của bà Tú. Sử dụng thành ngữ nhấn mạnh người vợ không chỉ vất vả đảm đang nhẫn nại mà còn hi sinh âm thầm.
Từ những câu thơ trên đã khắc họa thành công Chân dung bà Tú điển hình cho người phụ nữ Viêt Nam, tảo tần, chịu thương, hi sinh, chịu đựng. Tấm lòng thương vợ đến đây không chỉ thương xót, mà còn thương cảm thấm thía.
Mặc dù yêu vợ nhưng lại không thể đỡ đần lo toan giùm vợ dù chỉ một phần nhỏ công việc chỉ vì cái phép tắc lễn giáo đối với những nhà nho thời phong kiến, buộc bà Tú phải chịu nhiều vất vả gian truân trong cuộc đời. Nhưng bà lại có niềm hạnh phúc là ngay lúc còn sống đã được đi vào thơ ông Tú với tất cả niểm yêu thương, trân trọng của chồng.
"Thương vợ" là một trong nhưng bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú, thể hiện được vẻ đẹp của bà Tú, một người phụ nữ đảm đang, vị tha và quan trọng hơn là sự thể hiện tấm lòng thương vợ, biết ơn vợ cũng như lời tự trách mình của Tú Xương.
Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ - mẫu 2
Bài thơ “Thương vợ” của tác giả Trần Tế Xương (hay còn gọi là Tú Xương) mang đến cho người đọc một cảm nhận sâu sắc về hình tượng của bà Tú – người vợ đáng quý trong cuộc đời ông. Tú Xương, người quê Nam Định, từng theo đuổi con đường hoa cử nhưng không thành công, chỉ đạt đến bậc Tú tài. Cá tính của ông đầy góc cạnh và không chịu gò bó.
Về sự nghiệp sáng tác, Tú Xương có trên 100 bài thơ, chủ yếu là thơ nôm gồm hai mảng trào phúng và trữ tình. Trong số đó, bài thơ “Thương vợ” nổi bật với đề tài nói về người vợ – một đề tài hiếm gặp trong thời kì văn học trung đại. Điều này cho thấy tình yêu thương vô hạn và sự biết ơn của Tú Xương dành cho vợ của mình.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, đảo, đối và được chia làm bốn phần: đề – thực – luận – kết. Phần đầu tiên, bà Tú được miêu tả dưới góc nhìn của Tú Xương.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng”
Công việc của bà Tú là buôn bán, nhưng không phải ở trong chợ mà là ở mom sông – một nơi nguy hiểm, không vững chãi. Thời gian mà bà Tú phải làm việc là quanh năm, cho thấy đó là một công việc liên tục lặp đi lặp lại, không có thời gian cho bà nghỉ ngơi.
Khi đọc câu thứ hai trong đoạn văn này, người đọc có thể cảm nhận được phong cách viết thơ tự trào hóm hỉnh của Tú Xương. Ông không chỉ đơn thuần là miêu tả việc bà Tú phải nuôi đủ con và chồng, đủ ăn, đủ mặc, đủ tiêu xài cho những thói quen tao nhã của nhà nho như Tế Xương, mà ông còn cẩn thận đánh dấu số lượng con và chồng của bà, rồi tự tách mình ra cuối câu như một kẻ ăn bám vợ, cũng cần sự chăm sóc của vợ như các con của mình. Những chi tiết như vậy làm cho bài viết của Tú Xương trở nên sống động và hài hước hơn, và giúp người đọc cảm nhận được sự chân thật và gần gũi của câu chuyện.
Trong bài thơ này, tác giả đã sử dụng nhiều kỹ thuật văn chương để miêu tả số phận cực khổ của bà Tú – một người phụ nữ Việt Nam. Kỹ thuật ẩn dụ đã được sử dụng để ví von bà Tú với thân cò – một hình ảnh quen thuộc. Trong câu thứ ba, tác giả đã đảo ngược từ lặn lội đứng trước danh từ chủ thể thân cò kết hợp với cụm từ quãng vắng, tạo ra sự đối lập giữa hai câu ba và bốn giữa, để thể hiện sự vất vả một mình của bà Tú.
Tác giả đã sử dụng các thành ngữ dân gian để miêu tả cuộc đời bấp bênh của bà Tú. Với thành ngữ “một duyên hai nợ” ở câu thứ năm, tác giả nhấn mạnh rằng bà Tú đã phải gánh vác nhiều nợ và khó khăn trong cuộc sống, trong khi thành ngữ “năm nắng mười mưa” ở câu thứ sáu miêu tả sự vất vả và cực nhọc của bà Tú trong việc chăm sóc gia đình.
Cuối cùng, tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối để thể hiện sự hi sinh trầm lặng của bà Tú. Bằng cách kết hợp từ tăng tiến ẩn dụ cho nỗi vất vả nhọc nhằn, tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa “năm nắng mười mưa” và “dám quản công”, nhấn mạnh sự hi sinh của bà Tú trong việc chăm sóc gia đình. Tất cả các kỹ thuật này đều giúp tác giả miêu tả số phận khó khăn của bà Tú một cách chân thực và cảm động.
Những câu thơ viết về bà Tú đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh một người phụ nữ Việt Nam điển hình – tảo tần, chịu thương, hi sinh, và chịu đựng. Chúng đã miêu tả được tấm lòng thương vợ không chỉ là sự thương xót, mà còn là sự thương cảm thấm thía đến sâu xa.
