10+ Phân tích cảnh xử kiện A Phủ (điểm cao)

Phân tích cảnh xử kiện A Phủ điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Phân tích cảnh xử kiện A Phủ (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Phân tích cảnh xử kiện A Phủ

a) Mở bài:

+ Đôi nét về tác giả và tác phẩm

+ Giới thiệu nhân vật A Phủ

b) Thân bài:

* Xuất thân của A Phủ là:

+ Khốn khó, mồ côi cha mẹ và sống tự do, khỏe mạnh và rất siêng năng, giàu bản lĩnh, nhưng không kiêu ngạo, là “con trâu tốt” của bản mường nhưng tại vì nghèo nên không lấy được vợ. Trích những câu dân làng nói về A Phủ.

+ Là con người không bao giờ biết lùi bước trước cường quyền và bạo chúa. A Phủ biết A Sử là con thống lí nhưng vẫn ra tay đánh và vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây rối.

* Cảnh xử kiện có một không hai.

- Thành phần xử kiện.

Thông thường khi xử kiện thì có bên nguyên, bên bị, có người làm chứng, có quan phân xử. Ở cuộc xử kiện này có đầy đủ những thành phần đó nhưng sắp xếp đầy phi lí. Người kiện chính là A Sử, người xử kiện lại là thống lí Pá Tra đồng thời cũng là người cho vay tiền. Cán cân công lí đã xoay vần theo sức mạnh của quyền lực và tiền bạc.

- Cảnh xử kiện.

Quảng cáo

 Xử kiện thì phải diễn ra chốn công đường thâm nghiêm, minh bạch. Tất cả phải tỉnh táo về tinh thần. Ấy vậy mà cuộc xử kiện diễn ra ngay trong nhà Pá Tra. Và điều đặc biệt hơn nữa là ở đó lại chuẩn bị một tiệc cỗ và tiệc hút. Các quan chức, thống quán, xéo phải kéo đến ăn cỗ, hút thuốc phiện và đánh đập A Phủ suốt từ trưa đến hết đêm: “càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Người bị xử, là trung tâm của buổi xử kiện thì không được nói một lời nào. Cứ mỗi lần bọn chức việc hút xong A Phủ lại quỳ trước nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Hai đầu gối sưng bạnh ra như mặt hổ phù”. Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Cứ liên tục quay vòng những hành động: Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Và không chỉ diễn ra trong chốc lát cảnh tượng xử kiện hãi hùng này mà nó kéo dài suốt chiều, suốt đêm. Đúng là cảnh tượng xử kiện có một không hai trong lịch sử văn học. Sự bất công, độc ác trong cuộc xử kiện đã lột trần bộ mặt thật của bọn chúa đất phong kiến miền núi.

Như vậy dưới ách thống trị tàn bạo và khắc nghiệt của lũ chúa đất, cuộc sống của người dân nghèo miền núi thật thảm thương, họ bị đánh đập hành hạ như một con vật. Tuy vậy A Phủ không hề khóc lóc, van xin mà trái lại vẫn tỏ ra cứng rắn, gan dạ “A Phủ quỳ chịu đòn chỉ im lặng như tượng đá”.

Quảng cáo

- Kết quả cuộc xử kiện

Cuối cùng, với cách xử kiện quái gở, A Phủ đã bị phạt làm nô lệ suốt đời không công cho nhà thống lí. Đáng ra với tội đánh con quan thì A Phủ sẽ bị xử tội chết nhưng A Phủ được tha cho mạng sống để làm nô lệ để trả nợ cho Pá Tra “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Và số tiền mà A Phủ phải vay để thiết đãi các quan làng xử kiện là 100 đồng bạc trắng. Không có tiền phải vay nhà thống lí. Cảnh thống lí cho A Phủ vay tiền cũng nghịch lí không kém gì cảnh xử kiện. Pá Tra lấy tráp ở ngăn bàn ra, để mở trăm bạc trắng rồi đưa cho A Phủ sờ tay vào coi như đã nhận tiền rồi cúng trình ma nhận mặt con nợ. Vẫn là một lối mòn cũ, giống như đã làm với Mị: dùng cường quyền để ép A Phủ, sau đó dùng thần quyền để mê hoặc: cúng trình ma để con nợ không còn có ý định trốn thoát nữa. A Phủ trở thành tên nô lệ chung thân bị khinh rẻ, bị ngược đãi trong vòng kiểm soát của thống lí Pá Tra.

c) Kết bài:

Khái quát giá trị của nhân vật A Phủ: Thông qua nhân vật A Phủ, tác giả lên án tố cáo tội ác của giai cấp chủ nô phong kiến miền núi lúc bấy giờ đã áp bức, bóc lột nhân dân Tây Bắc. Đồng thời phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động.

