10+ Phân tích khổ 2 Đất nước (điểm cao)
Phân tích khổ 2 Đất nước điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Phân tích khổ 2 Đất nước
- Phân tích khổ 2 Đất nước (mẫu 1)
- Phân tích khổ 2 Đất nước (mẫu 2)
- Phân tích khổ 2 Đất nước (mẫu 3)
- Phân tích khổ 2 Đất nước (mẫu 4)
- Phân tích khổ 2 Đất nước (mẫu 5)
- Phân tích khổ 2 Đất nước (mẫu 6)
- Phân tích khổ 2 Đất nước (mẫu 7)
- Phân tích khổ 2 Đất nước (mẫu 8)
- Phân tích khổ 2 Đất nước (mẫu 9)
- Phân tích khổ 2 Đất nước (các mẫu khác)
10+ Phân tích khổ 2 Đất nước (điểm cao)
Dàn ý Phân tích khổ 2 Đất nước
I. Mở bài
- Giới thiệu chung về tác phẩm: "Đất Nước" là một trong những bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Khoa Điềm trong tập thơ "Mặt đường khát vọng". Bài thơ viết về tình yêu quê hương đất nước, thể hiện một cách nhìn tổng thể và sâu sắc về Đất Nước trong cả không gian và thời gian.
- Giới thiệu về khổ 2: Khổ thơ thứ hai của bài thơ là phần thể hiện mối quan hệ giữa đất và nước, sự kết hợp giữa không gian và thời gian, giữa hiện tại và quá khứ, giữa tình yêu cá nhân và tình yêu đất nước. Đây là những hình ảnh sống động và rất đỗi gần gũi, nhưng cũng mang một ý nghĩa sâu xa, tượng trưng cho sự gắn kết chặt chẽ giữa con người với quê hương, đất nước.
II. Thân bài
1. Chất liệu dân gian trong khổ thơ
- Các hình ảnh dân gian quen thuộc: "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc", "con cá ngư ông móng nước biển khơi" thể hiện sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.
- Những hình ảnh này không chỉ mang tính chất biểu tượng mà còn kết nối quá khứ với hiện tại, tạo nên một không gian thiêng liêng, vĩnh hằng của Đất Nước.
2. Đất và Nước trong mối quan hệ biểu trưng
- “Đất là nơi anh đến trường / Nước là nơi em tắm” là sự phân biệt giữa đất và nước, giữa những khía cạnh đời thường trong cuộc sống con người. Đất là nơi gắn liền với sự trưởng thành, học hỏi, còn nước là nơi nuôi dưỡng, làm tươi mát tâm hồn và tình cảm.
- Đất và Nước không chỉ là vật chất, mà còn là những yếu tố thể hiện sự sống, sự sinh tồn của con người. Chúng tạo nên môi trường để con người sinh ra, lớn lên và phát triển.
3. Đất Nước là mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại
- Khổ thơ kết hợp các yếu tố truyền thống, lịch sử của dân tộc, từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, cho đến việc nối kết những thế hệ con cháu với truyền thống yêu nước.
- Hình ảnh "Lạc Long Quân và Âu Cơ / Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng" mang đậm tính chất huyền thoại, là biểu tượng của sự kết nối giữa các thế hệ trong một vòng tuần hoàn không bao giờ đứt đoạn.
4. Đất Nước trong tình yêu và sự đoàn kết
- Những câu thơ như "Những ai đã khuất / Những ai bây giờ" nhấn mạnh mối quan hệ giữa những người đã khuất và những người đang sống, giữa quá khứ và hiện tại, để cho thấy rằng Đất Nước luôn trường tồn qua các thế hệ.
- Hình ảnh "Yêu nhau và sinh con đẻ cái" cho thấy tình yêu quê hương, đất nước không chỉ là tình cảm cá nhân mà là tình cảm chung của tất cả mọi người, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
5. Đất Nước trong lòng mỗi người
- Đoạn thơ cuối của khổ 2 là phần quan trọng nhất, khi "Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm". Đất Nước không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà trở thành một phần trong mỗi con người. Chúng ta không chỉ yêu đất nước mà còn là một phần của đất nước.
- "Khi chúng ta cầm tay mọi người / Đất nước vẹn tròn, to lớn" khẳng định rằng mỗi cá nhân đều là một bộ phận của Đất Nước, và khi những cá nhân đoàn kết lại, Đất Nước trở nên vẹn tròn, mạnh mẽ.
III. Kết bài
Khổ thơ thứ hai của bài thơ "Đất Nước" thể hiện một tầm nhìn sâu sắc và toàn diện về Đất Nước, không chỉ là mảnh đất và con sông, mà là một khối thể hiện tình yêu thương, sự đoàn kết và mối quan hệ giữa các thế hệ. Bài thơ khẳng định rằng Đất Nước không chỉ tồn tại trong không gian mà còn là một phần trong lòng mỗi người dân, mỗi cá nhân.
Phân tích khổ 2 Đất nước - mẫu 1
Mở đầu bài Đất Nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm khơi dạy cho tâm hồn người đọc tìm về cội nguồn, để nói rõ hơn sự hình thành Đất Nước thì đến đoạn thơ thứ 2, đôi mắt thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã được sánh với hình ảnh Đất Nước trong chiều rộng của không gian, trong chiều dài của thời gian lịch sử và trong mối quan hệ gắn bó của mỗi nhân vật.
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Tác giả “Nguyễn Khoa Điềm“ tiếp tục cho thấy cách sử dụng từ, câu linh hoạt và sáng tạo của mình ở đây, nhà thơ đã chiết tự hai từ Đất Nước để phân tích về linh hồn thẳm sâu bên trong nó. Đất đó là nơi anh đến trường, nước đó là nơi em tắm, nghĩa là hình ảnh đất nước hiện lên vô cùng gần gũi, gắn bó khăng khít với cuộc sống của con người chúng ta. Xưa kia, viết về Đất Nước các nhà thơ thường gọi nó, ví von nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ, nay tác giả đã cho ta thấy về đất nước còn là không gian tình tứ, nơi gắn kết tình cảm, nơi khơi nguồn và là những điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm của một người con gái, vậy nên vừa lớn lao mà cũng có thể gọi là là mảnh kí ức gợi nhớ thương cho tâm hồn bất cứ ai. Hai câu thơ tiếp, Đất Nước lại hiện lên trong những câu ca dao, tục ngữ, để thấy được Đất Nước không được chỉ đánh thức ký ức tuổi thơ, mà còn đánh thức cả những miền kí ức văn hóa của chúng ta và những nét đẹp dân gian truyền thống của cộng đồng.
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Đất Nước là sự vun đắp, là sự kết thành giữa dòng chảy trôi bất tận của thời gian mênh mông, nhưng thời gian ở đây không phải thời gian vô tri vô thức, mà là thời gian của lịch sử văn hóa. Nói lại truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ, nhắc về ký ức lịch sử văn hóa dân tộc, và đồng thời cũng là một điểm tựa để gợi về nét đẹp văn hóa văn học dân gian của dân tộc. Đất Nước trong thời gian đằng đẵng, và Đất Nước còn trường tồn bất tử trong không gian mênh mông bao la, không gian hùng vĩ với vị thế vĩ đại.
Ta có thể nhìn Đất Nước trong cả chiều dài thời gian, chiều rộng không gian, Đất Nước còn là sự kết nối những thế hệ trước và thế hệ kế tiếp
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Để tạo nên bề dày văn hóa, lịch sử của Đất Nước, chắc chắn là sự bồi đắp, tiếp nối của biết bao thế hệ cháu con đã ngã xuống, hy sinh vì độc lập dân tộc. Đất Nước sáng mãi trong tâm khảm mỗi người bởi sự những hi sinh vĩ đại, lớn lao, bởi tinh thần dân tộc như ngọn lửa vĩ đại tiếp nối bao thế hệ. Và vì thế, những người con dân tộc luôn tự nhắc mình đạo lí Uống nước nhớ nguồn truyền thống: Hàng năm, đều nhớ ngày giỗ tổ ở đoạn thơ này, nhà thơ nhìn Đất Nước trong cả những mối quan hệ của mỗi cá nhân:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nòng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”.