Tuy yêu vợ, nhưng ông Tú lại không thể đỡ đần lo toan cho vợ, dù chỉ là một phần nhỏ công việc. Và điều này là do cái phép tắc lễ nghi trong thời phong kiến khiến ông không thể làm được điều đó. Bà Tú phải chịu đựng rất nhiều gian truân và vất vả trong cuộc sống. Tuy nhiên, bà lại có niềm hạnh phúc khi được ông Tú viết những bài thơ tình cảm về mình, đầy yêu thương và trân trọng.
Bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất viết về bà Tú. Nó thể hiện được vẻ đẹp của bà Tú, một người phụ nữ đảm đang, vị tha và quan trọng hơn là sự thể hiện tấm lòng thương vợ, biết ơn vợ, cũng như lời tự trách mình của ông Tú. Bài thơ này cũng tôn vinh tình yêu và sự tôn trọng giữa vợ chồng, và là một lời nhắc nhở cho chúng ta về tình cảm gia đình và sự quý trọng những người thân yêu trong cuộc sống.
Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ - mẫu 3
Trong thế giới văn học, không ai có thể quên được Trần Tế Xương – một giọng thơ đả kích, phê phán sắc sảo, cay độc, mạnh mẽ hiếm có. Nhà thơ này đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả với những bài thơ đầy tình cảm và sự chân thật. Như Chế Lan Viên đã viết, “Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh”. Tuy nhiên, Trần Tế Xương không chỉ là một nhà thơ hiện thực chủ nghĩa như vậy. Theo lời Nguyễn Tuân, chất hiện thực chỉ là “chân trái” của ông, còn “chân phải” của ông là chất trữ tình.
Sự trân trọng và cảm phục đối với thơ Tú Xương tăng lên nhiều lần bởi người đời được nghe nhịp đập của một trái tim chân thành, giàu cảm xúc, biết trọng nhân cách, mang một nỗi đau vời vợi không nguôi. Ông đã từng thề độc rằng, “Cha thằng nào có tiếc không cho”, bởi ông rất buồn khi không có tiền để giúp một người ăn mày, một đồng bào cùng cảnh ngộ. Bên cạnh đó, những câu thơ như “Nhân tài đất Bắc kìa ai đó! Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà” cũng chứa đựng nỗi nhục nô lệ của một tri thức.
Ngoài ra, Trần Tế Xương cũng luôn bị dày vò bởi cảm giác thiếu trách nhiệm trong gia đình. Ông thương vợ, nhưng lại phải gánh vai trụ cột một mình và tự xỉ vả vai trò “hờ hững” của mình. Tuy nhiên, ông đã dũng cảm bày tỏ tình yêu thương của mình với người vợ thông qua các bài thơ của mình, điều không phải là điều dễ dàng vào thời đại đó. Trong số những nhà thơ cùng thời, chỉ có Trần Tế Xương và Nguyễn Khuyến đã không ngần ngại nói lên tình thương yêu của người chồng đối với vợ mình qua văn chương. Trong đó, bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương trở nên nổi tiếng hơn cả đặc biệt là ở sáu câu thơ đầu.
Bài thơ làm nổi bật hình ảnh hai con người: người vợ đức hạnh, hi sinh, chăm chỉ và người chồng nhân hậu, chu đáo, trọng nghĩa tình.
Hai dòng đầu bài thơ giới thiệu nghề nghiệp cũng như trách nhiệm nặng nề của bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một chồng.”.
Giao dịch cũng giống như bất kỳ nghề nào khác, mọi người làm việc để kiếm sống. Ngày xưa, nghề này được coi là nghề duy nhất để trở nên giàu có (không dựa vào may rủi). Nhưng việc buôn bán của bà Tú không như vậy. Không có cửa hàng, không có cửa hàng, không có nhà hàng. Thay vào đó, công việc kinh doanh của cô ấy là ở “mom sông”. Cụm từ “mom sông” gợi ý một khu vực nhô ra khỏi bờ sông có thể là một khu chợ nếu mực nước đủ cao, còn nếu không, nó sẽ chỉ là một bãi đất trống. Đó có thể là một phiên chợ tạm vào buổi sáng hoặc buổi chiều, nơi một vài người bán hàng bán hàng hóa của họ từ vài chiếc thúng hoặc chiếc xe đẩy nhỏ. Dù mặt bằng ít ỏi, vốn liếng ít ỏi, lời lãi ít ỏi nhưng bà Tú theo đuổi công việc gian khổ này không chỉ ngày một ngày hai mà “quanh năm”. Cụm từ “quanh năm” ngụ ý một thời gian dài và không bị gián đoạn, 12 tháng từ tháng 1 đến tháng 12, và cũng có nghĩa là năm này qua năm khác. Cái công việc cực nhọc này dường như đã theo bà Tú suốt cuộc đời, không đủ để bà có một sự nghiệp dễ dàng hơn, sung túc hơn.
Công việc vất vả, thu nhập ít ỏi nhưng bà Tú phải lo cho gia đình sáu người ăn học. Hơn nữa, không phải sáu mà là một chồng nuôi năm con. Năm người con là số nhiều, nhưng dù vất vả đến mấy, bà Tú vẫn lo chu cấp cho họ chỉ đủ ăn đủ mặc. Tuy nhiên, người chồng chỉ có một của cô có giá bằng cả 5 đứa con cộng lại. Đôi khi, nó còn hơn thế nữa! Mỗi khi anh đi thi đấu, tiền thưởng đều đến tay bà Tú, chưa kể những lúc anh cùng bạn bè đi nhậu nhẹt, ca hát, cũng vẫn là bà Tú trả tiền. Dù nhiều khoản chi như vậy nhưng bà Tú lúc nào cũng “nuôi đủ”. Cô ấy là một người vợ có trách nhiệm và chăm chỉ, biết chính xác phải làm gì và khi nào nên chăm sóc chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Trong thơ của Tú Xương, con cò không chỉ đơn giản là một con vật mà còn là thân phận, số phận của con người, vốn rất mỏng manh và nhỏ bé trước những biến động của cuộc đời. Những đặc điểm yếu đuối, bị động của con cò luôn khiến nó phải lăn lộn, bươn chải để tồn tại. Tuy nhiên, trong mắt ông Tú, bà Tú lại không phàn nàn mà thể hiện sự chịu đựng của người phụ nữ phương Đông.