Quảng cáo

Phân tích cảnh xử kiện A Phủ - mẫu 1

“Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn được rút ra từ tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài viết vào năm 1953 ngay sau chuyến thâm nhập thực tế của tác giả. Truyện đã được tặng giải nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Đấy là truyện ngắn đặc sắc nhất của Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung, tác phẩm là một bức tranh chân thực về cuộc sống và thân phận khổ đau của những người nông dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, đồng thời là bài ca về phẩm chất, sức sống, khát vọng tự do của con người lao động miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và sự đổi đời của họ. Tiêu biểu cho những con người ấy là A Phủ, một trong hai nhân vật thành công nhất của Tô Hoài trong truyện ngắn này.

Trong tác phẩm tác giả không giới thiệu nhân vật A Phủ theo trình tự tuyến tính của thời gian mà để cho nhân vật xuất hiện đầy bất ngờ, đường đột trong một cuộc hỗn chiến với A Sử.

A Sử vốn là con quan, nên dù có vợ rồi, nó vẫn muốn đi bắt vài đứa con gái nữa về làm vợ. Chỉ cần nhìn thấy chiếc vòng bạc ở cổ rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ là không ai dám động vào. Có lẽ vì thế mà A Sử tha hồ ngông ngược quậy phá. Nó vào làng trêu con gái, thậm chí còn đánh cả trai làng. Mâu thuẫn đã diễn ra từ đêm hôm trước, và được giải quyết vào sáng hôm sau. A Sử dẫn đầu nhóm đến để tìm trai làng, còn trai làng dẫn đầu là A Phủ. Chỉ cần nhìn thấy bọn A Sử trai làng đã xôn xao và cất tiếng gọi A Phủ: A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi! Không phải ngẫu nhiên mà A Phủ lại được gọi tên lên trong một nhóm các trai làng. Hẳn là vị trí của A Phủ không đơn giản như những chàng trai kia. Điều này phần nào bộc lộ phẩm chất con người, bản tính của A Phủ. Cách để nhân vật xuất hiện với những câu hỏi bỏ ngỏ lại trong lòng người đọc khiến cho họ phải cuốn theo mạch truyện để tìm hiểu rõ ngọn nguồn về nhân vật.

A Phủ hiện lên rất chân thực, sống động và mạnh mẽ trong trận trả đũa A Sử. Thân hình là một chàng trai to lớn. Với hàng loạt những động từ mạnh mà tác giả sử dụng rất đắc địa trong những câu văn với các vế câu ngắn, nhanh, mạnh, ngắn gọn, gấp gáp: A Phủ chạy vụt ra ném con quay rất to vào mặt A Sử. A Phủ xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp. Với những hành động của A Phủ người đọc nhận thấy rất nhiều gợi ý về con người này. Không chỉ là một sức mạnh của một con người cường tráng. Mà đó còn là phẩm chất của một con người thấy chuyện bất bình không bỏ qua. Thậm chí khi biết đó là con quan nhưng cũng không sợ. Thậm chí A Phủ biết đánh con quan là mắc tội chết, nhưng vẫn làm vì bản tính của một con người ngay thẳng không chịu khuất phục trước cường quyền. Với những hành động mà A Phủ đánh A Sử còn cho thấy sức mạnh từ nội tại bên trong một con người – một Lục Vân Tiên của thời hiện đại. Lần theo thời gian, tác giả đưa ta về với tuổi thơ đầy sóng gió của A Phủ.