Trong mỗi chúng ta, đều thấm nhuần linh hồn của Đất Nước. Đất nước vì thế là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, và giữa mỗi cá nhân với tất cả mọi người, giữa cái nhỏ bé và cái to lớn, giữa cái gần gũi mộc mạc đơn sơ và cái xa xôi lớn lao. Để từ đó, bắc cây cầu đến trái tim của độc giả, rằng: Đất nước ở trong ta chứ không phải ở ngoài ta.
Viết về Đất Nước, thì đó là nguồn cảm hứng bất tận ở trong mỗi thời kỳ lịch sử, các nhà thơ, nhà văn lại lấy vào nó điệu hồn của thời đại mình. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm đã viết Đất Nước với mong muốn thức tỉnh những người chiến sĩ tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc, để soi sáng, đã dẫn đường cho họ, thế nhưng giọng thơ của ông không hề mang tính khô khan mà chan chứa, đằm thắm những nghẹn ngào, như một lời gửi gắm chân thành, như một sự chuyển giao giữa các thế hệ. Khiến cho người đọc như phần nào thêm đồng cảm, thêm thấu hiểu về sự hòa quyện, gắn kết của Đất Nước trong tâm hồn mỗi chúng ta. Đất Nước là máu xương của mỗi người, cũng là vì nó được gây dựng và được giữ gìn bằng sự sống và tình yêu của đất nước thiêng liêng của biết bao thế hệ, bao người lính đã hi sinh đã ngã xuống vì chúng ta. Và còn bởi, Đất Nước cho ta hình hài máu thịt, đã cho chúng ta cách sống và cách nghĩ, cho chúng ta điểm tựa của truyền thống văn hóa, lịch sử – những yếu tố đó đã vun đắp nên những vẻ đẹp và nét tâm hồn riêng của con người Việt Nam, trong đó có cả anh và em, có mỗi cá nhân chúng ta. Nếu bất cứ một cá nhân nào tồn tại đều là những sự đơn độc mà không có một cộng đồng để bám víu, để làm điểm tựa cho khi sự trưởng thành và dưỡng nuôi về văn hóa tinh thần, thì chẳng khác nào ta trở thành kẻ cô đơn ư ? Đó chính là ý nghĩa thẳm sâu nhất mà bài thơ Đất Nước có sức ảnh hưởng đến mỗi chúng ta. Vì thế mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm hóa thân cho chính dáng hình xứ sở, đều phải gắn bó và cố gắng bảo vệ, vì đó cũng là sự tạo tác tinh thần của mỗi chúng ta.
Đoạn thơ thứ hai đã thể cho ta thấy sự sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về hình ảnh Đất Nước. Do đó, nó không chỉ tạo nên sự đồng cảm trong tâm hồn người đọc mà còn cho ta thấm đẫm những triết lý, tư tưởng. Nhưng cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là diễn đạt nó bằng cảm xúc nồng nàn, suy tư sâu lắng, bằng cả trái tim nhiệt huyết.
Phân tích khổ 2 Đất nước - mẫu 2
Trong nền văn học kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ với phong cách trữ tình – chính luận đặc sắc. Bài thơ “Đất Nước”, trích trong chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”, là một tác phẩm điển hình thể hiện chiều sâu tư tưởng, cái nhìn mới mẻ và gần gũi về đất nước. Trong đó, khổ thơ thứ hai nổi bật như một bản hòa ca về sự hòa quyện giữa đất và nước, giữa con người với không gian – thời gian, giữa quá khứ – hiện tại – tương lai. Khổ thơ đã mở ra một hình ảnh Đất Nước dung dị mà thiêng liêng, gần gũi mà sâu sắc.
Ngay từ những câu đầu tiên, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một hình ảnh Đất Nước không chỉ hiện hữu ở địa lý mà còn hiện hữu trong cuộc sống đời thường:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm”
Hình ảnh đất và nước được cá nhân hóa, gần gũi và gắn bó với sinh hoạt hằng ngày. “Anh đến trường”, “em tắm” là những hoạt động giản dị, quen thuộc, gợi lên một không gian thân thương, bình dị mà ai cũng từng trải qua. Từ đó, hình ảnh đất nước không còn xa lạ mà trở nên gần gũi với mỗi người dân – đó là nơi gắn với kỷ niệm tuổi thơ, với những bước chân trưởng thành.
Tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm mở rộng không gian của Đất Nước với hình ảnh tình yêu:
“Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Tình yêu đôi lứa xuất hiện như một phần không thể thiếu trong khái niệm về đất nước. “Chiếc khăn” là biểu tượng cho sự dịu dàng, e ấp của người con gái, là vật mang theo kỷ niệm, nỗi nhớ. “Nỗi nhớ thầm” gợi lên những tình cảm sâu kín, da diết. Như vậy, Đất Nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là không gian địa lý, lịch sử, mà còn là nơi lưu giữ ký ức tình yêu, là không gian của những cảm xúc chân thật và riêng tư.
Không chỉ dừng lại ở đó, khổ thơ còn khéo léo đưa người đọc quay về với những truyền thuyết dân gian, với nguồn gốc xa xưa của dân tộc:
“Đất là nơi ‘con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc’
Nước là nơi ‘con cá ngư ông móng nước biển khơi’”
Những hình ảnh đậm màu sắc huyền thoại gợi lại những truyền thuyết thiêng liêng, những câu chuyện dân gian in sâu trong tâm hồn người Việt. “Con chim phượng hoàng”, “con cá ngư ông” là những biểu tượng vừa huyền ảo vừa gần gũi, mang ý nghĩa về sự sinh tồn, sự sống, và sức mạnh thiên nhiên. Qua đó, nhà thơ nhấn mạnh rằng đất nước không chỉ hiện diện trong đời sống hiện tại mà còn có gốc rễ sâu xa trong tâm hồn và lịch sử dân tộc.
Càng đi sâu, khổ thơ càng mở rộng biên độ không gian – thời gian của Đất Nước:
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Thời gian không bị bó hẹp ở hiện tại, mà trải dài “đằng đẵng”, biểu thị sự trường tồn. Không gian không chỉ là một vùng đất cụ thể, mà là “mênh mông”, bao la. Trong cái không – thời gian ấy, Đất Nước hiện lên là nơi quy tụ tình cảm, nơi gắn kết con người: “là nơi dân mình đoàn tụ”. Đó là tình cảm cộng đồng, là điểm hẹn của những trái tim chung thủy với quê hương, cội nguồn.
Khổ thơ tiếp tục mở ra một cách nhìn khác, kết nối truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ với thực tại:
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Hình ảnh “Chim – Rồng” gợi lại truyền thuyết con Rồng cháu Tiên – cội nguồn của dân tộc Việt. Huyền thoại ấy không chỉ thiêng liêng, mà còn là nền tảng gắn bó của cả dân tộc. Từ truyền thuyết ấy, tác giả chuyển tiếp sang sự kế thừa của các thế hệ:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau”
Những câu thơ như lời nhắc nhở về truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, về đạo lý làm người. Đất Nước không chỉ là nơi con người sinh ra, mà còn là nơi chúng ta tiếp nối, gìn giữ và phát triển những giá trị của cha ông.
Khổ thơ kết thúc bằng những câu thơ đầy cảm xúc và khẳng định mạnh mẽ vị trí của Đất Nước trong lòng mỗi người:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
Hình ảnh “cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” là hành động thiêng liêng của lòng biết ơn và tưởng nhớ cội nguồn. Qua đó, nhà thơ khẳng định rằng Đất Nước không phải điều gì xa xôi mà hiện diện trong từng con người, từng hành động nhỏ. Đặc biệt, hình ảnh “hai đứa cầm tay” và “cầm tay mọi người” nhấn mạnh tinh thần đoàn kết dân tộc, gợi nên một Đất Nước trong tình yêu, trong sự hòa hợp, và trong sức mạnh cộng đồng.