Câu thơ
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.”
Để miêu tả khó khăn và sức lực phi thường của người vợ, gánh vác tất cả. Những số từ được dùng khéo léo trong đoạn văn này, với thứ tự tăng dần từ một đến mười, gợi lên những khó khăn và trách nhiệm ngày càng nặng nề của bà Tú. Mặc dù bà không được hưởng niềm sung sướng như nhiều phụ nữ khác nhờ chồng, nhưng bà vẫn kiên cường và hy sinh cho gia đình.
Trần Tế Xương đã tả lại những nỗi đau, thiệt thòi của bà Tú Xương, nhưng đồng thời cũng thấy rõ sự hi sinh và chấp nhận của người vợ. Tuy nhiên, bà vẫn đủ dứt khoát để khẳng định sự chấp nhận không cần bàn cãi và ứng xử hiển nhiên trong hoàn cảnh khó khăn. Đó chính là tinh thần kiên cường của người phụ nữ Việt Nam, tự nguyện gánh vác trách nhiệm của mình mà không cần đòi hỏi hay so đo oán than.
Cuối bài, Tú Xương khẳng định lại những nét đặc sắc của nghệ thuật làm nên thành công của 6 câu đầu bài Thương vợ. Đồng thời, ông liên hệ đến tình hình phụ nữ trong xã hội hiện nay và bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của mình về vấn đề này.
Tóm lại, bài thơ Thương vợ của Tú Xương đã thành công trong việc miêu tả cuộc đời vất vả của bà Tú và gợi lên nhiều nỗi đau thân phận của phụ nữ trong xã hội xưa. Đồng thời, nó cũng đặt ra nhiều câu hỏi và suy ngẫm về tình hình phụ nữ trong xã hội hiện nay.
Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ - mẫu 4
Trần Tế Xương (bút danh là Tú Xương) là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có lẽ là nhà thơ trào phúng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhà. Thơ trào lộng, châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được nhiều người yêu thích vì có tính chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt). Dòng trữ tình trong thơ Tú Xương đôi khi được tách ra thành những bài thơ trữ tình thuần khiết, thấm thía. Hai kiệt tác “Sông Lấp” và “Thương vợ” tiêu biểu cho dòng thơ trữ tình của Tú Xương.
Trần Tế Xương lận đận trong thi cử, đi thi đến lần thứ tám mới đậu được cái tú tài. Ông học giỏi nhưng phải cái ngông quá, thật ra thái độ ngông của ông là một cách ông phản kháng lại chế độ thi cử lạc lậu, quan trường “ậm ọc” lúc bấy giờ. Mà đậu được cái tú tài thì rồi cũng làm “quan tại gia” thôi. Hồi đó phải đậu cử nhân mới được bổ tri huyện. Thế là bà Tú gần như phải nuôi chồng suốt đời. Ông Tú chỉ còn biết đem tài hoa của mình mà ghi công cho bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Từ “mom” thật là hay, vừa thấy được nỗi gian truân của bà Tú buôn bán quanh năm bên bờ sông Vị, vừa thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với việc buôn bán khó nhọc của vợ. Từ “mom” là tổng hợp nghĩa của các từ ven, bờ, vực, thềm, thành một từ sáng tạo của nhà thơ làm giầu thêm cho tiếng Việt. Bà Tú buôn thúng bán bưng quanh năm ở “mom sông” mà nuôi chồng, nuôi con:
“Nuôi đủ năm con với một chồng”
Câu thơ chỉ mấy con số khô khốc thế vậy mà tế toái lắm đó! “Nuôi đủ năm con” là vì con, phải nuôi, nên đếm ra để mà nuôi. Nhưng còn chồng thì một chồng chứ mấy chồng, cớ sao lại cũng phải đếm ra “một chồng”? Là vì chồng cũng phải nuôi, mà bà Tú với cái gánh trên vai nuôi năm đứa con đã là vất vả, lại thêm một ông Tú trong nhà nữa thì gánh nặng gấp đôi. Thời đó mà nuôi một ông Tú, lại là Tú Xương nữa thì nhiêu khê lắm.
Nhưng bà Tú được an ủi là vì ông Tú, cái con người tưởng như chỉ biết bông đùa, cười cợt đó lại để tâm đến từng bước chân của bà trên đường lặn lội buôn bán:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Có thể nói lòng thương vợ của nhà thơ dào dạt lên trong hai câu thơ này. Hình ảnh lặn lội thân cò được tác giả mô phỏng theo một biểu tượng trong thi ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh tạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”
Nếu như từ “lặn lội” được đảo ra phía trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú, thì từ “eo sèo” gợi lên âm thanh hỗn tạp (tiếng kì kèo mặc cả, tiếng cãi cọ tranh giành) của “buổi đò đông”. Hai tình huống đối lập thật hay: “vắng” và “đông”. Người phụ nữ gánh hàng lặn lội trên quãng đường vắng thật là khổ. Mà đến chỗ “đò đông” thì thật là đáng sợ!