Đó là một chàng trai phải chịu đựng một tuổi thơ bơ vơ đau khổ. A Phủ quê ở Háng-bla, vừa mới lên mười tuổi đầu đã phải gánh chịu một tai họa khủng khiếp. Trận dịch đậu mùa tràn đến làm cho trẻ con, người lớn chết. Nhà A Phủ, cha mẹ, anh chị em cũng bị chết hết, chỉ con sót lại một mình A Phủ – một mầm sống khỏe. Làng chết nhiều quá, có người làng đói bụng đã bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. Là một thiếu niên có tính gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ đã trốn lên núi cao khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người khác để sống, lần nữa mùa này sang mùa khác, dù sống trong cảnh cực khổ, cô đơn, nhưng chẳng bao lâu A Phủ trưởng thành với biết bao những phẩm chất tốt đẹp của người lao động miền núi. A Phủ cứ thế lớn lên và trưởng thành với núi rừng Tây Bắc và mang đầy đủ, trọn vẹn những phẩm chất tốt đẹp của những con người nơi đây.

A Phủ là một chàng trai người Mèo có nhiều phẩm chất tốt đẹp của người lao động. A Phủ sớm tự khẳng định tính cách gan góc, một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Khi lớn lên, A Phủ chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khỏe hơn người: “công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng…”, “A Phủ chạy nhanh như ngựa”. Vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn sống một cuộc sống phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, tự tin của tuổi trẻ. “Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”. Bởi vậy được nhiều người con gái trong làng mê và trở thành niềm ao ước của biết bao cô gái. Họ kháo với nhau: “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”. Với tập tục, phép làng, lễ cưới xin khắc nghiệt của xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ, chàng trai không cha không mẹ, không ruộng nương, không tiền bạc ấy, làm sao có thể lấy nổi vợ, làm gì có gia đình, hạnh phúc?

Đau khổ hơn nữa, A Phủ là đứa con của núi rừng, tự do mà vẫn không thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Do tính tình phóng khoáng, bướng bỉnh và yêu lẽ phải, chính nghĩa nên A Phủ đã dám đánh lại con quan. Hành động dữ dội đó của A Phủ còn có nguyên cớ sâu xa từ một mối thù giai cấp gay gắt. Sau đó A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra và bọn tay sai bắt và đánh đập vô cùng tàn bạo, dã man hơn cả thời trung cổ.

Thông thường khi xử kiện thì có bên nguyên, bên bị, có người làm chứng, có quan phân xử. Ở cuộc xử kiện này có đầy đủ những thành phần đó nhưng sắp xếp đầy phi lí. Người kiện chính là A Sử, người xử kiện lại là thống lí Pá Tra đồng thời cũng là người cho vay tiền. Cán cân công lí đã xoay vần theo sức mạnh của quyền lực và tiền bạc.

Xử kiện thì phải diễn ra chốn công đường thâm nghiêm, minh bạch. Tất cả phải tỉnh táo về tinh thần. Ấy vậy mà cuộc xử kiện diễn ra ngay trong nhà Pá Tra. Và điều đặc biệt hơn nữa là ở đó lại chuẩn bị một tiệc cưới và tiệc hút. Các quan chức, thống quán, xéo phải kéo đến ăn cỗ, hút thuốc phiện và đánh đập A Phủ suốt từ trưa đến hết đêm: “càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Người bị xử, là trung tâm của buổi xử kiện thì không được nói một lời nào. Cứ mỗi lần bọn chức việc hút xong A Phủ lại quỳ trước nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Hai đầu gối sưng bạnh ra như mặt hổ phù”. Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Cứ liên tục quay vòng những hành động: Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Và không chỉ diễn ra trong chốc lát cảnh tượng xử kiện hãi hùng này mà nó kéo dài suốt chiều, suốt đêm. Đúng là cảnh tượng xử kiện có một không hai trong lịch sử văn học. Sự bất công, độc ác trong cuộc xử kiện đã lột trần bộ mặt thật của bọn chúa đất phong kiến miền núi.

Như vậy dưới ách thống trị tàn bạo và khắc nghiệt của lũ chúa đất, cuộc sống của người dân nghèo miền núi thật thảm thương, họ bị đánh đập hành hạ như một con vật. Tuy vậy A Phủ không hề khóc lóc, van xin mà trái lại vẫn tỏ ra cứng rắn, gan dạ “A Phủ quỳ chịu đòn chỉ im lặng như tượng đá”.

