5+ Phân tích giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập (điểm cao)
Đề bài: Phân tích giá trị lịch sử của bản "Tuyên ngôn độc lập". Nêu một cảm nhận về phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản "Tuyên ngôn Độc lập" này.
5+ Phân tích giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập (điểm cao)
Bài giảng: Tuyên ngôn độc lập - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Dàn ý Giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập
1. Mở bài
- Giới thiệu kết cấu bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.
- Nhấn mạnh "phần tuyên ngôn" và hai yêu cầu của đề bài.
2. Thân bài
a) Ý nghĩa sâu sắc của phần Tuyên ngôn
* Nội dung tuyên ngôn đầy đủ, toàn diện, chặt chẽ, dứt khoát.
- Tuyên bố thoát li và xoá bỏ mọi ràng buộc với Pháp (về quan hệ, hiệp ước, đặc quyền)
- Tuyên bố với thế giới về độc lập và tự do của nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam trên cả ba phương diện:
+ Có quyền hưởng tự do và độc lập.
+ Sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập.
+ Quyết giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.
* Ý nghĩa lịch sử của Tuyên ngôn độc lập rất sâu sắc và tiến bộ.
- Đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập.
- Đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà.
Như vậy là cùng một lúc, cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã giải quyết cả hai nhiệm vụ: độc lập cho dân tộc và dân chủ cho nhân dân, đưa nước Việt Nam sang một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội (Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi trước đó, do hoàn cảnh lịch sử, chỉ mới giải quyết được độc lập dân tộc).
b) Lập luận chặt chẽ, giọng văn hùng biện đầy sức thuyết phục
* Lập luận chặt chẽ
- Lời tổng kết tình hình trong một câu ngắn gọn, hàm súc: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị".
- Nêu ý nghĩa lịch sử của Tuyên ngôn độc lập bằng hai câu gọn, rõ ràng.
- Tuyên bố với Pháp: "thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam (về chứ không phải với), xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất Việt Nam" (chữ dùng chính xác và dứt khoát).
- Tranh thủ các nước Đồng minh (tin rằng , quyết không thể không) công nhận quyển độc lập của dân tộc Việt Nam.
- Khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam một cách mạnh mẽ bằng những điệp ngữ được láy đi láy lại ("Một dân tộc đã gan góc , dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!"). Những điều trên đây là tiền đề về lí luận đồng thời cũng là để tạo không khí đưa bài văn đến cao trào, đến lời tuyên bố cuối cùng, lời tuyên bố trịnh trọng với thế giới về ba phương diện của một nước Việt Nam tự do, độc lập.
* Giọng văn hùng biện
Phần lập luận trên đây cũng cho ta thấy giọng văn hùng biện qua cách dùng từ, qua điệp ngữ, qua lời văn trang trọng và giọng văn đanh thép, dứt khoát, khẳng định.
3. Kết bài
- Tất cả các điểm trên đã làm nên sức thuyết phục mạnh mẽ của "phần tuyên ngôn” trong bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử này.
- Đó là do tài nghệ của tác giả, nhưng nguồn gốc sâu xa lại chính là ở tấm lòng yêu nước nồng nàn, tha thiết và ý chí độc lập tự do đã trở thành máu thịt, tâm hồn của người Việt.
Giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập - mẫu 1
19-8-1945, chính quyền ở thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. 23-8 tại Huế, trước 15 vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Ngày 25-7, hơn 80 vạn đồng bào Sài Gòn, Chợ Lớn, quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy mười ngày, Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ. Chế độ thực dân kéo dài 80 nãm cùng với chế độ phong kiến hàng ngàn năm sụp đổ tan tành.
Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập", khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên mới Độc lập, Tự do. Hà Nội tưng bừng màu đỏ, cả một vừng trời bát ngát cờ, đèn và hoa.
Đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập" đến nửa chừng, Hồ Chủ tịch dừng lại và bỗng dưng hỏi: "Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?". Tức thì một tiếng "có" của triệu người cùng đáp, vang dậy như sấm.
"Việt Nam độc lập muôn năm!" - Một triệu con người, một triệu tiếng hô cùng hòa làm một, vang dội núi sông, khi Hồ Chủ tịch vừa kết thúc bản Tuyên ngôn:
"Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ quyền tự do và độc lập ấy".
Có thể nói: bản "Tuyên ngôn Độc lập" thể hiện một cách hùng hồn khát vọng, ý chí và sức mạnh Việt Nam. Nó có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Nó phản ánh một cách tập trung nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh.
Nếu như "Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt mở đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư", "Bình Ngô đại cáo" khẳng định một chân lí lịch sử: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân - Quân điếu phạt lo trừ bạo", thì "Tuyên ngôn Độc lập" lại mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản "Tuyên ngôn Độc lập" nổi tiếng trên thế giới.
Câu thứ nhất trích dẫn từ bản "Tuyên ngôn Độc lập" của nước Mĩ năm 1776:
"Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Câu thứ hai rút ra từ bản "Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền" của Cách mạng Pháp năm 1791:
"Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn bình luận, suy rộng ra: "tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do", và đi tới khẳng định: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được". Qua đó, ta thấy ý tưởng cao cả, sâu sắc của Hồ Chí Minh là từ sự xác nhận và đề cao một lí tưởng thời đại về tự do, bình đẳng, bác ái, nhân quyền đi đến một yêu cầu, một khát vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam là lập dân tộc. Và "Độc lập -Tự do - Hạnh phúc" là mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, việc trích dẫn ấy còn là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của dư luận tiến bộ trên thế giới nhất là đối vói các cường quốc năm châu. Như vậy, khi ta nói đến giá trị lịch sử của "Tuyên ngôn Độc lập" trước hết phải nói đến dụng ý chiến lược và chiến thuật của việc trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản "Tuyên ngôn Độc lập" của Mĩ và Pháp.
Giọng văn từ trang nghiêm, trang trọng chuyển thành hùng hồn, căm giận khi Hồ Chủ tịch vạch trần và lên án tội ác của thực dân Pháp đối với nhản dân ta trong gần một thế kỉ qua. Bộ mặt của chúng vỏ cùng xảo quyệt và dã man "lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đế cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta". Tác giả đã điểm qua một cách khái quát và điển hình tội ác của thực dân Pháp trên các Rnh vực về chính trị, kinh tế và những tôi ác khác chồng chất như núi. Đó là 5 tội ác ghê tởm về chính trị và 5 tội ác cực kì dã man về kinh tế của chúng.
Năm tội ác lớn về chính trị là tước đoạt quyền tự do dân chủ; luật pháp dã man, chia để trị; đàn áp và khủng bố, thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bằng rượu cồn và thuốc phiện "để làm cho nòi giống ta suy nhược". Trong "Bình Ngô đại cáo" Nguyễn Trãi đã nói về tội ác của quân "cuồng Minh": "Nướng đen hung tàn - Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Hơn 500 năm sau, trong "Tuyên ngôn Độc lập", người anh hùng giải phòng dân tộc Hồ Chí Minh cũng viết:
"Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu".
Đó là những bằng chứng không ai chối cãi được. Câu văn ngắn, đanh thép, hùng hồn. Chữ "chúng" được nhắc lại nhiều lần đầy ám ảnh. Cách so sánh cụ thể, mỉa mai (lập ra nhà tù nhiều hơn trường học). Cách dùng vị ngữ, trạng ngữ xác đáng (thẳng tay chém giết), cách dùng hình ảnh (bể máu).- tất cả tạo nên phong cạch chính luận Hồ Chí Minh: súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục.
Năm tội ác về kinh tế của thực dân Pháp là bóc lột dân ta đển tận xương tủy, khiến cho "dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều"; cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu; độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng v.v... Lên án chính sách sưu thuế vô nhân đạo của chúng, tác giả căm giận viết: "Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng". Hàng trăm thứ thuế vô lí ấy của thực dân Pháp đã bóc lột dân ta đến tận xương tủy.