Nghĩa là nhìn từ phía nào, nhà thơ cũng thương vợ, tình thương thấm thía, cảm động.
Sang hai câu luận, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ:
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Nhân dân ta thường nói “vợ chồng là duyên nợ”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thành hai từ đơn: “duyên – nợ”. “Duyên” thì thiêng liêng rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình (ông Tơ bà Nguyệt), còn “nợ” thì đã thành trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bà Tú. “Một duyên hai nợ âu đành phận” là bà Tú đã thuận theo lòng trời và thuận theo lòng người (tấm lòng của chính bà!). Nói gọn lại là bà Tú đã chấp nhận! Và chấp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này, bà chấp nhận một ông đồ nho ngông “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, bà chấp nhận vị quan “ăn lương vợ” nên bà đâu “dám quản công”:
“Năm nắng mười mưa dám quản công”
Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thành “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã thấm thía với hai số năm – một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một chồng). Giờ đây là sự linh diệu của những con số một – hai và năm – mười trong câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bà Tú chịu đựng hết.
Bằng tình cảm chân thành, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.
Bao nhiêu công trạng trong gia đình, ông Tú dành cho bà Tú, ông chỉ nhận về cho mình một chữ “không”. Nhưng bình tâm mà xét thì ông Tú cũng xứng với bà Tú vì trên đất nước gian lao và vất vả này có hàng triệu người như bà Tú, nhưng chỉ có một bà Tú là được vào cõi thơ, cõi bất tử!
Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ - mẫu 5
“Văn học nằm ngoài những quy luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Thơ văn Tú Xương chính là một trường hợp như vậy. Thể xác của ông hơn 100 năm nay đã hòa tan thành một cùng với đất mẹ nhưng sự nghiệp văn chương của con người tài hoa đó chưa bao giờ ngừng sống để làm lay chuyển lòng người, bất chấp tất cả mọi thử thách của thời gian.
Nhắc đến Tú Xương chúng ta không thể không nhắc đến “Thương vợ” bài thơ trữ tình thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh và trào phúng bản thân và bày tỏ tấm lòng yêu thương, kính trọng của ông đối với người vợ tần tảo hi sinh suốt một đời vì chồng, vì con và vì gia đình.
Tú Xương lấy vợ từ năm ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc đời của Tú Xương là cuộc đời của một người nghệ sĩ nhưng trước hết ông là một nhà tri thức phong kiến thuộc loại nhà Nho “Dài lưng tốn vải” phải sống nương tựa vào người vợ của mình. Mọi chi tiêu ở trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào trong bài thơ ca của ông “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm” hay là “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”.
Trong bài “Thương vợ” cũng vẫn là những vấn đề đó cũng được thể hiện sâu sắc qua tám câu thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu đề đã mở ra một không gian, thời gian và công việc của bà Tú. Một công việc vất vả và cơ cực và gian nan vô cùng:
“Quanh năm buôn bán ở mom sôngNuôi đủ năm con với một chồng”
Nghề buôn bán theo quan niệm của người xa xưa là con đường đầu tiên để làm giàu “Phi thương bất phú” nhưng công việc của bà Tú thì lại đối lập lại hoàn toàn. Chỗ buôn bán ở đây không phải là ở vùng đất tốt, bằng phẳng mà ở “mom sông”. Theo cách hiểu của nhà thơ Xuân Diệu: “là cái địa điểm cheo leo chênh vênh, chứ không phải ở cái bến ngang sông tấp nập bình thường”.
“Mom sông” đã cụ thể hóa được địa điểm buôn bán của bà Tú ở nơi “đầu sóng ngọn gió”, đối mặt với bao nhiêu nguy hiểm khi nước xuống thì còn, nước lên thì mất. Thời gian ở đây là “quanh năm” hết ngày này lại qua tháng khác. Thời gian đằng đẵng và chẳng bao giờ được nghỉ ngơi. Một công việc nhọc nhằn, vất vả mà người vợ đã phải gánh vác để lo cho gia đình.
Trước đây với cái quan niệm “Trọng nam khinh nữ”, “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” những việc lớn như kinh tế gia đình là phải do người đàn ông lo liệu nhưng người gánh vác trách nhiệm đó ở đây là bà Tú – người đàn bà giàu lòng yêu thương và giàu nghị lực có thể “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Đủ ở đây là nuôi cho đủ miếng cơm manh áo. Một người làm mà tới bảy miệng ăn ta thấy trách nhiệm nặng nề được đặt lên đôi vai người phụ nữ gia đình.
Trong câu thơ này có sử dụng nghệ thuật đối năm con chính là số nhiều nhưng lại được đặt ngang hàng để đối cùng với một chồng là số ít. Đủ cơm ăn áo mặc cho năm con ngang bằng cùng với số tiền bạc để nuôi một chồng. Như ta đã biết là cuộc đời ông Tú ngắn ngủi và đơn giản, 37 năm, dường như gói gọn ở trong ba việc chính: đi học, đi thi và làm thơ. 15 tuổi ông bắt đầu đi thi, 22 năm ròng rã còn lại vẫn đi thi và trải liền tám khóa lều chõng mỗi lần lên kinh dự thi là biết bao nhiêu chi phí, tiền của do một tay của bà Tú trang trải. Khép lại hai câu đề miêu tả về không gian, thời gian và công việc của bà Tú đến hai câu thực đã mở ra một hình ảnh “thân cò”:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo nước mặt buổi đò đông”
Câu thơ gợi cho ta nhớ tới hình ảnh quen thuộc trong ca dao: “Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”. Hình ảnh ấy gắn liền cùng với thân phận người phụ nữ Việt Nam tần tảo sớm ngày lo cho gia đình. Bà Tú ở đây chính là thân cò một thân phận, số phận cụ thể gợi về một sự mỏng manh, nhỏ bé trước cuộc đời. nhà thơ đã sử dụng lối viết đảo ngữ “lặn lội thân cò” làm cho hình ảnh ấy càng trở nên cụ thể và sâu sắc hơn.