Khổ thơ thứ hai của bài thơ “Đất Nước” là sự kết tinh giữa chất trữ tình và tính chính luận, giữa truyền thống và hiện đại. Bằng những hình ảnh gần gũi và đầy biểu cảm, Nguyễn Khoa Điềm đã thổi vào khái niệm “Đất Nước” một sức sống mới – Đất Nước không chỉ là không gian sống, mà còn là nơi kết tinh của tình yêu, ký ức, văn hóa và lịch sử dân tộc. Chính sự kết nối sâu sắc ấy đã giúp Đất Nước trở thành một phần không thể tách rời trong mỗi con người Việt Nam hôm nay.
Phân tích khổ 2 Đất nước - mẫu 3
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học kháng chiến chống Mỹ, với giọng thơ kết hợp hài hòa giữa cảm xúc trữ tình và tư duy chính luận sâu sắc. Trong chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”, bài thơ “Đất Nước” đã trở thành một tác phẩm nổi bật thể hiện quan niệm mới mẻ về đất nước. Nếu như khổ đầu tiên mở ra một định nghĩa dung dị, gần gũi thì khổ thứ hai lại đẩy cảm xúc lên một tầm cao mới, thể hiện cái nhìn toàn diện, sâu sắc và đầy xúc động của tác giả về không gian – thời gian, về lịch sử và con người trong mạch chảy bất tận của Đất Nước.
Khổ thơ mở đầu bằng những hình ảnh quen thuộc:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm”
Câu thơ vừa giản dị, vừa thân thương. Đất nước không hiện lên với vẻ hùng vĩ, oai nghiêm mà chính là trong đời sống hằng ngày, gắn với kỷ niệm tuổi thơ, với mái trường, dòng sông, bến nước. Đất nước là nơi ta lớn lên, học chữ, là nơi dòng sông tuổi thơ tắm mát những ước mơ. Chính từ những điều bình dị ấy, khái niệm Đất Nước trở nên gần gũi hơn bao giờ hết, không xa lạ, trừu tượng mà ấm áp, thân thương.
Tiếp đó, tác giả khéo léo đưa vào yếu tố tình yêu – một khía cạnh đời sống rất riêng tư nhưng lại có sức gợi cảm xúc mạnh mẽ:
“Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Tình yêu đôi lứa được đưa vào như một phần không thể tách rời của đất nước. Đó là nơi chứa đựng những kỷ niệm ngọt ngào, những rung cảm nhẹ nhàng mà sâu lắng. Hình ảnh “chiếc khăn” – một biểu tượng giàu chất thơ, tượng trưng cho nỗi nhớ nhung, cho tình yêu trong sáng, e ấp. Cách nhìn ấy khiến người đọc cảm nhận rõ rằng đất nước không chỉ thuộc về lịch sử, chiến công mà còn là không gian của cảm xúc, của những con người đang sống và yêu.
Từ tình yêu lứa đôi, nhà thơ dẫn dắt ta về với chiều sâu văn hóa – nơi lưu giữ ký ức lịch sử, truyền thống dân tộc:
“Đất là nơi ‘con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc’
Nước là nơi ‘con cá ngư ông móng nước biển khơi’”
Hình ảnh “phượng hoàng”, “ngư ông” mang đậm màu sắc truyền thuyết và dân gian. Đây không chỉ là hình ảnh nghệ thuật mà còn gợi nhắc đến cội nguồn dân tộc, những câu chuyện kể từ thuở khai sinh. Từ đó, Nguyễn Khoa Điềm đưa ra một định nghĩa rộng hơn: Đất Nước là chiều sâu văn hóa, là nơi chứa đựng những tầng lớp ký ức thiêng liêng của cả một dân tộc.
Khổ thơ tiếp tục triển khai hình ảnh Đất Nước trong mối liên hệ với cộng đồng:
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Đất Nước không chỉ là nơi chốn, mà còn là điểm tựa, nơi hội tụ yêu thương, gắn kết con người. “Dân mình đoàn tụ” là hình ảnh của sự cố kết dân tộc, là mạch chảy bền bỉ của tình cảm cộng đồng. Nhà thơ không chỉ khắc họa Đất Nước ở khía cạnh cá nhân mà còn khẳng định nó như một giá trị chung, bền vững, thiêng liêng.
Bằng những hình ảnh từ truyền thuyết:
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến cội nguồn dân tộc – truyền thuyết con Rồng cháu Tiên. Đây không đơn thuần là chuyện kể dân gian mà là bản sắc, là niềm tự hào về nguồn gốc thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Qua đó, nhà thơ muốn khơi dậy ý thức về cội nguồn, về sự đoàn kết máu mủ giữa mọi người con đất Việt.
Phần tiếp theo của khổ thơ mở ra một suy tư đầy trách nhiệm:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau”
Đây không chỉ là lời nhắc nhớ đến truyền thống “uống nước nhớ nguồn” mà còn là sự kế thừa, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đất Nước là mạch nối giữa quá khứ – hiện tại – tương lai. Mỗi con người đều đang sống trong dòng chảy ấy, có trách nhiệm gìn giữ, phát triển và bảo vệ những giá trị mà cha ông để lại.
Khổ thơ khép lại bằng hình ảnh đẹp về lòng biết ơn và sự gắn bó:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”
Hình ảnh “cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” khẳng định truyền thống thiêng liêng của người Việt. Dù đi đâu, làm gì, người ta vẫn không quên cội nguồn. Và trong mỗi người – từ hành động nhỏ đến tình cảm sâu kín – đều mang một phần Đất Nước. Không chỉ là máu thịt, đó còn là ý thức dân tộc, là lòng tự hào và trách nhiệm.
Với ngôn ngữ giản dị, giọng thơ trữ tình – chính luận hài hòa, Nguyễn Khoa Điềm đã thổi vào khổ thơ một tinh thần mới, sâu sắc và gần gũi. Đất Nước hiện lên không chỉ là vùng đất địa lý, mà là không gian sống, tình yêu, văn hóa và lịch sử. Khổ thơ khép lại nhưng vẫn ngân vang mãi một tư tưởng: Đất Nước là của nhân dân, là kết tinh của quá khứ và hy vọng cho tương lai.
Phân tích khổ 2 Đất nước - mẫu 4
Trong nền văn học cách mạng Việt Nam hiện đại, Nguyễn Khoa Điềm là một cây bút tiêu biểu với giọng thơ chính luận – trữ tình đậm đà màu sắc suy tư và chiều sâu tư tưởng. Bài thơ “Đất Nước” trích trong chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” là một dấu ấn nghệ thuật đặc sắc, thể hiện rõ tấm lòng của người thi sĩ cách mạng đối với dân tộc, quê hương. Trong bài thơ ấy, khổ thứ hai đóng vai trò trung tâm trong việc mở rộng khái niệm “Đất Nước” – không chỉ là không gian sống mà còn là nơi lưu giữ văn hóa, lịch sử và cả tương lai của một dân tộc. Từng câu thơ trong khổ này như một làn sóng âm thầm mà mạnh mẽ, khơi dậy trong lòng người đọc tình yêu và ý thức sâu sắc về cội nguồn.
Mở đầu khổ thơ, nhà thơ lựa chọn những hình ảnh rất đời thường để khẳng định một cách gần gũi về khái niệm Đất Nước:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm”
Không có sự phô trương hay hình tượng hùng tráng nào ở đây, chỉ có hai hình ảnh thân thương của đời sống thường nhật: đến trường, tắm mát. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định rằng Đất Nước không ở đâu xa, không chỉ thuộc về những trang sử vàng hay những địa danh thiêng liêng, mà ở ngay trong từng bước đi, từng sinh hoạt hàng ngày của con người. Đó là một tư tưởng tiến bộ và đầy cảm xúc – đưa khái niệm đất nước về với đời sống nhân dân.