... "Các hạng thuế, các làng tăng mãi,
Hết đinh điền rồi lại trâu bò,
(...) Làm cho thập thất cửu không,
Làm cho đau đớn khôn cùng không thôi!..."
("Đề tỉnh quốc dân ca" 1906)
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt hèn nhát và phản bội của thực dân Pháp. Mùa thu năm 1940, thực dân Pháp "quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta, rước Nhật". Pháp và Nhật đã cấu kết với nhau, bóc lột dân ta thậm tệ, gây ra thảm hoạ năm Ất Dậu, 1945: "Từ đó, dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó, dân ta sống khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói".
Sự hèn hạ, tàn ác của thực dân Pháp không thể nào kể xiết! Ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính Pháp "quân Pháp bỏ chạy hoặc đầu hàng". Tác giả châm biếm lên án: "Chúng chẳng những không "bảo hộ" được ta, trái lại trong 5 năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật!". Thậm tệ và tàn nhẫn hơn nữa là trước khi rút chạy "chúng còn nhẫn tầm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng".
Bằng cách lập luận chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một sự thật lịch sử: Từ năm 1940 trở đi, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Để đập tan luận điệu của Đờ Gồn và bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu "tái chiếm" Đông Dương, Hồ Chí Minh hùng hồn tuyên bố:
"Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp".
"Tuyên ngôn Độc lập" có giá trị lịch sử to lớn. Tác giả chỉ rõ một cục diện chính trị mới: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị". Từ nô lệ, dân ta đã giành được độc lập: "Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập". Một chế độ mới, một Nhà nước mới ra đòi: "Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập chế độ Dân chủ Cộng hòa".
Phần tiếp theo là lời tuyên bố sáng ngời chính nghĩa, thể hiện một quyết tâm sất thép, không một thế lực thù địch nào có the lay chuyến nổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trôn lập trường dân tộc kêu gọi các nước Đồng minh "công nhận quyền độc lập của nhân dân Việt Nam". Đồng thời mạnh mẽ tuyên bố: "thoát li hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyển của Pháp trên đất nước Việt Nam". Tác giả tự hào nêu cao truyền thống anh hùng bất khuất chống thực dân, chống phát xít của dân tộc ta và khẳng định: "Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!".
Kết thúc bản "Tuyên ngôn Độc lập" là một lời tuyên bố mang ý nghĩa lịch sử như một lời thề thiêng liêng, thể hiện sâu sắc khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta, biểu thị quyết tâm và sức mạnh Việt Nam:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải, để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập - mẫu 2
Một áng văn nổi tiếng của Nguyễn Ái Quốc – Bác Hồ – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam chính là bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tác phẩm này vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn chương sâu sắc.
Bản tuyên ngôn có giá trị lịch sử to lớn bởi trước hết nó là một văn kiện lịch sử quan trọng. Nó là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới, là mốc son lịch sử mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do trên đất nước ta. Văn kiện lịch sử này không chỉ được đọc trước quốc dân, đồng bào, mà còn để công bố với thế giới, đặc biệt là những lực lượng thù địch và cơ hội quốc tế đang mang dã tâm muốn nô dịch nước ta thêm lần nữa. Thời kỳ mà chúng ta xóa bỏ được những xiềng xích của bọn thực dân phát xít phong kiến, đưa nước ta sang một trang sử mới, một thời kỳ mới. Thời kỳ chính quyền thuộc về tay nhân dân. Đó chẳng phải là một sự kiện trọng đại mang tính lịch sử hay sao? Chính vì là một văn kiện có tầm quan trọng trong một hoàn cảnh đặc biệt như thế mà bản Tuyên ngôn độc lập đã trở thành áng văn bất hủ và mang tính lịch sử đến thế.