Chắc hẳn bà Tú cũng không quên được lời dặn của cổ nhân “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng vì miếng cơm manh áo của gia đình mà phải liều lĩnh đối mặt với chốn nguy hiểm để rồi phải “eo sèo” nơi “đò đông”. Hai tính từ ở câu đầu và câu cuối đối nhau vừa có tính gợi hình lại gợi cảm.
Dường như tác giả đang rất cảm thông và thương xót cho thân phận của vợ mình mà như nhỏ lệ trước hình ảnh đó. Hai câu thơ có thể được coi là hay nhất ở trong bài cũng như khiến cho người ta rung động nhất khi tái hiện về hình ảnh người vợ ở trong thơ Tú Xương.
Nếu như ở bốn câu thơ đầu nhà thơ giữ vị trí, đóng vai trò là một người chồng đứng ở bên ngoài “khách quan” để quan sát, nhận xét và cảm thông cho bà Tú thì ở bốn câu thơ sau Tú Xương nhập thân vào trong tâm tư và nỗi niềm của người vợ để cất lên tiếng than “chủ quan” và chân thực hơn. Hai câu luận chính là lời than thở mà Tú Xương nói hộ lòng vợ:
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Chữ “duyên” theo nghĩa Hán Việt có nghĩa là duyên cớ làm phát sinh một việc gì đó. Duyên theo quan niệm của Phật giáo chính là phần trời định cho con người gặp gỡ, có khả năng yêu nhau và trở thành một cặp vợ chồng, giúp các cặp đôi yêu thương gắn kết ở trong cuộc đời. “Tu trăm năm mới thành bạn đồng hành, tu ngàn năm mới được chung chăn gối” dân gian đã tạo thành một cặp duyên và nợ.
Dưới cái nhìn của Tú Xương duyên thì chỉ có một mà nợ thì có hai, duyên thì ít nợ thì nhiều. Ngẫm cho kỹ bà Tú lấy được ông Tú cũng chính là một cái duyên nhưng với người chồng “hờ hững” ấy thì nợ lại có nhiều hơn. Chính vì điều đó đã khiến cho sự vất vả và cực nhọc của một thân phận đã được nâng lên thành định mệnh của cả một kiếp người. Vì là duyên là nợ nên “âu cũng đành phận”. Âu có nghĩa là cam chịu và đành chấp nhận.
Vì là cam chịu và chấp nhận điều đó cho nên “năm nắng mười mưa dám quản công”. Các số từ theo thứ tư: một, hai, năm, mười đã được sắp xếp theo sự tăng tiến cho thấy khó khăn chồng chất lên khó khăn trên đôi vai của bà Tú. “Âu đành phận” và “dám quản công” đã được đặt ở cuối mỗi câu thơ cho thấy cách ứng xử của người làm vợ luôn nhẫn nhục và chịu đựng tất cả vì chồng con.
Bài thơ “Thương vợ”của Trần Tế Xương đã thể hiện được ân tình sâu nặng và tình cảm chân thành của nhà thơ đối với người vợ của mình. Trước Tế Xương hiếm có thi nhân nào mà có những bài thơ viết về người vợ hay và lắng đọng, sâu sắc như ông. Bài thơ không chỉ cho thấy được một tâm hồn cởi mở, đôn hậu của nhà thơ đối với vợ mà còn chứng tỏ được tài năng, thi bút của một người thi sĩ biết vận dụng và sáng tạo ngôn ngữ dân gian.
Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ - mẫu 6
Trần Tế Xương hay còn có bút danh là Tú Xương, ông là một tác giả nổi tiếng với nhiều tác phẩm mang chất trào phúng và trữ tình. Ông chỉ sống 37 tuổi và học vị tú tài, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông đã trở thành bất tử. Ông để lại khoảng 100 tác phẩm gồm: thơ, văn tế, phú, câu đối. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ “Thương vợ”. Một bài thơ tô đọng trong đó là những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người phụ nữ đảm đang, chịu thương, chịu khó vì hạnh phúc của chồng con.
Có thể xem “Thương vợ” là lời tri ân sâu sắc của ông Tú dành gửi tới vợ. Bài thơ được viết bằng chữ Nôm, theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với bố cục bốn phần: đề, thực, luận, kết. Bài thơ vẽ nên bức chân dung bà Tú chịu thương chịu khó, tần tảo, đảm đang, thương chồng thương con và giàu đức hi sinh; đồng thời thể hiện tấm lòng yêu thương trân trọng vợ và nhân cách cao cả của ông Tú.