Cuối cùng, với cách xử kiện quái gở, A Phủ đã bị phạt làm nô lệ suốt đời không công cho nhà thống lí. Đáng ra với tội đánh con quan thì A Phủ sẽ bị xử tội chết nhưng A Phủ được tha cho mạng sống để làm nô lệ để trả nợ cho Pá Tra “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Và số tiền mà A Phủ phải vay để thiết đãi các quan làng xử kiện là 100 đồng bạc trắng. Không có tiền phải vay nhà thống lí. Cảnh thống lí cho A Phủ vay tiền cũng nghịch lí không kém gì cảnh xử kiện. Pá Tra lấy tráp ở ngăn bàn ra, để mở trăm bạc trắng rồi đưa cho A Phủ sờ tay vào coi như đã nhận tiền rồi cúng trình ma nhận mặt con nợ. Vẫn là một lối mòn cũ, giống như đã làm với Mị: dùng cường quyền để ép A Phủ, sau đó dùng thần quyền để mê hoặc: cúng trình ma để con nợ không còn có ý định trốn thoát nữa. A Phủ trở thành tên nô lệ chung thân bị khinh rẻ, bị ngược đãi trong vòng kiểm soát của thống lí Pá Tra.

Từ đây A Phủ sống cuộc đời của thân phận nô lệ, bị thống lí bòn rút sức lao động “đốt rừng, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, ngựa quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. 

Khắc họa nhân vật thông qua những hành động, A Phủ hiện lên trong tác phẩm như một nhân vật anh hùng cổ trang, kiếm lời mà sống động. Dù số phận của Mị và A Phủ có những điểm chung nhưng cách miêu tả và khắc họa chân dung hai con người thì không giống nhau. Nhưng đó là số phận tiêu biểu cho người dân vùng cao Tây Bắc. Từ bóng tối của cuộc đời đau khổ tủi nhục, họ đã vươn tới ánh sáng rực rỡ của nhân phẩm, của tự do và cách mạng. Đó cũng là giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này.

Phân tích cảnh xử kiện A Phủ - mẫu 2

Cùng sinh năm 1920 và đều là hai cây bút văn xuôi nổi tiếng, nhưng nếu Kim Lân là nhà văn “quý hồ tinh bất quý hồ đa” thì Tô Hoài lại có bút lực dồi dào không ngừng nghỉ. Đến năm 90 tuổi, ông vẫn không ngừng viết văn và để lại nhiều tác phẩm ấn tượng. Nổi bật trong số đó là “Vợ chồng A Phủ”.

Tác phẩm xoay quanh không khí và văn hóa của đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam. Cả tác phẩm là một cuộc trỗi dậy mạnh mẽ về tinh thần của người dân lao động khốn khổ chống lại áp bức bất công của giai cấp thống trị miền núi trước Cách mạng tháng Tám.

A Phủ được giới thiệu là một người mồ côi, một thân một mình, bị bán xuống đồng tháp, trốn trở lại đồng cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ nhỏ, A Phủ đã gan bướng, dũng cảm. Chàng trai lao động giỏi, không ngại những việc nặng nhọc, nguy hiểm, là niềm mơ ước của bao cô gái. Tuy vậy, A Phủ vẫn đi chơi ngày tết, mơ ước tìm bạn kết đôi. Cho thấy đây là một chàng trai khao khát hạnh phúc và tình yêu. A Phủ như đứa con, như cánh chim của núi rừng Tây Bắc.

Nhân vật A Phủ bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh qua vụ xử kiện vô lí của gia đình nhà thống lí Pá Tra. Từ vụ xử kiện này, A Phủ từ một chàng trai tự do yêu đời trở thành một nô lệ tàn đời mãn kiếp cho nhà thống lí. Nguyên nhân cũng chính vì A Phủ dám cả gan đánh A Sử. Trong cảnh A Phủ đánh nhau với A Sử, Tô Hoài đã sử dụng một loạt động từ mạnh: chạy vụt ra, vung tay, ném, xốc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé áo, đánh tới tấp. Đọc đoạn văn này, người đọc có cảm tưởng được chứng kiến một cách đầy hả hê trận đòn của chàng trai nghèo trừng trị đám con quan cậy quyền, cậy thế.