Hai câu thơ tiếp theo tiếp tục đào sâu vào khía cạnh cá nhân hóa hình ảnh đất nước:
“Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Cảm xúc riêng tư – tình yêu đôi lứa được đưa vào thơ một cách khéo léo và đầy lãng mạn. “Hò hẹn” – đó là khoảnh khắc thiêng liêng của tình yêu, và “chiếc khăn đánh rơi” lại là biểu tượng cho sự nhớ nhung, e ấp, dịu dàng. Đất Nước hiện ra không còn là khái niệm trừu tượng mà là không gian của cảm xúc, gắn liền với những khoảnh khắc đời thường nhất nhưng cũng thiêng liêng nhất. Nguyễn Khoa Điềm như đang nói với chúng ta rằng: ai đã từng sống, từng yêu thì trong mỗi người đều có một phần Đất Nước.
Nhà thơ tiếp tục mở rộng cái nhìn về Đất Nước trong mạch chảy lịch sử và văn hóa dân tộc:
“Đất là nơi ‘con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc’
Nước là nơi ‘con cá ngư ông móng nước biển khơi’”
Những hình ảnh mang đậm màu sắc truyền thuyết dân gian được đưa vào để khẳng định rằng Đất Nước không chỉ là hiện tại mà còn là sự tiếp nối của quá khứ. “Phượng hoàng” và “ngư ông” là biểu tượng cho cội nguồn, cho sự linh thiêng của thiên nhiên và văn hóa dân tộc. Qua đó, nhà thơ muốn khơi dậy niềm tự hào về truyền thống, về những giá trị cổ truyền đã góp phần hình thành nên linh hồn Đất Nước.
Tiếp nối mạch cảm xúc, nhà thơ chuyển sang không gian và thời gian để nhấn mạnh độ rộng lớn và chiều sâu của khái niệm Đất Nước:
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Câu thơ gợi ra sự bao la, trường tồn của đất nước – một không gian sống gắn bó với mọi thế hệ người Việt. Hình ảnh “dân mình đoàn tụ” không chỉ là hình ảnh gia đình, làng xóm mà còn là biểu trưng cho sự gắn bó cộng đồng, cho tinh thần cố kết dân tộc. Trong dòng chảy thời gian dài rộng ấy, con người Việt Nam vẫn luôn hướng về nhau, về một điểm chung: đất nước – mái nhà chung của cả dân tộc.
Sau đó, nhà thơ dẫn dắt người đọc trở về với truyền thuyết thiêng liêng của dân tộc:
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Từ truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ, tác giả khẳng định nguồn gốc cao quý và sự thống nhất máu thịt của dân tộc Việt Nam. Câu chuyện mang đậm sắc màu huyền thoại nhưng lại chính là nền móng tinh thần cho ý thức cộng đồng, lòng tự tôn dân tộc. Từ đó, tình yêu đất nước không chỉ là tình cảm mà còn là trách nhiệm – trách nhiệm giữ gìn một di sản quý báu đã được truyền lại từ tổ tiên.
Phần sau của khổ thơ mở ra chiều kích nhân văn sâu sắc:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau”
Đất Nước không chỉ thuộc về quá khứ hay hiện tại, mà còn là sự tiếp nối không ngừng nghỉ. Đó là sự chuyển giao giữa các thế hệ – từ ông bà, cha mẹ đến con cháu. Sự “gánh vác” không chỉ là kế thừa mà còn là phát triển và giữ gìn những giá trị đã gây dựng. “Dặn dò con cháu” là lời nhắc về trách nhiệm truyền thống, về ý thức bảo vệ những điều thiêng liêng thuộc về dân tộc.
Kết thúc khổ thơ là những hình ảnh đậm chất trữ tình và thấm đượm tinh thần tri ân:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”
Những câu thơ khép lại bằng sự kết nối giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tình yêu riêng và lý tưởng lớn. “Cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” là một nét đẹp truyền thống, là biểu hiện của lòng biết ơn và ý thức dân tộc. Đặc biệt, nhà thơ nhấn mạnh rằng mỗi người, mỗi tình yêu, mỗi hành động đoàn kết đều góp phần làm nên Đất Nước. Khi cá nhân biết sống vì nhau, vì cộng đồng, đất nước sẽ trở nên “vẹn tròn, to lớn” – không chỉ về diện tích mà còn về tinh thần.
Với ngôn ngữ dung dị nhưng giàu sức gợi cảm, với cấu trúc chặt chẽ và hình ảnh giàu tính biểu tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã khắc họa thành công một định nghĩa mới về Đất Nước: vừa cụ thể, gần gũi, lại sâu sắc và mang tính nhân văn cao cả. Khổ thơ thứ hai là điểm nhấn đặc biệt của bài thơ, làm bật lên tư tưởng cốt lõi: Đất Nước là của nhân dân, nằm trong từng khoảnh khắc sống và từng hành động yêu thương, gắn bó.
Phân tích khổ 2 Đất nước - mẫu 5
Trong kho tàng văn học Việt Nam hiện đại, “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là một thi phẩm tiêu biểu không chỉ bởi chất trí tuệ mà còn bởi cảm xúc chân thành, tha thiết. Đặc biệt, khổ thơ thứ hai trong đoạn trích thuộc trường ca Mặt đường khát vọng đã đem đến cho người đọc một cách nhìn mới mẻ và gần gũi về Đất Nước – nơi không chỉ hiện diện trong bản đồ, trong sách sử mà còn tồn tại trong từng khoảnh khắc đời sống và tâm hồn mỗi con người. Bằng giọng thơ trữ tình, sâu lắng mà dồn nén, khổ thơ đã mở ra một không gian vừa thực vừa mơ, vừa rộng lớn mà cũng hết sức đời thường.
Ngay từ những dòng đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã làm dịu cái tầm vóc sử thi của khái niệm “Đất Nước” để đưa nó về trong những hành động thân thuộc của tuổi thơ, của đời sống:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.”
Những câu thơ ngắn, nhịp nhàng như lời kể, lời thủ thỉ thân mật. “Đến trường”, “tắm”, “hò hẹn”, “đánh rơi khăn” – đó là những việc giản dị của đời sống, nhưng dưới cái nhìn của nhà thơ, chúng lại mang một ý nghĩa thiêng liêng: đó chính là nơi hiện hữu của Đất Nước. Cách định nghĩa này làm cho khái niệm Đất Nước trở nên gần gũi, thân quen, gắn bó mật thiết với đời sống hằng ngày của mỗi người dân.
Từ hiện tại thân thuộc, Nguyễn Khoa Điềm dẫn người đọc về miền ký ức dân gian:
“Đất là nơi 'con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc'
Nước là nơi 'con cá ngư ông móng nước biển khơi'…”
Hình ảnh chim phượng hoàng, cá ngư ông được trích từ các truyền thuyết, ca dao xưa. Đây là những biểu tượng văn hóa đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt. Việc đưa các hình ảnh ấy vào thơ không chỉ nhằm gợi lại một không gian truyền thống giàu bản sắc, mà còn khẳng định rằng Đất Nước không chỉ có mặt trong hiện tại mà còn sống động trong kho tàng văn hóa, trong đời sống tâm linh và tinh thần của dân tộc.
Sang đến hai câu tiếp:
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông…”
Cặp từ “đằng đẵng” và “mênh mông” gợi cảm giác vô biên của thời gian, vô tận của không gian. Đất Nước không phải là khái niệm nhỏ bé, hữu hạn mà mang tính trường tồn, bao quát. Qua đó, nhà thơ nhấn mạnh sự bền vững và rộng lớn của đất nước không chỉ ở địa lý mà cả trong chiều sâu lịch sử.
Hình tượng Đất Nước tiếp tục được nhà thơ mở rộng về cội nguồn huyền thoại:
“Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng.”
Không chỉ dừng lại ở khái niệm văn hóa – đời sống, nhà thơ đưa người đọc về truyền thuyết dựng nước. Truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ, vốn đã quen thuộc với người Việt, giờ được nhấn mạnh như một sợi dây thiêng liêng gắn kết cả dân tộc. “Đồng bào” – nghĩa là cùng một bọc – là cách nói sâu sắc về sự đoàn kết máu mủ của cộng đồng dân tộc. Đất Nước từ đó không chỉ là nơi ở, nơi sống mà còn là gốc rễ, là khởi nguyên thiêng liêng của cả dân tộc.
Tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định vai trò của con người trong việc gìn giữ, truyền nối đất nước:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau…”
Ở đây, Đất Nước không tĩnh tại mà luôn vận động, không phải là vật thể vô hồn mà được tiếp nối qua các thế hệ. Người sống hôm nay gánh trên vai “phần người đi trước để lại” – đó là ý thức về lịch sử, về trách nhiệm giữ gìn và xây dựng đất nước. Đất Nước không tự nhiên mà có, mà là kết quả của sự tích lũy, gìn giữ, dặn dò từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về trách nhiệm công dân.
Khổ thơ kết thúc bằng những câu thơ cảm động, thiêng liêng:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn.”
Chỉ một hành động “cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” thôi mà cả chiều sâu lịch sử, truyền thống, lòng biết ơn và tình yêu đất nước đều hiện ra. Không cần những tuyên ngôn lớn lao, chỉ cần giữ gìn ký ức, gìn giữ truyền thống là đã góp phần làm nên Đất Nước. Câu thơ “trong anh và em hôm nay đều có một phần Đất Nước” là một lời khẳng định tình yêu và trách nhiệm. Khi cá nhân nhận ra vai trò của mình trong dòng chảy đất nước, thì Đất Nước mới thật sự vẹn tròn.
Khổ thơ thứ hai của đoạn trích Đất Nước là một minh chứng rõ ràng cho tài năng của Nguyễn Khoa Điềm trong việc đưa tư tưởng lớn vào thơ bằng lối diễn đạt mộc mạc, gần gũi. Ở đó, ta bắt gặp hình ảnh Đất Nước không xa lạ mà hiện hữu trong từng góc nhỏ đời thường, trong mỗi con người, mỗi ký ức, và trong tình yêu thương chân thành. Một bài thơ như khúc tâm tình sâu lắng, thấm đẫm chất dân tộc và hồn Việt.
Phân tích khổ 2 Đất nước - mẫu 6
Ngôn ngữ của thơ ca luôn có khả năng chạm đến tầng sâu của cảm xúc và tư tưởng con người. Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Nguyễn Khoa Điềm là một trong những tiếng nói tiêu biểu của thế hệ nhà thơ gắn bó với lý tưởng cách mạng nhưng vẫn mang trong mình tâm hồn trữ tình, tha thiết. “Đất Nước” – trích trường ca Mặt đường khát vọng – là một khúc trữ tình – chính luận đặc sắc, nơi nhà thơ vừa lý giải, vừa khơi dậy tình yêu đất nước qua những hình ảnh gần gũi, thân quen. Trong đó, khổ thơ thứ hai là đoạn thơ đặc biệt giàu hình tượng và tư tưởng, thể hiện sâu sắc cách nhà thơ nhìn nhận về đất nước như một thực thể sống động, gắn liền với con người và văn hóa dân tộc.
Mở đầu khổ thơ, tác giả sử dụng những hình ảnh mang tính biểu tượng cao nhưng lại rất gần gũi trong đời sống thường nhật:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.”
Ở đây, “Đất” và “Nước” được tách ra thành hai hình ảnh riêng biệt, mang những chức năng đời thường cụ thể. “Anh đến trường”, “em tắm”, “ta hò hẹn”... đều là những hoạt động thân quen trong đời sống mỗi người, qua đó tác giả gửi gắm thông điệp: Đất Nước không ở đâu xa, mà chính là nơi gắn liền với cuộc sống bình dị hằng ngày. Câu thơ “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” đầy chất thơ, như một lời thủ thỉ, khiến Đất Nước hiện lên trong dáng vẻ lãng mạn, thân tình và chan chứa cảm xúc.
Không dừng lại ở hiện thực, nhà thơ dẫn dắt người đọc trở về không gian văn hóa dân gian:
“Đất là nơi ‘con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc’
Nước là nơi ‘con cá ngư ông móng nước biển khơi’…”
Hình ảnh phượng hoàng và cá ngư ông mang đậm màu sắc truyền thuyết và huyền thoại. Chúng không chỉ là biểu tượng nghệ thuật mà còn là biểu hiện của niềm tin, của thế giới tâm linh trong văn hóa dân tộc. Qua đó, Đất Nước không chỉ hiện diện trong đời sống thực tại, mà còn tồn tại trong tâm thức cộng đồng, trong những câu chuyện được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Cách nhà thơ đưa những hình tượng ấy vào bài thơ là một sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố dân gian và cảm quan hiện đại.
Hai câu tiếp theo mở rộng tầm vóc không gian và thời gian của Đất Nước:
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông…”
Chỉ với vài từ ngắn gọn, tác giả đã dựng nên chiều dài lịch sử và độ rộng bao la của không gian sống dân tộc. Đất Nước không phải là một khái niệm tĩnh, mà là thực thể luôn vận động, trải dài theo dòng thời gian và lan rộng khắp mọi miền không gian. Những từ “đằng đẵng”, “mênh mông” gợi cảm giác miên man, vô tận, làm nổi bật sự trường tồn và bao dung của Đất Nước.
Sau khi đã định nghĩa Đất Nước bằng trải nghiệm cá nhân và bằng chiều sâu văn hóa, nhà thơ khẳng định nguồn gốc cội nguồn dân tộc bằng truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ:
“Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng.”
Huyền thoại Lạc Long Quân – Âu Cơ là một biểu tượng đẹp của cội nguồn dân tộc, thể hiện niềm tự hào về sự thống nhất và sức mạnh đoàn kết của người Việt. Cụm từ “đồng bào” – cùng một bọc – trở thành điểm nhấn quan trọng, giúp người đọc ý thức rõ rằng: tình cảm gia đình, tình yêu quê hương và lòng tự hào dân tộc luôn gắn bó chặt chẽ. Đất Nước từ đây không chỉ là không gian sinh tồn mà còn là mái nhà chung, nơi “dân mình đoàn tụ”.
Tiếp nối là phần thơ mang tính triết lý sâu sắc:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau…”
Nguyễn Khoa Điềm không chỉ khẳng định vai trò của thế hệ đi trước, mà còn nhấn mạnh trách nhiệm của thế hệ hôm nay và cả mai sau. Đất Nước không phải do một người tạo nên, mà là thành quả của sự nối tiếp, tích lũy công sức, tình yêu và hy sinh của bao thế hệ. Ý thức ấy khiến người đọc cảm nhận rõ hơn về vai trò công dân – mỗi người đều có phần trong Đất Nước, đồng thời phải có bổn phận gìn giữ, phát triển nó.
Và bài thơ khép lại bằng hình ảnh tràn đầy cảm xúc, thiêng liêng và lãng mạn:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn.”
Đây là đoạn thơ rất cảm động, nhấn mạnh đến sự giao thoa giữa cái riêng và cái chung. “Anh” và “em” là hai cá thể, nhưng khi họ cầm tay nhau – thể hiện tình yêu, sự gắn bó – thì Đất Nước cũng hiện diện. Khi những cá thể ấy cùng hướng về cộng đồng – “cầm tay mọi người” – thì Đất Nước không còn là điều trừu tượng, mà là một sức mạnh đoàn kết vững chắc. Chính sự gắn bó cá nhân và tập thể đã làm nên một Đất Nước “vẹn tròn, to lớn”.