Ngay đầu bài thơ, hình ảnh bà Tú đã hiện ra :
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Câu đầu nói về thời gian và không gian làm việc của bà Tú. Bà phải làm việc vất vả “quanh năm”, suốt bốn mùa không ngơi nghỉ, cứ hết ngày này sang ngày khác, hết năm này qua năm khác, không kể nắng mưa. Bà làm việc vất vả quanh năm suốt tháng như thế ở “mom sông”, nơi có mỏm đất nhô ra ven bờ sông chênh vênh, nguy hiểm. Bà phải cật lực buôn bán ở một nơi nguy hiểm như thế để đảm bảo kinh tế gia đình, “nuôi đủ” chồng và con. Câu hai cho thấy gánh nặng gia đình trên vai bà Tú. Đặc biệt, cách nói về gánh nặng gia đình mà bà Tú phải đảm nhiệm thật độc đáo : “năm con với một chồng”. Dường như, ông Tú đang tự đặt mình lên bàn cân và thấy một mình ông “nặng” bằng năm đứa con. Bà Tú phải nuôi ông bằng nuôi thêm năm đứa con nữa. Cách nói ấy gợi ra nụ cười mỉa mai chính mình của ông Tú: hóa ra, mình cũng chỉ là một thứ con cần phải nuôi. Nhận ra mình là một gánh nặng trên đôi vai gầy của vợ cho thấy ông Tú hết sức biết ơn người vợ tần tảo của mình. Hai câu thơ đầu, bằng việc khắc họa thời gian, không gian làm việc của bà Tú và cách đếm con đếm chồng tếu táo của ông Tú, tác giả đã vẽ ra bức chân dung bà Tú tần tảo, đảm đang, chịu thương chịu khó và cho thấy tấm lòng tri ân vợ của nhà thơ.
Hai câu tiếp theo tiếp tục khắc họa hình ảnh bà Tú :
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.
Hai câu thơ có cấu tạo đặc biệt: đảo vị ngữ lên đầu câu, nhấn mạnh hai từ láy gợi hình. Bà Tú phải “lặn lội” sớm hôm, chạy vạy ngược xuôi “khi quãng vắng”. Công việc khiến bà Tú phải thức dậy đi làm từ khi mọi người vẫn đang còn ngủ và trở về nhà khi mọi người đều đã sum họp bên gia đình, khi bên ngoài đường đều là những “quãng vắng” có phần nguy hiểm với một người phụ nữ. Câu thơ đầu sử dụng hình ảnh ẩn dụ quen thuộc của ca dao Việt Nam là “con cò”. Trong ca dao, hình ảnh con cò thường tượng trưng cho người lao động, đặc biệt là người phụ nữ lam lũ, nghèo khổ, bất hạnh. Cách sáng tạo hình ảnh “con cò” thành “thân cò” để chỉ bà Tú vừa cho thấy sự lam lũ, vất vả, cực nhọc đến tội nghiệp, đáng thương của bà Tú, vừa cho thấy tình thương mà ông Tú dành cho bà. Chẳng những phải vất vả thức khuya dậy sớm mà bà Tú còn phải chịu những khó khăn chồng chất trong công việc buôn bán. Khi chợ đã đông, đã lắm kẻ bán người mua, bà không tránh khỏi phải chịu những điều tiếng kêu ca, phàn nàn “eo sèo” của khách hàng. Cả hai câu thơ, với việc sử dụng phép đối, phép đảo và những từ láy gợi hình cùng với hình ảnh ẩn dụ quen thuộc, nhà thơ đã khắc họa những vất vả, khổ cực của bà Tú, từ đó gợi ra hình ảnh một người vợ lam lũ, chịu thương chịu khó vì chồng con. Qua đó cũng cho thấy sự thấu hiểu, tình yêu thương của ông Tú với người vợ tảo tần.
Hai câu luận vẫn là hình ảnh bà Tú :
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”.
Hai câu thơ mà có đến hai thành ngữ để nói về bà Tú. “Một duyên hai nợ” là thành ngữ cho thấy nỗi vất vả của bà: chỉ có một cái “duyên” may mắn với ông Tú mà bà lại chịu đến “hai nợ”, hai gánh nặng là chồng và con. Nhưng bà không hề kêu ca, phàn nàn, không than trời kêu đất mà vui vẻ chấp nhận như đó là số phận của mình, “âu đành phận”. Nỗi vất vả và đức hi sinh của bà Tú không chỉ có thế. Dù phải “năm nắng mười mưa”, đi trưa về tối thì bà vẫn “dám quản công”, bà không kể công lao, không quản ngại gian khó. Bà chịu đựng hi sinh tất cả để lo cho gia đình, bà không nghĩ gì cho riêng bản thân mình. Hai câu luận này, bằng phép đối và vận dụng sáng tạo thành ngữ, nhà thơ đã hoàn thành nốt bức chân dung về phẩm cách cao quý của bà Tú : lòng yêu thương chồng con và đức hi sinh cao cả. Ở hai câu thơ này, giọng thơ chùng xuống mang âm hưởng dằn vặt, vật vã, gợi ra một tiếng thở dài nặng nề, chua chát của một ông chồng cảm thấy mình vô dụng, phải để vợ một mình gồng gánh việc gia đình. Điều đó chứng tỏ tấm lòng yêu thương vợ rất mực của Tú Xương.
Trong văn học trung đại Việt Nam, không thiếu những bài thơ viết về vợ nhưng chỉ mỗi Tú Xương nhận ra được vẻ đẹp tâm hồn của người vợ ngay trong cuộc sống đời thường và viết về bà ngay khi bà còn sống. có thể nói rằng, tuy có vất vả, cực khổ nhưng được chồng trân trọng, yêu thương, ngợi ca như thế thì bà Tú cũng mát lòng mát dạ mà hãnh diện với cuộc đời. Cả bài thơ, với việc vận dụng sáng tạo ngôn ngữ và thi liệu văn hóa dân gian cùng với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trào phúng và trữ tình, Tú Xương đã gửi đến người đọc một cách nhìn tiến bộ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ.