Tuy vậy, tất cả những mơ ước khát vọng đó đã chấm dứt khi chàng trở thành nô lệ của nhà thống lí. Bản án trong phiên xử kiện này: A Phủ ban đầu bị buộc tội chết rồi lại được tha. Với thống lí Pá Tra, A Phủ sống để làm việc trả nợ (nộp vạ 100 đòng bạc trắng). Chàng trai yêu tự do ngày nào bị biến thành con nợ truyền kiếp. Tuy sự việc khác nhau nhưng cách thức bị bó buộc và hành hạ về thể xác và tinh thần của hai nhân vật vốn không liên quan là Mị và A Phủ đều giống nhau. Đó là cách bọn cầm quyền, thống trị ở các địa phương đầy đọa người dân trước khi được Cách mạng giải phóng. A Phủ bị bắt làm các công việc nặng nhọc nguy hiểm, trở thành nô lệ không công do món nợ không biết đến ngày nào mới trả hết. A Phủ cũng không dám nghĩ đến việc trốn do quyền lực khủng khiếp của nhà thống lí Pá Tra. Dù làm việc vất vả, khổ cực nhưng chỉ cần một sai lầm cũng khiến A Phủ phải chịu tội. Tai họa ập đến với A Phủ khi lỡ để hổ ăn mất một con bò. A Phủ bị trói vào cọc. Tính mạng của con người bị rẻ rúng chưa bằng một con vật. Nhà thống lí mất một con bò, nhưng A Phủ lại phải trả giá bằng mạng sống của mình. Đó là một hành động dã man, mất nhân tính của bọn thống trị, coi thường mạng sống của người lao động chân chính. Nhưng cũng chính từ sự bất hạnh này đã đem đến cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ và cảm xúc cho A Phủ và Mị.

Từ một cô gái vô cảm, chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, mị vẫn thản nhiên: “A Phủ là cái xác chết vẫn thế thôi”. Nhưng khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ: “lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đây là một chi tiết nghệ thuật đắt giá khơi dậy tình yêu, sức sống của Mị. Mị lập tức nhớ lại cảnh mình bị trói trong đêm tình mùa đông mà không có một ai đến cứu. Có lẽ, giọt nước mắt của con người đã chạm đến trái tim của các nhà văn và họ luôn tìm cách để khai thác nó đem đến giá trị trong tác phẩm của mình. Chúng ta thấy cuộc gặp gỡ của hai cây bút văn xuôi hiện thực nổi tiếng Tô Hoài và Nam Cao. Nam Cao cũng từng có một truyện ngắn mang tên “Nước mắt” và rất nhiều tác phẩm của Nam Cao, hình ảnh nước mắt có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Với Nam Cao, “nước mắt là giọt châu của loài người”, “nó có thể thanh lọc tâm hồn con người”. Phải chăng, khi miêu tả dòng nước mắt trên đôi gò má đã xám đen lại của A Phủ- một chàng trai người Mông gan góc, khỏe mạnh khác thường sắp trở thành một xác chết trên cây cọc nhà thống lí Pá Tra, Tô Hoài cũng nghĩ đến điều này?

Chính nhờ giọt nước mắt này mà Mị đã quyết tâm cắt dây cởi trói cho A Phủ, giải thoát cho một con người sắp phải đứng trước bờ vực của cái chết. Nhưng khi cắt dây xong, Mị lại hốt hoảng, lo sợ vì chính mình sẽ phải chết thay A Phủ, chính mình sẽ bị trói vào cây cọc đó đến chết do sự tàn ác của nhà thống lí. Mị nhanh chóng quyết định sáng suốt: “ A Phủ cho tôi đi”, “ở đây thì chết mất”. Lòng ham sống, khát vọng sống và tình yêu thương của Mị đã cứu thoát cả Mị và A Phủ khỏi “địa ngục trần gian”. Họ đã cùng nhau xây dựng hạnh phúc trên miền đất mới và giác ngộ lí tưởng Cách mạng. Từ đó họ không chỉ là vợ chồng mà còn là những người chiến sĩ kề vai sát cánh bên nhau để tiêu diệt kẻ thù trở thành một biểu tượng của đồng bào dân tộc miền Núi.

Tác phẩm “Vợ chồng” A Phủ đã để lại ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc: từ cốt truyện cho đến cách tác giả xây dựng nhân vật. Thông qua đó, nhà văn đã thể hiện sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người dân lao động vùng cao- niềm tự hào cho tâm hồn và phẩm chất của nhân dân Việt Nam.

Phân tích cảnh xử kiện A Phủ - mẫu 3

Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hóa những con tàu.