Khổ thơ thứ hai trong đoạn trích “Đất Nước” là một bản tuyên ngôn trữ tình sâu lắng. Ở đó, Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến một góc nhìn nhân văn, gần gũi về Đất Nước – không phải bằng những điều vĩ đại xa vời, mà bằng tình cảm thiết tha, bằng những điều nhỏ bé trong đời sống hằng ngày. Đất Nước, qua con mắt của nhà thơ, trở thành hình hài sống động, mang hồn cốt của mỗi con người, của lịch sử, truyền thống và tương lai.
Phân tích khổ 2 Đất nước - mẫu 7
Thơ ca cách mạng Việt Nam không chỉ là tiếng nói phản ánh hiện thực đấu tranh dân tộc mà còn là lời khẳng định bản sắc văn hóa, khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước trong tâm hồn người đọc. Nguyễn Khoa Điềm – nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ – đã mang đến một phong cách thơ chính luận giàu chất trữ tình. Bài thơ Đất Nước, trích trong trường ca Mặt đường khát vọng, là một thi phẩm tiêu biểu, nơi tác giả không ngừng khắc họa hình tượng đất nước từ những chiều sâu văn hóa và tâm hồn dân tộc. Trong đó, khổ thơ thứ hai đóng vai trò đặc biệt khi làm nổi bật quan niệm đất nước hiện diện trong đời sống hằng ngày và lan tỏa trong mỗi con người.
Nguyễn Khoa Điềm đã mở đầu khổ thơ bằng những câu thơ giản dị, nhẹ nhàng nhưng giàu sức gợi:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.”
Những hình ảnh “anh đến trường”, “em tắm”, “ta hò hẹn” là những hoạt động quen thuộc, gợi nên một không gian thân mật, đời thường. Điều đáng nói là tác giả không hề dùng từ ngữ lớn lao, không nhấn mạnh sự hy sinh hay vĩ đại, mà chọn cách tiếp cận đất nước từ những điều bình dị nhất. Đặc biệt, câu thơ “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” vừa gợi hình vừa giàu xúc cảm, là một điểm nhấn thấm đượm chất trữ tình. Ở đây, đất nước là một không gian chan chứa kỷ niệm, là mảnh đất nuôi dưỡng tình yêu đôi lứa và cảm xúc con người.
Sau khi dẫn người đọc bước vào thế giới đời thường, tác giả nâng tầm tư tưởng bằng những hình ảnh mang tính biểu tượng dân gian:
“Đất là nơi ‘con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc’
Nước là nơi ‘con cá ngư ông móng nước biển khơi’…”
Tác giả mượn hình ảnh trong ca dao, truyền thuyết dân gian để khẳng định rằng đất nước không chỉ là nơi con người sinh sống mà còn là nơi cư ngụ của tâm hồn dân tộc. Con chim phượng hoàng và con cá ngư ông là hai biểu tượng thiêng liêng, gắn liền với tín ngưỡng và đời sống tinh thần dân tộc Việt. Sự xuất hiện của chúng không chỉ tạo nên vẻ đẹp cổ tích cho khổ thơ mà còn thể hiện sự tiếp nối giữa truyền thống và hiện tại. Từ đó, đất nước được khắc họa như một không gian văn hóa, một miền ký ức lưu giữ những gì linh thiêng và đẹp đẽ nhất.
Nhà thơ không dừng lại ở khía cạnh hình ảnh mà còn mở rộng về chiều kích không gian và thời gian:
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông…”
Chỉ với hai câu thơ ngắn, Nguyễn Khoa Điềm đã làm hiện lên tầm vóc vĩnh cửu của đất nước. Đó không còn là nơi chốn cụ thể, mà là một dòng chảy lịch sử nối dài từ quá khứ đến hiện tại, một cõi bao la nơi các thế hệ cùng sinh tồn và phát triển. Thời gian và không gian không chỉ là yếu tố vật lý, mà còn mang giá trị tâm linh, cho thấy đất nước như một thực thể vượt khỏi giới hạn đời người.
Như để chứng thực điều đó, Nguyễn Khoa Điềm đưa người đọc trở về với truyền thuyết mở đầu của dân tộc:
“Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng.”
Truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ là một minh chứng cho ý thức cộng đồng mạnh mẽ của người Việt. Hình ảnh “đồng bào” – những người cùng sinh ra từ một bọc trứng – không chỉ là câu chuyện cội nguồn mà còn là sự lý giải sâu sắc về tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái và tình cảm gia đình thiêng liêng. Đất nước trong đoạn thơ này được khắc họa như cái nôi yêu thương và là nơi bắt đầu mọi giá trị con người.
Tác giả tiếp tục nhấn mạnh vai trò của thế hệ đi trước và bổn phận của thế hệ hôm nay:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau…”
Đây không chỉ là sự kế thừa sinh học, mà còn là sự tiếp nối tinh thần, văn hóa, lịch sử. Tác giả đặt trách nhiệm của từng cá nhân trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Sự tiếp nối ấy là quy luật tất yếu, là mạch sống giúp đất nước không ngừng phát triển. Đất nước không tồn tại riêng lẻ, mà là sự hợp thành của hàng triệu con người, cùng nhau gánh vác, gìn giữ những giá trị thiêng liêng được truyền lại.
Kết thúc khổ thơ, Nguyễn Khoa Điềm để lại những câu thơ giàu chất triết lý và cảm xúc:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn.”
Đây là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng đầy ý nghĩa: Đất nước không phải là điều gì đó xa xôi, mà ở ngay trong từng hành động, từng con người. Mỗi người đều có một phần đất nước trong mình – không chỉ về thể xác mà còn là trách nhiệm tinh thần. Khi cá nhân ý thức được mình là một phần của đất nước, thì đất nước mới có thể “vẹn tròn, to lớn”.
Với ngôn ngữ dung dị, giọng thơ thủ thỉ, Nguyễn Khoa Điềm đã làm sống dậy hình tượng đất nước trong tâm trí người đọc. Khổ thơ thứ hai là một lời khẳng định: Đất nước không ở đâu xa, mà là từng hơi thở, từng bước chân của mỗi người. Cảm xúc và lý trí, truyền thống và hiện đại, cá nhân và cộng đồng – tất cả hòa quyện để tạo nên một đất nước trường tồn và thiêng liêng.
Phân tích khổ 2 Đất nước - mẫu 8
Trong nền văn học cách mạng Việt Nam, Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu, mang đến tiếng nói mới mẻ, đầy suy tư về đất nước, con người trong thời đại đấu tranh vì độc lập dân tộc. Bài thơ “Đất Nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng” là một trong những thi phẩm xuất sắc của ông, thể hiện sự gắn bó giữa cá nhân và cộng đồng, giữa truyền thống và hiện đại, giữa thơ và tư tưởng. Trong đó, khổ thơ thứ hai là một trong những đoạn thơ hay nhất, nơi tác giả đã khai mở một khái niệm sâu sắc về đất nước từ chiều sâu văn hóa, lịch sử đến cảm xúc con người.
Tác giả mở đầu đoạn thơ bằng những hình ảnh gần gũi, đời thường mà mỗi người Việt Nam đều có thể cảm nhận được:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Không hề sử dụng những ngôn từ hoa mỹ hay khái niệm trừu tượng, Nguyễn Khoa Điềm lựa chọn cách tiếp cận đất nước từ những chi tiết nhỏ bé, gần gũi. Đó là con đường anh đến trường, dòng nước em tắm, nơi đôi lứa hẹn hò, hay chỉ là chiếc khăn em đánh rơi vì nhớ thương. Những chi tiết tưởng chừng tầm thường ấy lại chứa đựng một chiều sâu xúc cảm. Qua đó, đất nước không còn là một khái niệm xa vời, mà trở thành không gian sống động hiện diện trong từng khoảnh khắc đời thường.