“Thương vợ” là bài thơ viết về vợ hay và cảm động nhất của Tú Xương. Bài thơ đã vẽ nên bức chân dung bà Tú mang những phẩm chất tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam : tần tảo, đảm đang, chịu thương chịu khó, yêu chồng thương con và giàu đức hi sinh, giàu lòng vị tha. Qua đó cũng cho thấy tấm lòng yêu thương, trân trọng vợ rất mực và nhân cách cao cả của Tú Xương. Đọc xong bài thơ, không ai lại không cảm mến bà Tú và cảm động trước tình cảm chân thành mà ông Tú dành cho vợ. Và chắc rằng, bà vợ nào cũng sẵn sàng chịu đựng vất vả khó nhọc mà vẫn luôn vui vẻ nếu có được ông chồng biết yêu thương, trân trọng vợ như ông Tú. Cách nhìn về thân phận người phụ nữ khiến người đọc nhìn lại, ngẫm về người vợ, người mẹ của mình và thấy yêu thương, trân trọng, biết ơn họ.
Phân tích 6 câu đầu bài Thương vợ - mẫu 7
Hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở trong nền thi ca Việt Nam. Tuy nhiên, thơ văn viết về người vợ bằng tình cảm của người chồng đã ít, nay lại viết “tế sống” người vợ còn hiếm hoi hơn. Và Trần Tế Xương là người đàn ông đã đưa hình ảnh người vợ của mình vào những dòng thơ trữ tình nhưng cũng không kém phần trào phúng. Trần Tế Xương hay còn gọi là Tú Xương, giống trong buổi giao thời đầy nghèo khổ nửa thực dân nửa phong kiến. Ông là người thông minh ham học có tài làm thơ nhưng lại lận đận trong thi cử. Ông nổi tiếng trong hai mảng thơ trữ tình và trào phúng có pha chút giọng cười châm biếm, sắc sảo bắt nguồn từ tâm huyết với dân với nước với đời. Tú Xương đã từng được mệnh danh là nhà thơ trào phúng xuất sắc nhất của văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Những tác phẩm ông để lại chủ yếu là thơ Nôm và có nhiều bài rất đặc sắc, có thể nói là tuyệt mỹ cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Minh chứng rõ nhất là bài thơ Thương vợ.
Thương vợ nằm trong những sáng tác của Tú Xương về bà Tú cũng là một trong những bài thơ hay, cảm động nhất của ông về vợ mình. Bài thơ được viết bằng chữ Nôm với những ngôn từ bình dị và hình ảnh đẹp đẽ. Nó không chỉ đề cập đến nhiều khía cạnh trong xã hội mà còn là tiếng lòng tha thiết đầy xót xa của Tú Xương – nạn nhân của xã hội bấy giờ, đã biến con người trở nên vô tích sự với chính bản thân và gia đình. Đồng thời bài thơ cũng giúp người đọc thấy được đức hi sinh to lớn của người phụ nữ xưa đối với gia đình.
Mở đầu tác phẩm Tú Xương giới thiệu về hoàn cảnh và công việc mưu sinh của bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”
Mạch cảm xúc của thi phẩm dần được mở ra với bức tranh toàn cảnh về nỗi khó nhọc lo toan của bà Tú. Câu vào đề như để giới thiệu hoàn cảnh lam lũ vất vả qua cách nêu thời gian, địa điểm. Tác giả sử dụng từ “quanh năm” – cụm từ chỉ một khoảng thời gian rất dài, lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoàn khép kín của tự nhiên, tác giả đã diễn tả được nỗi vất vả triền miên của bà Tú trải hết ngày này qua tháng khác, mặc kệ nắng mưa. Chỉ có thế cũng đã đủ để lại trong lòng độc giả một hình ảnh tần tảo, đầu tắt mặt tối của bà Tú. Thế nhưng chưa dừng lại ở đó, cách cân đo đong đếm thời gian như thế còn góp phần làm bật lên cái không gian buôn bán của bà thông qua hình ảnh “mom sông”. Địa thế “mom sông” đầy trắc trở hiểm nguy khôn lường lại là chỗ làm ăn buôn bán hàng ngày của người phụ nữ. Thời gian dài đằng đặng kết hợp với địa điểm trắc trở càng tôn lên hình ảnh bà Tú tần tần, hết lòng hết sức vì miếng cơm manh áo cho cả gia đình. Với giọng thơ hóm hỉnh cùng tài năng trong nghệ thuật thơ trào phúng, Tú Xương đã làm nên một câu thơ thứ hai như lời lên án gay gắt xã hội phong kiến đã biến những người đàn ông vốn là trụ cột trong gia đình thành kẻ vô tích sự, sống dựa dẫm và cả đời “ăn lương vợ”.
“Trống hầu vừa dứt, bố lên thang
Hỏi ra quan ấy ăn lương … vợ”
(Quan tại gia – Trần Tế Xương)
Đôi vai của bà Tú đã nặng nay lại càng nhân lên những nỗi gian truân khi phải “bất đắc dĩ” trở thành trụ cột trong gia đình. Từ “đủ” vừa biểu thị chất lượng vừa biểu thị số lượng. Bên cạnh đó cách đặt hai từ số đếm “năm” và “một” tưởng chừng khập khiễng nhưng lại hóa độc đáo và mới lạ. Tú Xương tự chế giễu mình khi so sánh bản thân với năm người con. Ông tự cho mình là “đứa con đặc biệt”, ngầm nâng cao vị thế của người vợ lên một thứ bậc thiêng liêng. Hơn thế nữa, cấu trúc năm-một cùng từ “với” chất chứa bao nỗi hổ thẹn của người chồng phải sống dựa vào vợ. Hai câu mở đầu đã thể hiện được tất cả những đức tính cao đẹp của bà Tú: chịu thương, chịu khó để nuôi đủ gia đình. Qua đó Tú Xương cũng khéo léo thể hiện sự biết ơn của mình, đồng thời còn là sự hổ thẹn khi phải đặt mình tương đồng với những đứa con thơ. Thật xót xa, ngậm ngùi biết bao!