Vậy còn tính văn chương? Bản Tuyên ngôn độc lập được đánh giá là một áng văn chính luận đặc sắc,ngắn gọn, súc tích, đầy sức thuyết phục. Với việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn của hai cường quốc Mĩ và Pháp đã giáng đòn cao tay, gậy ông đập lưng ông về phía chúng. Tất cả những từ ngữ, cách chuyển đoạn cùng với nghệ thuật đặc sắc của bản Tuyên ngôn đều cho thấy điều đó. Việc lặp cấu trúc cú pháp, sử dụng phương pháp liệt kê cùng lời lẽ đanh thép đã tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân. Lời lẽ của Người còn có khả năng tác động mạnh mẽ đến người đọc người nghe. Người có thế khiến người đọc người nghe dấy lên lòng căm thù chỉ bằng lời văn của mình. Chính phong cách viết văn chính luận của Bác đã để lại nhiều bài học cho thế hệ cầm bút sau này. Bởi vậy mà tác phẩm càng có giá trị văn chương hơn.
Bản Tuyên ngôn độc lập còn là áng văn tâm huyết tràn đầy lòng yêu nước cỉa Người. Người viết bản Tuyên ngôn mà không chỉ viết bằng lí trí mà còn bằng cả trái tim mình. Bác đã để lại nhiều bài học văn chương cho nhiều thế hệ cầm bút Việt Nam. Khi cầm bút phải xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung hình thức để tác phẩm sâu sắc về tư tưởng, thiết thực về nội dung và phong phú đa dạng về hình thức.
Tóm lại, với "Tuyên ngôn độc lập" của Hồ Chí Minh, tác phẩm là một áng văn bất hủ, là một văn kiện lích sử trọng đại, một áng văn chính luận mẫu mực, thể hiện một tư tưởng lớn, tình cảm lớn, quyết tâm lớn.
Giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập - mẫu 3
Ra đời trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai vừa kết thúc, các nước Đồng minh đang tranh giành ảnh hưởng, đòi chia quyền kiểm soát những vùng bọn phát xít từng chiếm đóng, bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nói với nhân dân Việt Nam mà còn nói với tất cả thế giới, không chỉ tuyên bố độc lập mà còn mở đầu cho một cuộc đấu tranh, không chỉ đấu tranh với thực dân Pháp mà còn đấu tranh với bọn đế quốc, thực dân, phát xít.
Sau khi khéo léo và kiên quyết xác lập cơ sở pháp lí và cơ sở thực tế với lập luận chặt chẽ đầy thuyết phục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời tuyên bố về quyền độc lập dân tộc và bày tỏ quyết tâm bảo vệ quyển độc lập ấy.
Ngay trong những ngày Cách mạng tháng Tám sôi nổi, hào hùng, toàn dân náo nức trong chiến thắng, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã nhận thấy vận mệnh nước ta đang “ngàn cân treo sợi tóc”. Trong nước, bọn phản động tìm cách ngóc đầu dậy đòi lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ. Trên thế giới, bọn đế quốc đang lăm le tiến vào Việt Nam. Hột nghị Pốt-xđam (7-1945) quyết định: Anh vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào, Tưởng Giới Thạch từ vĩ tuyến 16 trở ra. Để chuẩn bị cho âm mưu tái chiếm Việt Nam, thực dân Pháp tung ra trước dư luận thế giới luận điệu xảo trá: Đông Dương là thuộc địa của Pháp, Pháp có công khai hóa xứ này đương nhiên có quyền trở lại. Chính tướng Đờ-gôn đã tuyên bố sẽ tổ chức Đông Dương thành liên bang gồm “5 nước tự trị” (Lào – Cam pu chia – Nam Kì – Trung Kì – Bắc Kì). Tất cả được dặt dưới sự chỉ đạo của quan toàn quyền.