Cách sử dụng đại từ “anh”, “em” và cụm “ta hò hẹn” trong đoạn thơ cũng mang lại hiệu ứng đặc biệt. Tình yêu đôi lứa hiện lên như một phần không thể tách rời của tình yêu đất nước. Điều này thể hiện tư tưởng nhân văn sâu sắc: đất nước bắt đầu từ con người, từ những rung động đầu đời, từ ký ức và cảm xúc cá nhân. Bằng việc đưa đất nước về gần hơn với đời sống, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm thấy mình đang sống trong và vì đất nước mỗi ngày.
Tiếp theo, tác giả mở rộng không gian thơ ca bằng những liên tưởng giàu tính biểu tượng và chiều sâu văn hóa dân tộc:
“Đất là nơi ‘con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc’
Nước là nơi ‘con cá ngư ông móng nước biển khơi’”
Những câu thơ này vừa mang âm hưởng ca dao dân ca, vừa gợi nhắc đến thế giới huyền thoại, truyền thuyết dân gian Việt Nam. Chim phượng hoàng, cá ngư ông là những hình tượng gắn liền với văn hóa phương Đông, biểu trưng cho sự thiêng liêng, cao quý. Việc đưa những hình ảnh này vào thơ không chỉ làm tăng chất thơ mà còn khẳng định rằng đất nước không chỉ tồn tại trong đời sống vật chất, mà còn hiện diện trong chiều sâu tâm linh và văn hóa dân tộc.
Nhà thơ tiếp tục nhấn mạnh chiều kích rộng lớn của đất nước bằng hai câu thơ ngắn gọn nhưng giàu giá trị biểu tượng:
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông…”
Hai dòng thơ này không chỉ đơn thuần là sự miêu tả, mà còn là một cách nhìn mang tính khái quát cao. Đất nước không bị giới hạn bởi hiện tại hay không gian cụ thể nào, mà là sự kết tinh của bao nhiêu thế hệ, là dòng chảy dài vô tận từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Đó là một thực thể trường tồn cùng dân tộc.
Tư tưởng về nguồn cội tiếp tục được mở rộng và nhấn mạnh qua truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ:
“Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng.”
Từ truyền thuyết ấy, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng là cội rễ làm nên đất nước. Những hình ảnh “chim”, “rồng”, “bọc trứng” mang màu sắc linh thiêng, thể hiện niềm tin vào sự gắn bó máu thịt giữa các thế hệ người Việt. Từ đó, khái niệm “đồng bào” không chỉ là danh xưng mà còn là bản sắc, là sợi dây vô hình kết nối tất cả những người mang dòng máu Lạc Hồng.
Không chỉ nói về nguồn gốc, nhà thơ còn thể hiện quan điểm trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau…”
Đây là một chuỗi tiếp nối, là quá trình không ngừng nghỉ của sự gìn giữ và xây dựng. Đất nước không phải là một vật thể bất biến, mà là công trình chung của cả dân tộc. Mỗi con người – dù là quá khứ, hiện tại hay tương lai – đều có vai trò trong việc vun đắp và phát triển đất nước. Câu thơ “gánh vác phần người đi trước để lại” không chỉ là lời nhắc nhở về trách nhiệm, mà còn là lời tri ân với tiền nhân.
Khổ thơ khép lại bằng những câu thơ mang chất triết lý sâu sắc, đầy tính nhân văn:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn.”
Lời thơ mộc mạc nhưng ấm áp, thể hiện một triết lý sống: yêu nước không chỉ là đánh giặc, là hy sinh, mà còn là gìn giữ đạo lý, trân trọng nguồn cội, xây dựng tương lai từ tình yêu và sự kết nối giữa con người. Khi tình yêu cá nhân gắn liền với cộng đồng, khi mỗi người nhận thức rằng trong mình có một phần đất nước, thì đất nước ấy mới trở nên vẹn tròn, vững bền.
Tóm lại, khổ thơ thứ hai của bài Đất Nước là một đoạn thơ giàu hình ảnh, cảm xúc và tư tưởng. Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo dẫn dắt người đọc từ cái tôi cá nhân đến cái ta cộng đồng, từ những chi tiết nhỏ bé đến những tư tưởng lớn lao, từ hiện tại đến chiều sâu lịch sử và văn hóa. Đó chính là điểm độc đáo và giá trị trường tồn của thi phẩm này trong lòng người yêu thơ và yêu đất nước.
Phân tích khổ 2 Đất nước - mẫu 9
Từ ngàn xưa, đất nước đã là một đề tài thiêng liêng trong dòng chảy thi ca Việt Nam. Nhưng chỉ đến thời kỳ văn học chống Mỹ, đất nước mới thực sự hiện lên không chỉ là một không gian địa lý hay lịch sử mà còn là máu thịt, là tình cảm, là tâm hồn của mỗi con người. Nguyễn Khoa Điềm – một nhà thơ tiêu biểu của thời đại ấy – đã có cách nhìn riêng về đất nước trong Mặt đường khát vọng. Đặc biệt, khổ thơ thứ hai trong đoạn trích Đất Nước thể hiện rõ tư tưởng của ông: Đất Nước không ở đâu xa mà chính là trong từng chi tiết của đời sống, trong quá khứ lẫn hiện tại, trong từng con người bình dị.
Mở đầu khổ thơ là hình ảnh đất nước gắn với những điều bình dị mà đầy xúc động:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm”
Hai câu thơ mở đầu đưa khái niệm “Đất Nước” về gần với cuộc sống. Không phải là những bản đồ hay cột mốc, đất nước hiện ra là nơi chốn yêu thương, nơi lưu giữ tuổi thơ, nơi khởi đầu cho hành trình làm người. Qua ánh nhìn ấy, tác giả như đang nói với thế hệ trẻ rằng: đất nước bắt đầu từ những điều gần gũi, từ mỗi bước đi, mỗi nhịp sống hàng ngày.
Tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm mở rộng không gian của Đất Nước bằng hình ảnh mang màu sắc lãng mạn:
“Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Chỉ một hình ảnh "chiếc khăn rơi trong nỗi nhớ thầm" đã đủ để làm dậy lên một không gian văn hóa truyền thống: đó là nỗi nhớ dịu dàng trong tình yêu, là vẻ đẹp nữ tính, kín đáo trong tâm hồn người Việt. Qua những hình ảnh ấy, đất nước hiện lên như một bản tình ca thầm lặng mà sâu sắc, nơi tình yêu đôi lứa hòa quyện trong tình yêu quê hương.
Đất nước không chỉ là nơi hiện hữu trong cuộc sống hôm nay, mà còn gắn liền với truyền thuyết, huyền thoại:
“Đất là nơi ‘con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc’
Nước là nơi ‘con cá ngư ông móng nước biển khơi’”
Hai câu thơ sử dụng chất liệu dân gian, đưa người đọc về với thế giới của ca dao, cổ tích. Đó là miền ký ức văn hóa dân tộc, nơi những biểu tượng linh thiêng như chim phượng hoàng, cá ngư ông gợi nhắc về một đất nước kỳ vĩ, đậm chất phương Đông. Ở đây, đất nước không chỉ là sự hiện hữu, mà còn là linh hồn được gìn giữ trong từng câu chuyện truyền miệng qua bao thế hệ.
Không gian và thời gian trong khổ thơ cũng được mở rộng:
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông”
Câu thơ ngắn mà gợi nhiều liên tưởng. “Đằng đẵng” và “mênh mông” là những từ láy giàu sức gợi, mở ra một đất nước không chỉ rộng lớn về địa lý mà còn sâu dày trong lịch sử. Đất nước ấy không chỉ của hôm nay mà là kết tinh của bao thế hệ, bao năm tháng gian nan, gắn với từng dấu chân của dân tộc.