Thấu hiểu được những nỗi lo toan, vất vả của người vợ, Tú Xương liên tưởng đến hình ảnh con cò trong ca dao:
“Cái cò lặn lội bờ sôngGánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
Để cực tả nỗi khổ tâm của bà Tú trong hai câu thực:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Tú Xương sử dụng từ “thân cò” vừa thể hiện cái tính riêng, sự sáng tạo mang tính thời đại trong phong cách thơ của mình, vừa đồng nhất thân phận của bà Tú nói riêng và hình ảnh của người phụ nói chung với hình ảnh mỏng manh của “cái cò”. Tiếp đó chữ “thân” tuy đơn giản nhưng nghe thật cay đắng, nó gợi cho người đọc về một thứ gì đó nhỏ bé tội nghiệp đến vô cùng. “khi quãng vắng” là một cụm từ rất đặc biệt, nó không chỉ gợi lên cái không gian rợn ngợp, cảm giác đầy nguy hiểm rình rập nơi mom sông heo hút mà còn diễn tả nỗi khắc khoải của thời gian. Cùng với nghệ thuật đảo ngữ, từ láy “lặn lội” đã nhấn mạnh hình ảnh vất vả mưu sinh đến xót xa, gầy guộc của người phụ nữ. Nếu câu thơ thứ ba gợi lên nỗi cực nhọc đơn chiếc thì câu thứ tư lại là sự vật lộn với cuộc sống bán mua đông đúc. Một lần nữa Tú Xương lại dùng biện pháp đảo ngữ với từ láy tượng thanh “eo sèo” gợi sự tấp nập ồn ã để nhấn mạnh cảnh tượng thường tình nơi chợ búa gắn liền với người phụ nữ có “năm con với một chồng”. Hình ảnh “buổi đò đông” cũng góp phần làm bật lên một bà Tú cần mẫn, tất bật. Buổi đò đông cùng với “khi quãng vắng” đã tạo nên sự nguy hiểm, gian lao gấp nhiều lần. Ông cha ta có câu “ sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng vì cuộc sống, vì cơm áo gạo tiền cho chồng con mà bà Tú đã phải dấn thân vào chốn hiểm nguy đó. Hai câu thực dù đối nhau về từ ngữ “buổi đò đông”- “khi quãng vắng” nhưng lại tiếp nhau về ý làm nổi lên sự lam lũ gian truân của người phụ nữ nhỏ bé này.
Đến với hai câu thơ tiếp theo, Tú Xương như nhập vai vào chủ thể trữ tình nhằm mượn lời vợ để ngâm ca ngợi những hi sinh âm thầm mà bà dành cho chồng con:
“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.”
Theo quan niệm phong kiến xưa, “duyên” và “nợ” là hai định nghĩa hết sức thiêng liêng về mối quan hệ vợ chồng do ông trời định sẵn, xuất phát từ sợi chỉ hồng của ông tơ bà nguyệt. Thế nhưng khi đưa vào lời thơ Tú Xương, hai thứ đó trở nên nặng nề như một lời than thở khi duyên chỉ có một mà nợ lại tới hai. Bên cạnh đó việc sử dụng hai thành ngữ song song với nhau “một duyên hai nợ” – “năm nắng mười mưa” vừa đối nhau về từ, vừa đối nhau về ý đã khiến cho câu thơ trầm lắng trước nỗi khổ tâm của bà Tú. Không những thế sự đối lập này còn thể hiện rất rõ tài năng văn chương điêu luyện của thi sĩ. Đức hi sinh cao cả của bà Tú còn được nhắc đến qua hai cụm từ “âu đành phận” và “dám quản công”. Nguyên nhân dẫn đến sự lam lũ hi sinh âm thầm đầy cam chịu của bà tuy giản đơn mà cao quý. Đó là vì mối nhân duyên với người chồng và đàn con thơ. Từ việc pha trộn lời thơ đan xen với những thành ngữ và biện pháp đảo ngữ cực kì tinh tế, nhà thơ Tú Xương đã khắc họa thành công tấm chân tình của người vợ với đầy đủ đức hi sinh, tần tảo như một người phụ nữ Việt Nam truyền thống.
Tấm lòng thương vợ của Tú Xương đối với cả thời quá khứ và hiện tại vẫn là tấm gương sáng cho bao người. Bài thơ giữ nguyên giá trị cùng với ý nghĩa nhân văn sâu sắc về sự yêu thương, trân trọng và thấu hiểu những nỗi đau, sự hi sinh của người phụ nữ cho gia đình. Đồng thời đó cũng là tiếng nói phê phán sự bất công của xã hội phong kiến thối nát, mục ruỗng.
Như vậy, bài thơ Thương vợ là một thi phẩm mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Với chất thơ bình dị mà trữ tình mang chút trào phúng, Tú Xương đã thành công trong việc khắc họa một bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ, vừa mộc mạc chất phác, vừa cứng rắn mạnh mẽ. Vì vậy quả thật Tú Xương chính là thi nhân viết thơ về vợ hay và cảm động nhất. Ông đã để lại cho đời những áng văn chân thành xúc động và đầy giá trị.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Phân tích 6 câu đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Phân tích 8 câu cuối Tình cảnh lẻ loi
- Phân tích 8 câu đầu bài Tây tiến
- Phân tích 8 câu đầu bài Tràng giang
- Phân tích 8 câu giữa Kiều ở lầu Ngưng Bích
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