Bản tuyên ngôn ra đời trong hoàn cảnh đó. Cho nên Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định quyền độc lập của nước Việt Nam mới mà còn viết một bản luận chiến sắc sảo bác bỏ và đập tan luận điệu của thực dân Pháp, đánh đòn phủ đầu vào âm mưu tái chiếm Việt Nam của Pháp và âm mưu can thiệp vào Việt Nam của các nước đế quốc khác, tranh thủ sự đồng tình rộng rãi của dư luận quốc tế.
Phần đầu của bản tuyên ngôn, bằng những lí lẽ, lập luận chặt chẽ, sắc sảo, vừa khéo léo vừa kiên quyết, Hồ Chí Minh đã triệt để phủ nhận quyền dính líu tới Việt Nam của Pháp. Đó chính là cơ sở pháp lí và cơ sở thực tế của lời tuyên ngôn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nền độc lập của dân tộc Việt Nam bằng ba câu văn hết sức ngắn gọn nhưng ý nghĩa vô cùng sâu sắc:
“Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.
Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập.
Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.”
Câu thứ nhất xác nhận sự hết thời của thực dân, phát xít và phong kiến. Câu thứ hai khẳng định nền độc lập dân tộc. Câu thứ ba khẳng định chính thể mới. Ba câu văn ngắn gọn, cô đọng, hàm súc gợi mở nhiều lớp nghĩa. Đặc biệt câu thứ nhất, câu văn chỉ có 7 từ mà gần như gói trọn lịch sử 100 năm chống Pháp của dân tộc, khái quát những sự kiện lịch sử trọng yếu, gợi được tầm cỡ vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. Sự thật lịch sử được gợi lên với không khí sử thi hoành tráng, không khí vùng lên quật khởi của dân tộc và sự thảm bại của bọn xâm lược cùng bọn tay sai bán nước. Cùng một lúc, Cách mạng tháng Tám đã giải quyết cả hai nhiệm vụ: độc lập dân tộc và dân chủ, đưa nước Việt Nam bước vào kỉ nguyên mới.
Từ thực tế lịch sử đó, bản tuyên ngôn đi đến tuyên bố lập trường của nước Việt Nam mới: “Chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu của toàn dân Việt Nam...”. Lời tuyên bố vang lên dõng dạc, tự hào, xác định tư thế độc lập, tự chủ, xác định chủ quyền đất nước.
Tiếp đó là lời tuyên bố với thực dân Pháp. Lời tuyên bố vừa đầy đủ, toàn diện vừa chặt chẽ, dứt khoát: “tuyên bố thoát li hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết các hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam“. Lời tuyên bố kiên quyết và dứt khoát, âm hưởng câu văn dõng dạc, hùng hồn. Hồ Chí Minh đã bác bỏ toàn bộ luận điệu xảo quyệt của Pháp trước dư luận thế giới. Hoàn cảnh lịch sử lúc đó có thể có người nghĩ rằng Việt Nam là thuộc địa của Pháp bị phát xít Nhật chiếm, nay Nhật hàng, Pháp có quyền trở lại. Điều tuyên bố quan trọng nhất là tuyên bố về quan hệ với Pháp, xóa bỏ mọi hiệp ước mà Pháp đã kí về Việt Nam. Người viết dùng chữ “về” chứ không phải chữ “với”. Kí “về” Việt Nam là kí có tính chất áp đặt, ép buộc, còn kí “với” Việt Nam là kí trên tinh thần hợp tác. Pháp kí “về” Việt Nam là kí trong tình trạng “ép cung” triều đình nhà Nguyễn. Những từ: “thoát li hẳn”, “xóa bỏ hết”, “xóa bỏ tất cả” đã nhấn mạnh một cách kiên quyết, dứt khoát việc cắt đứt mọi sự dính líu của Pháp tối Việt Nam.