Sau đó, nhà thơ dẫn người đọc trở lại với cội nguồn dân tộc qua truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ:
“Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Bằng cách nhấn mạnh từ “nơi dân mình đoàn tụ”, tác giả không chỉ kể lại một truyền thuyết, mà còn đề cao tình cảm cộng đồng, tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Đất nước được nhìn như mái nhà lớn, nơi mọi người con Lạc cháu Hồng đều chung dòng máu, chung lịch sử và chung trách nhiệm với tương lai.
Tiếp đó là những câu thơ mang chiều sâu triết lý sống:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau”
Đây là một cách hình dung đất nước như một dòng chảy liên tục, nơi quá khứ - hiện tại - tương lai kết nối nhau qua những con người. Mỗi thế hệ mang một sứ mệnh, một trách nhiệm gìn giữ và phát triển đất nước. Khái niệm “gánh vác phần người đi trước” không còn là lý thuyết, mà là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc.
Cuối cùng, đoạn thơ khép lại bằng lời thơ đậm chất nhân văn:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
Ở đây, tình yêu đôi lứa không tách rời khỏi tình yêu đất nước. Khi tình cảm riêng hòa cùng tình cảm chung, khi cái tôi kết nối với cái ta, thì đất nước sẽ trở nên bền vững và toàn vẹn. Hình ảnh “cầm tay” không chỉ là sự gắn kết yêu thương mà còn biểu tượng cho sự đoàn kết của một cộng đồng.
Qua khổ thơ thứ hai này, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện một quan điểm hết sức mới mẻ: Đất nước không chỉ là khái niệm địa lý hay lịch sử, mà là tổng hòa của những gì gần gũi nhất, thiêng liêng nhất và cũng trách nhiệm nhất với mỗi cá nhân. Đó là một bài học nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, gợi thức tỉnh tình yêu nước từ trái tim đến hành động.
Phân tích khổ 2 Đất nước - mẫu 10
Đất nước luôn là một đề tài lớn trong văn học Việt Nam, nhất là trong giai đoạn chiến tranh, khi từng trang thơ là lời khẳng định về tình yêu quê hương, về cội nguồn và lý tưởng sống. Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ trưởng thành trong khói lửa chống Mỹ, đã đưa vào thơ mình những chiêm nghiệm sâu sắc về đất nước từ góc nhìn của tuổi trẻ mang trong mình khát vọng cống hiến. Trong đoạn trích Đất Nước thuộc chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, khổ thơ thứ hai là một minh chứng tiêu biểu cho cách lý giải độc đáo, đầy cảm xúc của ông về hai tiếng "Đất Nước" thiêng liêng.
Mở đầu khổ thơ là sự hình dung đất và nước như những thực thể gắn liền với đời sống cá nhân, rất gần gũi và bình dị:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm”
Đây là cách định nghĩa thật khác biệt so với khái niệm địa lý hay lịch sử vốn quen thuộc. Đối với nhà thơ, đất nước không phải là thứ trừu tượng xa vời, mà là nơi chốn gắn bó với đời sống thường nhật, là nơi nuôi dưỡng tuổi thơ và kỷ niệm. Từ "anh" và "em" – cách xưng hô thân mật – khiến đất nước không còn là khái niệm chung chung mà trở thành một phần riêng tư của mỗi con người.
Tiếp nối, hình ảnh đất nước được mở rộng bằng nét đẹp trong tình yêu và ký ức:
“Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Tình yêu đôi lứa không còn là chuyện riêng, mà trở thành chất liệu để nhà thơ khắc họa đất nước. Chiếc khăn rơi trong nỗi nhớ thầm gợi nhắc đến bao nét đẹp trong văn hóa dân gian Việt Nam, nơi tình yêu kín đáo mà đằm thắm, giản dị nhưng da diết. Đất nước vì thế không chỉ là nơi sống, nơi học tập, mà còn là không gian tình cảm, là nơi ươm mầm những rung động con người.
Khổ thơ sau đó chuyển từ hiện thực sang chất liệu huyền thoại, truyền thuyết:
“Đất là nơi ‘con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc’
Nước là nơi ‘con cá ngư ông móng nước biển khơi’”
Những câu thơ ấy gợi lại không gian văn hóa dân gian, nơi những biểu tượng kỳ ảo như chim phượng hoàng hay cá ngư ông mang trong mình sự huyền bí thiêng liêng. Đất nước vì vậy không chỉ gắn với cá nhân, mà còn chứa đựng lớp trầm tích văn hóa, là nơi lưu giữ những truyền thuyết được truyền từ đời này sang đời khác, làm nên bản sắc riêng của dân tộc.
Tác giả tiếp tục mở rộng hình dung đất nước ra cả chiều rộng không gian và chiều dài thời gian:
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông”
Chỉ hai dòng ngắn nhưng hàm chứa cảm thức bao quát. "Đằng đẵng", "mênh mông" là những từ láy giàu nhạc tính, thể hiện đất nước như một thực thể trải dài vô tận trong cả không gian và thời gian. Qua đó, đất nước hiện lên không phải là một điểm đến mà là cả một hành trình, không phải là của riêng ai mà là của cả dân tộc, từ đời này qua đời khác.
Nguyễn Khoa Điềm cũng không quên khơi dậy trong người đọc tinh thần đoàn kết dân tộc từ truyền thuyết:
“Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ không chỉ là một câu chuyện huyền thoại, mà còn là cội nguồn tinh thần của người Việt. Nó lý giải sự thống nhất trong đa dạng, thể hiện tinh thần máu mủ, ruột rà, yêu thương nhau như anh em một nhà. Đất nước vì thế không chỉ là nơi chốn, mà còn là mái nhà chung, là dòng giống, là tình thân.
Từ truyền thuyết ấy, nhà thơ dẫn dắt đến một nhận thức sâu sắc về vai trò của từng con người trong hành trình giữ gìn đất nước:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau”
Những câu thơ như một bản tổng kết nhẹ nhàng nhưng đầy trách nhiệm. Mỗi người trong cuộc sống, dù đã mất hay đang sống, đều là mắt xích trong chuỗi dài xây dựng và gìn giữ đất nước. Đó là một thông điệp sâu sắc về tính kế thừa, về đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, và về trách nhiệm của thế hệ hiện tại đối với tương lai.
Kết thúc khổ thơ là sự gắn kết sâu sắc giữa tình yêu cá nhân và tình yêu dân tộc:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh: tình yêu nước không phải điều gì to tát, mà bắt đầu từ việc biết “cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”. Đó là biểu hiện của sự biết ơn, của lòng trung thành với cội nguồn. Tình yêu đôi lứa, khi hòa vào tình cảm chung của cộng đồng, sẽ góp phần làm nên một đất nước “vẹn tròn, to lớn”. Như vậy, từ một cái tôi nhỏ bé, khi biết hướng đến cái ta rộng lớn, con người mới thật sự góp phần làm nên đất nước.
Khổ thơ thứ hai trong đoạn trích Đất Nước là một bản tuyên ngôn ngọt ngào và thấm đẫm cảm xúc về tình yêu quê hương, cội nguồn và trách nhiệm công dân. Nguyễn Khoa Điềm không viết bằng ngôn từ chính luận, mà bằng chất thơ đầy rung động. Qua đó, người đọc, đặc biệt là thế hệ trẻ, hiểu rằng: đất nước không chỉ ở trên bản đồ, trong sử sách, mà còn hiện diện trong từng hơi thở cuộc sống, trong mỗi hành động yêu thương, gìn giữ và sẻ chia.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Phân tích khổ 2 Sóng
- Phân tích khổ 3 4 bài Ánh trăng
- Phân tích khổ 3 bài Đoàn thuyền đánh cá
- Phân tích khổ 3 bài Viếng lăng Bác
- Phân tích khổ 3 Đây thôn Vĩ Dạ
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