Những câu thơ của Chế Lan Viên gợi nhắc cho bạn đọc về một vùng đất Tây Bắc với nhiều hoang sơ, bí ẩn. Khám phá Tây Bắc đâu chỉ có những hồn thơ của Chế Lan Viên. Ta còn từng bắt gặp Tô Hoài với riêng một tập truyện viết về phong tục về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Trong đó truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện ngắn tiêu biểu nhất của tập truyện Tây Bắc. Truyện ngắn thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật và A Phủ là nhân vật tiêu biểu trong toàn bộ câu chuyện.

A Phủ là chàng trai người H”mông nghèo khổ bất hạnh. Mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ, bị người làng đem bắt bán cho người Thái ở dưới thấp, sau đó A Phủ trốn ngược về vùng cao và sống lưu lạc khắp vùng Hồng Ngài, đi ở cho hết nhà này đến nhà kia. Đến tuổi trưởng thành, A Phủ vẫn nghèo, chỉ có hai bàn tay trắng nên không lấy nổi vợ.

Nhưng A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, cường tráng, cần cù, dũng cảm và tài ba: đốt rừng, làm nương, cuốc nương, chăn bò, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình tăng và biết đục cuốc. Đặc biệt, A Phủ luôn khao khát cuộc sống tự do phóng khoáng. Ngay từ khi mới lên mười, cậu bé A Phủ đã không chịu sống cùng người Thái dưới chân núi mà muốn trở lại vùng cao, chấp nhận cuộc sống nơi nay đây mai đó nhưng được là con chim của núi rừng tự do.

Từ một chàng trai tràn đầy sinh lực, bản tính mạnh mẽ, kiên cường luôn khao khát cuộc sống tự do, phóng khoáng. A Phủ bị giai cấp thống trị tàn bạo cột chặt vào kiếp đời nô lệ đau đớn tủi nhục. Nhưng nếu như nỗi khổ của Mị triền miên, dai dẳng, thầm lặng thì nỗi khổ của A Phủ được miêu tả tập trung qua hai cảnh đó là cảnh sự kiện phạt và và cảnh A Phủ bị trói đứng vì làm mất bò.

Cảnh sự kiện phạt vạ diễn ra chỉ vì A Phủ đã dám đánh lại con quan chính là A Sử rồi khiến cho A Phủ bị bắt về nhà thống lý chịu kiện. Một phiên tòa đặc biệt lạ lùng và tàn bạo đến mức chưa từng có. Công đường là nhà thống lí, quan tòa lại chính là thống lí Pá Tra. Thành phần tham gia xét xử đông đảo với đầy đủ chức sắc trong vùng, trịnh trọng trang nghiêm, chỉ có nằm hút thuốc phiện và ăn cỗ.

Nhân chứng lại là đám trai làng- những công cụ của thống lý. Còn bị cáo A Phủ thì không được trình bày, không được nghe luận tội mà chỉ luôn quỳ im mà chịu đòn. không khí phiên tòa diễn ra đầy nhốn nháo, náo loạn của tiếng kể, chửi bới, đấm đá và tiếng rít thuốc phiện, khói thuốc phiện ngào ngạt tuồn qua các ô cửa. Kết thúc xử kiện, A Phủ phải chịu một số tiền phạt và khổng lồ và phi lý.

Ngoài tiền cho người bị đánh, cũng phải trả toàn bộ tiền cho các quan, cho người đi gọi các quan về, toàn bộ số tiền hút thuốc phiện từ hôm qua đến hôm sau và cả một con lợn cho làng ăn cỗ. Tất cả lên tới một trăm đồng bạc trắng và Pá Tra thừa biết A Phủ không thể nào có tiền trả cho nên hắn đã cho A Phủ vay nợ, suốt đời làm trâu làm ngựa trả nợ cho hắn: đời mày, đời con, đời cháu mày bao giờ hết nợ tao mới thôi”.

Để sợi dây trói buộc thêm chắc chắn khi thì Pá Tra gọi con ma về nhận mặt người vay nợ rồi toàn bộ số bạc cho A Phủ vay lại hoàn nguyên vào túi của thống lý. Cuộc sống nô lệ tủi nhục của A Phủ bắt đầu từ giây phút ấy. Đau đớn, chân bước đi tập tễnh, A Phủ phải cầm dao đi giết lợn làm cỗ cho những kẻ vừa đánh đập chửi bới phạt vạ mình.

Và từ một chàng trai khỏe mạnh, dũng cảm, khao khát cuộc sống tự do, A Phủ đã phải sống một kiếp đời như trâu ngựa cùng với đàn trâu đàn ngựa nhà thống lý. Qua cách sự kiện phạt vạ, nhà văn Tô Hoài đã tố cáo bản chất tham lam, độc ác của giai cấp thống trị miền núi. Chúng đã dùng mọi thủ đoạn thâm độc để áp mức cột chặt những con người lao động tự do vào kiếp đời nô lệ để bóc lột họ đến kiệt cùng.

Chỉ vì sơ ý làm mất một con bò nhà thống lý mà A Phủ phải chịu một hình phạt thật thảm khốc. Nỗi khổ nhục của A Phủ trước hết là tự tay đào lỗ chôn cột, lấy dây mây để cho người khác trói mình. A Sử đã trói A Phủ một cách tàn nhẫn: trói đứng A Phủ bằng một cuộn dây mây đến khi thống lý vào lại thòng thêm hai thòng lòng vào cổ làm cho A Phủ không cựa quậy được rồi bỏ mặc A Phủ trong đau đớn, đói rét cho tới chết để đền mạng cho con bò của gia đình thống lý.

Qua đó, ta thêm hiểu về tội ác dã man tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi Chúng coi sinh mạng của con người không bằng con vật và càng hiểu thêm nỗi thống khổ con người lao động khi bị đẩy vào kiếp đời nô lệ. Họ đã bị tước đoạt hoàn toàn quyền sống, quyền làm người.

Tô Hoài đã xây dựng nhân vật A Phủ bằng bút pháp điển hình hóa, vừa cụ thể vừa khái quát. Cả A Phủ và Mị đều có những phẩm chất số phận tương đồng nhưng cách khắc họa nhân vật của nhà văn đã có những thay đổi và sáng tạo để phù hợp với con người hiện thực. A Phủ là được khắc họa qua ngôn ngữ và hành động. Những biểu hiện, lời nói và hành động của A Phủ thường ngắn gọn, dứt khoát quyết liệt rất phù hợp với tính cách và góp phần thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.

Phân tích cảnh xử kiện A Phủ - mẫu 4

Nằm trong tập Truyện Tây Bắc (1953), truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một trong những”đứa con tinh thần” ưu tú của chuyến đi thực tế miền núi Tây Bắc của Tô Hoài. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét cuộc sống và số phận bất hạnh của những người nông dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến. Qua đó tác giả cũng làm nổi bật lên khát vọng và nghị lực sống mãnh liệt của họ. Bên cạnh nhân vật Mị, A Phủ chính là một nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc về bản lĩnh vượt lên số phận và chính mình.

A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại khiến người cho đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. Nhân vật xuất hiện trước mắt người đọc trong lần đánh nhau với A Sử con trai thống lí Pá Tra nên bị bắt, bị phạt vạ và đánh đập rất dã man. Từ đây, tác giả đã ngược dòng để kể về lai lịch của A Phủ, giúp người đọc hình dung rõ hơn về con đường đời vượt lên số phận của anh.

A Phủ là một đứa trẻ sinh ra trong nghèo khổ, đau đớn hơn lại mồ côi cả cha lẫn mẹ sau một trận dịch đậu mùa. Chính vì thế mà cả năm tháng tuổi thơ của anh phải sống kiếp nô lệ đọa đày khi bị người làng bắt trói rồi đem bán cho người Thái ở dưới cánh đồng. Thế nhưng, không chịu khuất phục số phận, A Phủ đã liều lĩnh bỏ trốn lên Hồng Ngài, làm thuê làm mướn đủ nghề từ mùa này sang mùa khác để kiếm sống nuôi thân. Bản lĩnh gan góc, sức sống tiềm tàng đã được trui rèn trong những năm tháng cơ cực ấy và đó cũng chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau trong cuộc đời A Phủ.

Chẳng những thế, ở A Phủ còn là một con người trọng tình và đầy nghĩa khí. Gặp chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn xông vào để bênh vực cho bạn của mình. Điều này đã cho thấy A Phủ là một chàng trai gan dạ và chí khí.

Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ đã bị bọn người nhà thống lý đánh đập hết sức dã man, tàn bạo từ trưa cho đến đêm muộn. “Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu”. Thế nhưng bọn người nhà thống lý “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Mặc dù bị đánh đập và rất đau đớn nhưng A Phủ không hề khóc lóc van xin mà trái lại “A Phủ quỳ, chịu đòn, chỉ im như tượng đá”. Sự im lặng chịu đựng của anh đã cho thấy bản lĩnh gan dạ, không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai và sự bất lực, căm phẫn đến tột độ vì không thể làm gì được.

Cuối cùng kết thúc phiên xử kiện tàn độc, A Phủ đã bị thống lý Pá Tra buộc làm nô lệ không công suốt đời cho nhà hắn để trừ nợ. Đó là kiếp người sống mà bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải đảm đương cả những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như “săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng”.

Với cảnh xử kiện và kết quả của cuộc xử kiện đã cho thấy giai cấp địa chủ thống trị dường như luôn luôn tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống dưới đáy của xã hội, không cho họ có một chút cơ hội nào ngoi lên đòi quyền sống và được làm người đúng nghĩa. Có thế bọn địa chủ mới hả hê, mới yên lòng.

Cùng với Mị, cuộc đời và tính cách của A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và phẩm chất của người dân vùng cao Tây Bắc. Từ trong tăm tối của đau khổ, tủi nhục, bằng sức mạnh của chính mình họ đã vươn tới ánh sáng của nhân phẩm và tự do, ánh sáng của Cách mạng. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo mới mẻ và sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này.

Phân tích cảnh xử kiện A Phủ - mẫu 5

Đọc truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, chúng ta có thể cảm nhận được sự hoành của chế độ thực dân phong kiến khiến cho người dân lao động nghèo khổ phải chịu biết bao khó khăn, bất công, điều này được thể hiện rõ nét qua cảnh xử kiện có một không hai là Thống lí Pá Tra xét xử A Phủ vì tội đánh A Sử trọng thương.

A Phủ vốn là một chàng trai mồ côi từ nhỏ, năm mười tuổi, vì bị bán đổi lấy thóc, cậu đã chạy trốn lên vùng núi Hồng Ngài và ở lại nơi đây. Trong một đêm nọ, cậu và đám trai làng xảy ra mâu thuẫn với A Sử vì sự hống hách, cậy thế cậy quyền của hắn mà A Phủ đã đánh trọng thương A Sử, hậu quả là cậu bị binh lính bắt trói, giải về nhà Pá Tra chờ xét xử.

Đây cũng là một phân cảnh xử kiện có một không hai khi chứa đựng quá nhiều tình tiết vô lý. Cuộc xét xử này cũng có đầy đủ thành phần như quan phân xử, người làm chứng, bị cáo, nguyên cáo, nhưng nó lạ ở chỗ A Sử là người đi kiện, còn người xử kiện lại là bố hắn, ông Thống lí Pá Tra, có thể thấy được cán cân công lí khó mà tồn tại ở đây.

Và quả thực như dự đoán, cảnh xử kiện lại diễn ra ngay trong nhà Pá Tra, với tiệc rượu, cỗ bàn, thuốc phiện nghi ngút. Các quan lại thì phê pha trong khói thuốc, rượu chè nhìn A Phủ bị đánh đập, hành hạ một cách dã man từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối khiến cho “Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu”, cậu cứ thế đón nhận những trận đòn trong im lặng mà không hề phản kháng hay kêu ca.

Sau một đêm dài với những cơn phê thuốc, những trận đòn ghê người, cuối cùng A Phủ bị phạt chẵn một trăm đồng bạc, cộng thêm một con lợn hai mươi cân để mổ cho các quan làng ăn vạ. Vì A Phủ không có tiền, nên cậu phải chấp nhận ở đợ cho nhà thống lí Pá Tra để trừ nợ. Đây đúng là một vở kiện có một không hai trong lịch sử văn học nhưng thực tế, dưới thời phong kiến thực dân lúc bấy giờ thì nó không còn mấy xa lạ.

Qua đây, chúng ta có thể thấy được sự áp bức, bóc lột của những tên chúa đất được bọn quan lại phong kiến bảo vệ, họ ra sức bắt nạt người dân miền núi nghèo khó, khiến cho họ mãi bị luẩn quẩn trong vòng kiểm soát của những tên cường hào ác bá này.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học