Tiếp theo là sự ràng buộc các nước Đồng minh vào việc công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam: “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận các nguyên tắc dân tộc bỉnh đẳng ở hội nghị Tê-hê-răng và Cửu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập dân tộc Việt Nam”. Những câu văn khẳng định hoặc phủ định của phủ định có tác dụng mạnh mẽ trong việc buộc các nước Đồng minh phải công nhận và tôn trọng quyền độc lập dân tộc của Việt Nam. Đó là một lẽ tất yếu không thể khác.
Không những thế, để tăng sức thuyết phục, bẻ gãy hoàn toàn luận điệu của Pháp, bản tuyên ngôn nêu lên một thực tế: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải đước tự do! Dân tộc đó phải được độc lập. Những câu văn với kết cấu song hành tạo nên một điệp khúc âm vang vừa hào hùng vừa đanh thép thể hiện thế đứng và quyền của dân tộc Việt Nam. Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đổng minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật thì dân tộc Việt Nam đại diện Đồng minh đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng đã giành được chủ quyền từ tay Nhật. Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính cách đê hèn, tàn bạo ở hành động thẳng tay “khủng bố” Việt Minh” thậm chí đến khi thua chạy chúng còn “tàn nhẫn giết chết số đông tù ở Yên Bái và Cao Bằng” thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng và nhân đạo “giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên giới”, “cứu cho nhiều người Pháp khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tải sản, tính mạng cho họ”. Đó là truyền thống mà dân tộc ta đã có từ ngày lập nước và Nguyễn Trãi cũng đã từng nói đến trong Bình Ngô đại cáo.
Một dân tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo. Một dân tộc đã anh dũng chiến đấu cho độc lập, tự do. Một dân tộc luôn nêu cao lá cờ bác ái, nhân đạo, “Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” Lời khẳng định hùng hồn như một chân lí bất di bất dịch. Theo Chế Lan Viên: “Hai lần nhấn mạnh chữ “gan góc”, bốn lần nhấn mạnh chữ “dân tộc” và hai câu gần như lặp lại theo mẫu “dân tộc đó phải được…” mang sức nặng như những nhát dao chém đá”.
Tất cả những lời tuyên bố trên là tiền đề về lí luận cũng như tạo không khí để đưa đến cao trào, đó là lời tuyên bố cuối cùng, lời tuyên bố trịnh trọng trước thế giới về ba phương diện của một nước Việt Nam tự do, độc lập:
– “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập”.
– “Và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”.
– “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Hưởng tự do, độc lập không phải chỉ là một cái quyền phải có, không phải chỉ là một tư cách cần có mà đó là một hiện thực. Lời tuyên bố có ý vị như một lời thề bộc lộ ý chí và quyết tâm cao độ của dân tộc việt Nam. Câu văn kết lại bản tuyên ngôn cũng chính là mở ra một thời kì mới, thời kì đấu tranh “toàn dân, toàn diện, trường kì và tự lực cánh sinh” (Hồ Chí Minh – Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến) để đánh đuổi thực dân Pháp, bảo vệ chủ quyền đất nước.
Tóm lại, phần tuyên ngôn cũng như toàn bộ văn bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị nhiều mặt, có ý nghĩa lịch sử sâu sắc, tiến bộ: chấm dứt chế độ phong kiến, đánh đổ xiềng xích thực dân, xây dựng một nước Việt Nam mới, mở ra kỉ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nội dung tuyên ngôn đầy đủ, toàn diện, chặt chẽ, dứt khoát. Sức thuyết phục mạnh mẽ chính là ở tài nghệ chính luận của tác giả, nhưng nguồn gốc sâu xa chính là ở tấm lòng yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập dân tộc cao cả và khát vọng hòa bình cháy bỏng. Tất cả những điều đó đã trở thành máu thịt, thành lẽ sống trong tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ của người viết.
Tuyên ngôn độc lập nói chung, phần tuyên ngôn nói riêng chính là một bản anh hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh. Đó là khát vọng của cả dân tộc. Đó là thành quả đấu tranh trong gần một thế kỉ của cả dân tộc. Tuyên ngôn Độc lập được viết bằng máu của hàng triệu người Việt Nam yêu nước đã hi sinh trong cuộc đấu tranh bền bỉ, kiên cường ấy. Tuyên ngôn còn là sự hun đúc của hồn thiêng sông núi, tiếp nối truyền thống Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam, ý chí và sức mạnh Việt Nam để từ đây mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc. Thực tế 30 năm chiến tranh gian khổ, bền bỉ, kiên cường, đau thương mà anh dũng của dân tộc ta chống Pháp, chống Mỹ chính là câu trả lời cho ý chí sắt đá mà tuyên ngôn của Bác đã vang lên như một lời thề trong giờ phút thiêng liêng, trọng đại của đất nước.
Giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập - mẫu 4
Hồ Chí Minh không chỉ là nhà cách tài ba, người anh hùng cứu quốc mà còn là một nhà văn lớn của dân tộc. Người đã để lại một di sản văn học với số lượng đồ sộ, có giá trị sâu sắc. Trong đó, tác phẩm chính luận Tuyên ngôn độc lập được coi là áng văn bất hủ, kết tinh những tư tưởng tài năng tâm huyết của Hồ Chí Minh. Tác phẩm đã tuyên bố với toàn thế giới về nền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam vì thế mà nó không chỉ mang ý nghĩ văn chương mà còn mang ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn.
Cuộc cách mạng tháng Tám hoàn toàn thắng lợi nhân dân ta giành được chính quyền. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình( Hà Nội) Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam mới trước hàng chục vạn đồng bào. Đây là bài tuyên ngôn có ý nghĩ vô cùng sâu sắc đánh dấu một sự kiện lớn của đất nước. Về mặt lịch sử, bản tuyên ngôn độc lập đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc: kỉ nguyên của độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Đó là kết quả sau bao nhiêu năm chiến đấu “đánh đổ chế độ phong kiến hàng mấy mươi thế kỷ, đánh đổ ách đô hộ của thực dân Pháp hơn 80 năm”, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Là thời khắc thiêng liêng huy hoàng đáng nhớ trong lịch sử dân tộc. Bản tuyên ngôn độc lập không chỉ thể hiện một cách hùng hồn khát vọng, ý chí sức mạnh Việt Nam, mà còn là sự khẳng định tuyên bố với thế giới rằng nước Việt Nam là một nước độc lập có chủ quyền không ai có thể xâm phạm được. So với bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất( Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt) và bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai( Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi) thì bản tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí Minh đã vươn lên một tầm cao mới ở tầm vóc hướng ra thế giới trên tinh thần dân chủ tự do có kết hợp với truyền thống yêu nước.
Trong không khí phấn khởi của cuộc chiến thắng lớn đó, bản tuyên ngôn lại càng trở nên cần thiết nó như một văn kiện để tuyên bố chắc chắn với những người dân suốt đời sống trong sự áp bức bóc lột rằng cuộc sống của họ đã khác, từ nay sẽ được tự do được sống một cuộc đời thực sự. Vậy nên ngay trong phần mở đầu bản tuyên ngôn đã là lời kêu gọi đồng bào và lời trích dẫn bản tuyên ngôn của hai nước lớn trên thế giới vừa có dụng ý đặt nước ta sánh ngang cùng với các cường quốc vừa để cho mọi người thấy rõ quyền lợi chính đáng mà mình được có là được tự do làm chủ cuộc đời chứ không phải là sự cam chịu làm nô lệ để người khác áp bức. Sau phần mở đầu đầy hào hứng mà cương quyết đó Bác đã tổng kết lại toàn bộ quá trình lịch sử của dân tộc bằng lời văn ngắn gọn mà xúc tích rõ ràng. Trước hết là tội ác của thực dân Pháp, chúng mượn cớ bảo hộ nhưng thực chất là cướp đoạn của cải, đồng hóa nhân dân ta làm cho dân ta sống trong khổ cực ngu dốt bằng cách thi hành những luật pháp dã man ở trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị cho đến văn hóa giáo dục. Khi Nhật đến chúng không hề làm đúng với trách nhiệm đã nói là bảo vệ dân tộc ta mà trước thế lực lớn mạnh đó chúng giao nước ta cho Nhật để họ mặc sức cướp bóc. Bác đã chỉ rõ thực dân pháp “hai lần bán nước ta cho Nhật” làm dân ta đã khổ lại càng khổ hơn.
Bên cạnh tội ác của thực dân Pháp đã gây ra bao đau thương cho dân tộc là sự đấu tranh vươn lên không bao giờ khuất phục của nhân dân ta. Trước nạn đói khủng khiếp làm hơn hai triệu người chết dân ta đã vươn lên mạnh mẽ giành chính quyền từ quân Nhật hung hãn và sự cản trở của Pháp. Ta đã tự đấu tranh để giành chính quyền phá bỏ vòng xiềng xích áp bức của cả Nhật và Pháp. Bên cạnh đó khi giành được chính quyền nhân dân ta vẫn khoan dung bác ái khi giúp nhiều người Pháp trốn thoát để về quê hương.
Không chỉ có giá trị to lớn về mặt lịch sử, bản tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có giá trị vô cùng ý nghĩa về mặt văn chương. Tác phẩm ngắn gọn chưa tới một nghìn chữ nhưng rất chặt chẽ và hoàn chỉnh. Với lời văn đanh thép, lý lẽ thuyết phục, chứng cứ rõ ràng Bác đã nêu bật sự giả dối và tội ác dã man của thực dân Pháp đồng thời khẳng định mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh của dân tộc ta. Tác phẩm nhờ đó vừa đảm bảo tính đúng đắn của một văn bản chính luận vừa mang những nét độc đáo của một tác phẩm văn chương lớn.
Về kết cấu, bản Tuyên ngôn chia làm ba phần rõ rệt với mỗi phần một ý nghĩa và liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong phần một Hồ Chí Minh đã nêu lên những chân lý về nhân quyền và dân quyền để làm cơ sở pháp lý cho bản tuyên ngôn. Phần này bác đã nêu hai bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và bản Tuyên ngôn của cách mạng Pháp năm 1971 để khẳng định quyền thiêng liêng của mỗi con người đều được có:” tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn này, Bác đã đặt bản tuyên ngôn độc lập của ta ngang hàng với bản Tuyên ngôn của các nước như lớn như Pháp, Mỹ. Từ đó khẳng định quyền được sống tự do của mỗi con người nâng lên thành quyền được hưởng tự do của mỗi dân tộc.
Phần thứ nhất đã làm nền cho phần thứ hai của bản tuyên ngôn. Trong phần thứ nhất Bác khẳng định quyền thiêng liêng của mỗi con người, của mỗi dân tộc là quyền được sống, được tự do độc lập và mưu cầu hạnh phúc. Ở phần thứ hai của bản tuyên ngôn Bác đã chỉ rõ tội ác của bọn thực dân Pháp đã gây ra cho đất nước ta, nhân dân ta. Hành động của chúng thật dã man vô nhân đạo đi ngược lại tinh thần của bản tuyên ngôn dân nhân quyền và dân quyền trong cuộc cách mạng của chính nước họ. Đối lập với sự xảo trá độc ác đó là tinh thần nhân đạo yêu độc lập tự do và tinh thần quyết tâm giành và bảo vệ độc lập của dân tộc ta. Đến phần cuối cùng Bác nói về kết quả của tinh thần yêu nước yêu độc lập của dân tộc ta và tuyên bố trịnh trọng với thế giới rằng:” nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập sự thật đã thành một nước tự do độc lập”.
Bài giảng: Tuyên ngôn độc lập - Cô Vũ Phương Thảo (Giáo viên VietJack)
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 Ôn thi THPT Quốc gia khác:
Sách VietJack thi THPT quốc gia 2025 cho học sinh 2k7:
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều