20+ Phân tích, cảm nhận bài thơ Bác ơi (siêu hay)
Tổng hợp các bài Phân tích, cảm nhận bài thơ Bác ơi của Tố Hữu hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 1
- Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 2
- Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 3
- Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 4
- Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 5
- Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 6
- Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 7
- Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 8
- Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 9
- Phân tích bài thơ Bác ơi (mẫu khác)
20+ Phân tích, cảm nhận bài thơ Bác ơi (siêu hay)
Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 1
"Bác ơi!" được Tố Hữu viết vào ngày 6-9-1969, bốn ngày sau khi vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc qua đời. "Bác ơi!"được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, gồm 13 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu thơ.
Bài "Bác ơi!" là tiếng khóc tiễn biệt, mang ý nghĩa như một bài điếu văn rất cảm động, vừa ca ngợi lòng yêu nước thương dân bao la của Bác Hồ, vừa biểu lộ lòng tiếc thương, ghi nhớ công ơn to lớn của lãnh tụ.
Mở đầu bài thơ là tiếng khóc. Bác Hồ qua đời để lại nổi đau thương trong lòng hàng triệu đồng bào ta và bạn bè gần xa. Nỗi đau thương trùm cả cõi đời và cả vũ trụ bao la, mênh mông:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa...
Câu thơ thứ hai, chữ "tuôn" được điệp lại hai lần đã cực tả nỗi mất mát, đau thương của dân tộc thật vô hạn.
Đọc hồi kí của Tố Hữu, ta biết lúc Bác Hồ mất, nhà thơ còn đi công tác xa. Nghe tin Bác mất, tác giả vội "chạy về". Đó là một buổi chiều đau đớn, bàng hoàng. Hai chữ "ướt lạnh" diễn tả nỗi đau đớn tái tê ấy:
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa!
Bác ra đi, ngôi nhà sàn của Bác trở nên vắng lặng, hiu hắt buồn. Chuông chẳng còn reo nữa. Ánh đèn "tắt", "rèm buông", phòng của Bác ở và làm việc thì đã "lặng". Sự sống như ngừng lại trong đau thương:
Chuông ôi chuông nhỏ còn reo nữa
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!
Bác ra đi quá bất ngờ, đột ngột. Cả miền Nam, cả tiền tuyến lớn anh hùng đang trên đà chiến thắng. "Rước Bác vào thăm"... là ước mơ đẹp của đồng bào, chiến sĩ. Nhưng giờ đây còn đâu nữa khi Bác đã đi xa:
Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười!
Ngày hội chiến thắng, ngày hội thống nhất non sông... thế là vắng bóng Bác.
Bác ra đi, cỏ cây hoa lá, thiên nhiên tạo vật đều đau đớn tiếc thương. Vườn rau, gốc dừa, trái bưởi, hoa nhài, ao cá... những vật thân quen ấy của Bác được nhân hoá gợi ra bao đau đớn, cô đơn, buồn tủi, ngậm ngùi. Lấy ai để san sẻ nỗi đau buồn thương tiếc? Tố Hữu có một lối nói biểu cảm rất sâu sắc. Ông đứng lặng, tự hỏi lòng mình rồi hỏi cỏ cây hoa lá:
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây bay...
Bốn khổ thơ đầu, Tố Hữu đã mở ra một không gian nghệ thuật từ đất trời, cõi đời, niềm Nam,... đến vườn rau, ao cá, gốc dừa, ngôi nhà sàn,... đồng hiện một tâm trạng nghệ thuật, đó là nỗi đau đớn, tiếc thương đã và đang thấm sâu vào lòng người, lọng dân tộc. Đó là ngày Bác đi xa, ngày 2 tháng 9 năm 1969, ngày Quốc tang.
Sự kết hợp các câu cảm thán, câu hỏi tu từ làm cho giọng thơ như tiếng nấc cất lên, nghẹn ngào, biểu cảm:
Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm...
Sáu khổ thơ tiếp theo trong phần hai bài thơ nói lên tình thương bao la và phẩm chất cao đẹp của Bác. Cách cấu trúc bài thơ giống như bài văn tế khi nhắc tới công đức của con người vừa qua đời.
Bằng hình ảnh hoán dụ, Tố Hữu ca ngợi lòng yêu nước thương dân, tình nhân ái bao la của Hồ Chí Minh. Đây là hai câu thơ trong bốn câu thơ hay nhất trong bài thơ "Bác ơi!":
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người.
Bằng nghệ thuật liệt kê, tác giả nhắc lại tấm lòng nhân ái bao la, mênh mông, của Bác. Đó là nỗi đau và nỗi lo của Bác. Lòng Bác sâu nặng như lòng mẹ: "Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ - Cho hôm nay và cho mai sau". Đó là lòng Bác: Bác sống, Bác yêu, Bác cho, Bác để, Bác tặng:
Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già.
Đó là Bác nhớ, Bác nghe, Bác lắng... Đó là tình cảm của lãnh tụ dành cho chiến sĩ và đồng bào nơi Thành đồng Tổ quốc:
Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Bác nghe từng bước trên tiền tuyến
Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa.
Bác đã từng nói: "Miền Nam luôn trong tim tôi", Thơ chúc Tết năm 1969, Bác đã viết: "Năm qua thắng lợi vẻ vang - Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to... ", Bác là niềm vui thắng trận. Bác là chỗ dựa tinh thần để tiền tuyến xốc tới "Đánh Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào!", Tố Hữu vừa khóc thương Bác, vừa làm sống lại tâm hồn Bác.
Điệp ngữ "vui" và các động từ: "nâng niu, quên" đã nói lên một cách sâu sắc tâm hồn Hồ Chí Minh: lạc quan yêu đời, giàu đức hi sinh. Hình ảnh so sánh đầy chất thơ:
Bác vui như ánh buổi minh
Vui mỗi mầm non, trái chín cành
Vui tiếng ca chung hòa bốn biển
Nâng niu tất cả, chỉ quên mình.
Bác sống giản dị, thanh bạch. Chiếc va li nhỏ, vài ba bộ quần áo đơn sơ, đôi dép cao su..., "chẳng vàng son",Nhiều người thường nhắc đến hai câu thơ tuyệt bút sau đây để ca ngợi đức tính giản dị của Bác Hồ:
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
Tư tưởng lớn, ý thơ đẹp và hay, nghệ thuật tưởng phản tài ba, Tố Hữu đã để lại câu thơ trong trí nhớ nhiều người.
Có thể nói, đoạn thơ đã thể hiện sâu sắc cảm động tâm hồn, phong cách, đạo đức và lối sống Hồ Chí Minh.
Ba khố thơ trong phần cuối là tiếng khóc, là sự ghi nhớ, là lòng biết ơn, là lời ước nguyện.
Thương Bác, nhớ Bác càng thấy lòng mình bơ vơ, đau đớn: "ôi Bác xế chiều - Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!
Bác đã đi xa, bước vào "thế giới Người Hiền". Sự nghiệp cách mạng, đạo đức cách mạng của Bác mãi mãi là "Ánh hào quang thêm", là tài sản tinh thần vô giá có tác dụng động viên, cổ vu đồng bào, chiến sĩ "cùng nhau tiến lên" với niềm tin sắt đá:
"Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày này".
(Di chúc)
Nhớ mãi công ơn của Bác, nhân dân ta nguyện ghi sâu trong lòng lời Bác dặn, quyết tâm vượt lên hoàn thành sự nghiệp cách mạng của Bác để lại. Bài thơ khép lại bằng một hình so sánh mang tượng hình sông núi kì vĩ. Tố Hữu khóc Bác bằng một lời thề chiến đấu:
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.
Tố Hữu là nhà thơ viết về Bác Hồ nhiều nhất, sâu sắc nhất, hay nhất. Hình ảnh Bác Hồ: "Người là Cha, là Bác, là Anh - Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ" đã in đậm trong nhiều trang thơ của Tố Hữu.
"Bác ơi!" là một trong những bài thơ hay nhất viết về Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc.
Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 2
Trong lời điếu văn đầy xót thương và cảm động đọc trước linh cữu Chủ tịch Hồ Chí Minh, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã khẳng định: "Dân tộc ta, nhân dân ta. non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta”.
Nhà thơ Tố Hữu cũng đã thể hiện điều đó trong một bài thơ khóc Bác – Bác - Bác ơi! là tiếng khóc tiễn biệt, là lời "điếu văn bi hùng" bằng thơ (Xuân Diệu). Bài thơ không chỉ bộc lộ nỗi đau xót và tiếc thương, mà còn là sự đúc kết những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Giữa lúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ của dân tộc đang tiếp diễn vô cùng gay go, quyết liệt, ngày 2- 9- 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Người qua đời là một tổn thất lớn lao đối với cách mạng và dân tộc Việt Nam. Trong những ngày ấy, cả dân tộc ta và bạn bè quốc tế đã biểu lộ nỗi tiếc thương, nỗi đau xót vô hạn trước sự ra đi của Người. Trong những ngày ấy, “Đời tuôn nước mắt, đời tuôn mưa..
Bác ơi! của Tố Hữu ra đời trong không khí những ngày đại tang ấy. Bài thơ như một bài "điếu văn bi hùng" thể hiện ở cả kết cấu, giọng điệu lẫn hình ảnh, ngôn ngữ thơ,... Tất cả đã bộc lộ nỗi đau xót, tiếc thương của tác giả đồng thời đúc kết những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ mở đầu với khung cảnh đau buồn, tang tóc bao trùm lên toàn cõi Việt Nam trong những ngày mất Bác:
"Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”
Không hiểu sao trong những ngày Bác mất, trời mưa tầm tã. Phải chăng tổn thất lớn của dân tộc ta đã lay động đến cả trời xanh làm cho cao xanh kia cũng tuôn trào nước mắt? Hay chính là nước mắt của con dân Việt Nam khóc người cha già dân tộc đã thăng hoa, hòa vào vũ trụ và ngưng kết thành mưa? Nhà thơ đã đồng nhất "đời" và "trời" tạo thành một ý thơ có sức khái quát diễn tả nỗi đau lòng mình và nỗi đau dân tộc trước tổn thất quá lớn lao.
Đó là những giọt nước mắt nóng bỏng chất sử thi - một dân tộc anh hùng tiếc thương một anh hùng dân tộc. Nỗi tiếc thương khiến cỏ cây, đất trời bỗng trở nên bùi ngùi, tâm hồn người bỗng trở nên ngơ ngác:
"Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa”
Khung cảnh thiên nhiên, khung cảnh nhà Bác,... tất cả vẫn còn đây, nhưng tất cả đều thẫn thờ:
"Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác đứng nhìn lên
Chuông ôi chuông nhỏ còn reo
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!…
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây trắng bay”
Đoạn thơ với rất nhiều câu hỏi và câu cảm thán. Những dấu hỏi, dấu cảm, dấu chấm lửng, những thán từ cùng với cách ngắt nhịp chậm, nhịp dài ngắn đan xen đã diễn tả một cách xúc động nỗi tiếc thương nghẹn ngào trong lòng nhà thơ. Bài thơ với lối kết cấu như một bài điếu văn cổ điển (lung khỏi- thích thực- ai vãn).
Tính cổ điển trong kết cấu đã nâng hình tượng thơ và cảm xúc của nhà thơ lên tầm vóc lịch sử và thời đại. Đó là hình tượng của muôn đời và cảm xúc của muôn người. Hình tượng Bác hiện lên trong nỗi tiếc thương vô hạn xen lẫn niềm kính phục thiêng liêng.
Phần thứ hai của bài thơ thể hiện những suy ngẫm, những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chi Minh: Người là tình yêu bao la, Người mang nỗi lo " muôn mối như lòng mẹ", Người "nâng niu tất cả chỉ quên mình", Người luôn mang hình bóng miền Nam trong trái tim, Người "Một đời thanh bạch, chẳng vàng son",...
Đoạn thơ với chất giọng trầm hùng bi tráng, với những hình ảnh vừa giản dị. vừa lớn lao rất phù hợp với hình tượng Bác Hồ và nỗi tiếc thương, niềm thành kính của nhà thơ đối với Bác. Còn gì đẹp hơn, ý nghĩa hơn khi nhà thơ dùng hình tượng trái tim để biểu tượng cho tình cảm bao la của Bác: "Bác ơi, tim Bác mênh mông thếÔm cả non sông, mọi kiếp người". Còn gì giản dị gần gũi hơn và cũng bao dung trời biển hơn khi nhà thơ so sánh tấm lòng của Bác với tấm lòng của người mẹ:
"Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ
Cho hôm nay và cho mai sau"
"Bác sống như trời đất của ta",
Bác đem “Tự do cho mỗi đời nô lệ" và Bác còn "Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa", Bác dành sữa cho em thơ và tặng lụa cho người già. Con người của "trời đất", của "tự do" được lồng trong con người của đời thường. Con người vĩ đại Hồ Chí Minh hòa vào con người bình thường Hồ Chí Minh tạo nên một vẻ đẹp vừa lớn lao, vĩ đại vừa gần gũi, thân thiết. Sinh thời, Bác Hồ luôn dành tình cảm đặc biệt đối với miền Nam.
Bác nói: "Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi". Để đáp lại lòng mong mỏi của cháu con trong Nam, Bác đã dự định sẽ vào thăm nhưng dự định chưa kịp thực hiện thì... Tố Hữu đã so sánh:
"Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha"
Nỗi nhớ thương miền Nam của Bác giống như "nỗi nhớ nhà" và nỗi mong ngóng Bác của miền Nam giống như "nỗi mong cha". Nỗi nhớ thương gắn với nỗi đau chia cắt thân mình Tổ quốc và khát vọng thống nhất, đoàn tụ. Câu thơ diễn tả một thứ tình cảm rất gia đình nhưng ý thơ vượt lên câu chữ để diễn tả một vấn để mang tính sử thi của thời đại và dân tộc. Đoạn thơ khép lại bằng những hình ảnh suy tưởng mang tính khái quát cao mà vẫn chan chứa cảm xúc:
"Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn".
Bác để lại nhiều: độc lập, tự do, cơm no, áo ấm,... Nhưng tất cả đều xuất phát từ một thứ vô cùng quý giá: "tình thương"- "Bác thương các cụ già", "Bác thương đàn cháu nhỏ", "Bác thương đoàn dân công",... Bác thương dân, yêu nước nên đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Bác "nâng niu tất cả chỉ quên mình". Đúc kết cuộc đời Bác, nhà thơ chiêm nghiệm và nhận thấy hai phẩm chất nổi bật: tình yêu thương quên mình và sự giản dị thanh cao.
Tác giả dùng hình tượng "áo vải" mong manh để nói về "một đời thanh bạch", thể hiện phẩm chất giản dị mà thanh khiết vô ngần của Bác. Bác là vậy, giản dị mà vĩ đại, "áo vải" mà "hồn muôn trượng". Đoạn thơ với rất nhiều hình ảnh so sánh, ẩn dụ đã thể hiện một cách sâu sắc những suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tố Hữu đã vĩnh hằng hóa, bất tử hóa hình tượng Bác Hồ trong thiên nhiên, đất trời và trong lòng người. Đoạn thơ thể hiện niềm cảm phục thành kính, niềm tự hào thiêng liêng trước anh linh của vị cha già dân tộc. Trong niềm xúc động, niềm cảm phục và tự hào, nhà thơ đã thay mặt con dân nước Việt thầm nói lên lòng mình:
"Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều
Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!
Ra đi, Bác dặn: "Còn non nước..”
Nghĩa nặng, lòng không dám khóc nhiều".
Và thầm hứa với Bác:
"Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn
Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn".
Biến đau thương thành hành động, cả dân tộc Việt Nam đã đứng lên thực hiện di chúc của Bác. Sáu năm sau ngày Bác đi xa. chúng ta đã "đánh cho Mĩ cút, đánh cho Ngụy nhào", đem lại hòa bình, thống nhất, nối liền một dải non sông và xây dựng đất nước ngày càng "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn". Trong số rất nhiều những bài thơ viết về Bác, cùng với trường ca Theo chân Bác, Bác ơi! là một thành công lớn của nhà thơ Tố Hữu.
Bài thơ là niềm xúc động dâng trào và những chiêm nghiệm sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Cha già dân tộc, người anh hùng vĩ đại của thế kỉ XX. Bác ơi! là bài thơ khóc Bác nhưng đó là những dòng nước mắt nóng bỏng chất sử thi.
Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 3
Ngày 2 - 9 - 1969, Hồ Chủ Tịch tạ thế. Cả một rừng thơ khóc Bác xuất hiện, trong đó nổi bật lên cây đại thụ Tố Hữu với bài thơ "Bác ơi!". Bốn khổ thơ đầu nói cái đau xót tột cùng của thi sĩ trước sự kiện Bác ra đi:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa.
Trời mưa tầm tã cộng với nước mắt hàng triệu người khóc vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc đã làm cho cả không gian ướt lạnh, đau buồn. Khi Bác đi xa, Tố Hữu đang nằm điều trị ở bệnh viện. Nghe tin, nhà thơ hoảng hốt chạy về phủ Chủ tịch, nơi nhà sàn của Người: Chiều nay con chạy về thăm Bác. Từ "chạy" được dùng rất tài, nói lên sự nóng gan nóng ruột của người con khi nghe tin cha mất.
Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác đứng nhìn lên
Chuông ôi, chuông nhỏ còn reo nữa
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!
Ta thấy tác giả rất ý tứ cho nên "đến bên thang gác đứng nhìn lên" mà chưa vào nhà vội. Vì sao vậy? Vì đến thăm một người tạ thế là thăm vợ góa, con côi. Còn Bác không có gia đình thì xử lí như Tố Hữu là rất tinh tế. Nhà Bác hôm nay đã khác xưa rồi: Chuông không còn reo để báo tin với Người có khách đến. Đặc biệt câu thơ: "Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn", bị cắt ra làm ba nhịp như muốn diễn tả nỗi nghẹn ngào của Tố Hữu. Nhìn vườn cây Bác từng vun trồng, tác giả bâng khuâng:
Trái bưởi kia vàng, ngọt với ai
Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài!
Hai câu này làm cho một số độc giả thắc mắc: Chẳng lẽ Bác trồng cây chỉ cho một mình Bác thôi ư? Tôi đã có dịp hỏi nhà thơ Xuân Diệu; thi sĩ bảo: Ai lại đi thẩm định văn chương như vậy! Đây chỉ là một cách nói của thi ca để biểu lộ tình thương sâu sắc của con đối với Cha mà thôi. Cha chết không thương Cha hay sao?
Nhìn ao cá, nhà thơ bỗng tiếc nuối:
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây trắng bay...
Bác hiện lên trong kí ức đẹp như một ông Tiên trong thần thoại. Đúng! Trong tâm trí nhà thơ cũng như trong tâm trí dân tộc ta, Bác là một "Ông tiên Mác - xít". Sau những ngày bàng hoàng đau xót, nhà thơ bình tâm lại, khắc họa hình tượng Bác. Tố Hữu đã viết nhiều bài thơ về Bác nhưng bài này hay hơn cả vì đây là thơ tổng kết một cuộc đời.
Hình ảnh bao trùm là: "Bác ơi tim Bác mênh mông thế". Đó là một trái tim giàu tình thương: "Ôm cả non sông, mọi kiếp người". Một trái tim thương nước, thương dân bao la, mênh mông. Từ "ôm" được dùng rất gợi cảm: ôm là nâng niu, che chở, giữ gìn. Thương bao nhiêu thì đau bấy nhiêu:
Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu
Từ "đau" là lấy lại chữ dùng của Bác trong di chúc. Đau dân nước vì dân nước đang bị đế quốc xâm lược; đau năm châu vì có sự bất hoà trong phong trào cộng sản quốc tế. Chỉ con người vĩ đại mới có nỗi đau đớn lớn lao như thế. Có một câu thơ tuyệt hay nói về cuộc đời của lãnh tụ: Bác sống như trời đất của ta.
Câu thơ giản dị mà hàm chứa một nội dung sâu sắc: Cuộc đời Bác đã hoà làm một với thiên nhiên, sẽ vĩnh hằng như thiên nhiên. Đó là nguồn gốc tinh thần lạc quan của Người:
Bác vui như ánh buổi bình minh
Vui mỗi mầm non, trái chín cành
Vui tiếng ca chung hoà bốn biển
Nâng niu tất cả, chỉ quên mình
Vì sao vậy? Vì giải phóng miền Nam là trung tâm của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Nhiều người gặp Bác đều kể lại mỗi khi trò chuyện, thế nào Người cũng nhắc đến miền Nam. Trong phòng của Bác có treo bản đồ miền Nam về sự bố trí binh lực của địch. Có lần phát biểu trước Quốc hội, Người nói: "Miền Nam luôn trong trái tim tôi". Đạo đức của Bác thật cao khiết:
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
Bác là vị lãnh tụ kiểu mới; khác với những người ưa sùng bái cá nhân. Vì tâm hồn Bác giàu quá (hồn muôn trượng) nên bề ngoài Bác rất giản dị (mong manh áo vải). Bác không cần tượng đồng vì nhân dân đã đúc cho Người hàng triệu tượng trong tim. Trong ba khổ cuối, nhà thơ nói lên cảm nghĩ của nhân dân ta trước sự ra đi của Bác. Trước hết là nhớ lời Di chúc:
Ra đi Bác dặn: "Còn non nước..."
Nghĩa nặng lòng không dám khóc nhiều
Câu thơ nhắc lại lời Người:
"Còn non còn nước còn người
Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay".
Vậy thì thương Bác tức là phải làm theo lời Bác dặn, tập trung sức để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Bác Hồ nay đã nhập vào một thế giới đặc biệt: Mác-Lê Nin thế giới Người Hiền. Hiền ở đây là hiền minh, hiền triết - tức là những vĩ nhân có trí tuệ siêu việt có đạo đức cao cả. Chính những con người đó đã dẫn dắt lịch sử tiến lên không ngừng.
Kết thúc thi phẩm này, Tố Hữu có một câu thơ rất hay: Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn. Yêu Bác làm theo tấm gương trong suốt như pha lê của Người; sẽ có sức mạnh tẩy sạch những vết mờ đục trong lòng ta, nâng chúng ta lên tầm cao mới. Chúng ta quyết biến đau thương thành sức mạnh:
"Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn".
Bài thơ "Bác ơi" là một điếu văn bi hùng. Lối thơ thất ngôn tạo nên một nhạc điệu trang trọng, cùng với hình ảnh thơ kì vĩ đã diễn đạt rất tài tình những cảm xúc cao đẹp của toàn thể dân tộc ta trong những ngày quốc tang năm 1969.
Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 4
“Bác ơi” là một bài thơ của nhà thơ Tố Hữu viết về vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta. Vào ngày 2-9-1969, Bác đã mãi mãi ra đi, bỏ lại sau lưng cả giang sơn, cả đất nước, cả đồng bào để đi vào cõi vĩnh hằng. Người ta kể lại rằng hôm Bác mất, trời mưa rất to, cả dân tộc Việt Nam cùng khóc tiếc thương cho vị cha già của dân tộc.
Bác đi rồi, cả một cuộc đời vì dân vì nước, chưa bao giờ Bác suy tính điều gì cho chính bản thân mình. Vậy mà khi đất nước đã giành được độc lập, cả mong ước vào thăm miền Nam của Bác cũng không bao giờ thực hiện được. Lúc bác mất người dân thương tiếc đến độ những người chưa làm thơ cũng làm thơ về Bác.
Bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu được coi như một bài điếu văn tiễn biệt người ra đi, và ở khổ thơ thứ nhất, tác giả đã dồn hết tâm can của mình để tưởng nhớ và tiếc thương Bác. “Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa”.
"Mấy hôm" ở đây chính là những ngày sau khi bác mất, đây là nỗi đau lớn của dân tộc Việt Nam, mới hôm qua đây thôi, Bác còn khỏe mạnh, còn chỉ đạo anh em cán bộ, nào ngờ từ năm 1965, Bác nói rằng đã tự nhìn thấy ngày phải vĩnh biệt cõi đời. Bác Hồ một đời luôn nghĩ cho dân cho nước lại có thể suy nghĩ như vậy, thực khiến cho ai cũng cảm thấy xót xa.
Bước sang năm 1969, sức khỏe của Bác đã không còn tốt nữa, nhưng trong những vần thơ Bác viết, vẫn chứa đựng niềm tin mãnh liệt vào một tương lai tươi sáng cho dân tộc. Hà Nội vào thu trời trở lạnh, ngày 18-8-1969, nhà sàn đã lần cuối cùng được hơi ấm của Bác Hồ.
Ngày 24-8-1969, Bác ốm nặng, nhưng vẫn lo lắng cho vạn vật ngoài kia, Bác biết nước lên cao, các chiến sĩ ngỏ ý muốn đưa Bác đến nơi an toàn hơn, nhưng Bác vẫn một mực muốn ở lại với nhân dân. Bác lịm đi nhiều lần, nhưng mỗi lần tỉnh lại, Bác luôn luôn hỏi miền Nam đánh thắng đâu, giá như dòng chảy lịch sử có thể nhanh hơn một chút, có thể đẩy nhanh chiến thắng để có thể tiễn Bác ra đi thanh thản.
Ngày 2-9-1969, Bác trút hơi thở cuối cùng, đúng vào ngày Bác đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Mấy ngày sau đó cả dân tộc như nấc nghẹn, trọn một cuộc đời Bác có bao giờ được ngủ yên, bây giờ Bác ngủ cả giang sơn canh Bác ngủ. “ Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”
Trong những ngày Bác mất, cả dân tộc Việt Nam, cả những chiến sĩ trước giờ chưa hề rơi nước mắt vì súng bom khói lửa, bây giờ ai nấy đều bưng mặt khóc như đứa trẻ con, tiếng khóc cất lên nghẹn ngào, có một nỗi đau to lớn len lỏi vào từng trái tim những người dân Việt Nam cũng như bạn bè khắp năm châu.
Mấy ngày tiễn Bác trời mưa tầm tã, đất trời dường như hòa chung vào nỗi đau của cả dân tộc Việt Nam. Đó là một nỗi mất mát, nỗi đau khôn nguôi của cả dân tộc. Hàng triệu con người hướng về Hà Nội, hướng về một con người như dòng suối mát, thanh khiết, trong sáng như tấm lòng của Bác đối với con dân Việt Nam.
“Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cau, mấy gốc dừa”
Nhà thơ về thăm Bác, nhưng ôi thôi, Bác còn đâu nữa, Bác đã đi về miền cực lạc, không kịp nữa rồi, giờ chỉ còn lại cảnh vật. Nhà sàn, vườn cau, gốc dừa vẫn còn đó, nhưng người nay đã không còn, hơi ấm của người cũng đã dứt, để lại cái lạnh lẽo cho cảnh vật, cho tác giả, cho cả dân tộc.
Bác đến với cuộc đời với màu áo nâu sần, nay Bác ra đi với bộ quần áo trắng, một con người luôn luôn sống tiết kiệm, giản dị cho đến những giây phút cuối đời. Lúc này đây, trên thế giới, không kể màu da, tiếng nói đều đang hướng trái tim về hòa cùng nỗi đau cùng mấy mươi triệu đồng bào ta đưa tiễn vị cha già của dân tộc.
Bác Hồ đã ra đi, Tố Hữu đã thốt lên tiếng gọi như xé lòng “Bác ơi!” nghe đau xót biết bao nhiêu. Bác đã ra đi nhưng niềm trăn trở của Bác đã được dân tộc thành toại. Bác sống mãi trong lòng của mỗi người dân chúng ta.
Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 5
“Bác ơi!” được Tố Hữu viết vào ngày 6-9-1969, bốn ngày sau khi vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc qua đời. “Bác ơi!” được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, gồm 13 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu thơ.
Bài “Bác ơi!” là tiếng khóc tiễn biệt, mang ý nghĩa như một bài điếu văn rất cảm động, vừa ca ngợi lòng yêu nước thương dân bao la của Bác Hồ, vừa biểu lộ lòng tiếc thương, ghi nhớ công ơn to lớn của lãnh tụ.
1. Mở đầu bài thơ là tiếng khóc. Bác Hồ qua đời để lại nỗi đau thương trong lòng hàng triệu đồng bào ta và bạn bè gần xa. Nỗi đau thương trùm cả cõi đời và cả vũ trụ bao la, mênh mông:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…
Câu thơ thứ hai, chữ “tuôn” được điệp lại hai lần đã cực tả nỗi mất mát, đau thương của dân tộc thật vô hạn.
Đọc hồi kí của Tố Hữu, ta biết lúc Bác Hồ mất, nhà thơ còn đi công tác xa. Nghe tin Bác mất, tác giả vội “chạy về”. Đó là một buổi chiều đau đớn, bàng hoàng. Hai chữ “ướt lạnh” diễn tả nỗi đau đớn tái tê ấy:
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa!
Bác ra đi, ngôi nhà sàn của Bác trở nên vắng lặng, hiu hắt buồn. Chuông chẳng còn reo nữa. Ánh đèn “tắt”,“rèm buông”, phòng của Bác ở và làm việc thì đã “lặng”. Sự sống như ngừng lại trong đau thương:
Chuông ôi chuông nhỏ còn reo nữa
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!
Bác ra đi quá bất ngờ, đột ngột. Cả miền Nam, cả tiền tuyến lớn anh hùng đang trên đà chiến thắng. “Rước Bác vào thăm”… là ước mơ đẹp của đồng bào, chiến sĩ. Nhưng giờ đây còn đâu nữa khi Bác đã đi xa:
Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười!
Ngày hội chiến thắng, ngày hội thống nhất non sông… thế là vắng bóng Bác.
Bác ra đi, cỏ cây hoa lá, thiên nhiên tạo vật đều đau đớn tiếc thương. Vườn rau, gốc dừa, trái bưởi, hoa nhài, ao cá… những vật thân quen ấy của Bác được nhân hoá gợi ra bao đau đớn, cô đơn, buồn tủi, ngậm ngùi. Lấy ai để san sẻ nỗi đau buồn thương tiếc? Tố Hữu có một lối nói biểu cảm rất sâu sắc. Ông đứng lặng, tự hỏi lòng mình rồi hỏi cỏ cây hoa lá:
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài
Còn đâu bóng Bác đì hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây trắng bay…
Bốn khổ thơ đầu, Tố Hữu đã mở ra một không gian nghệ thuật từ đất trời, cõi đời, niềm Nam,… đến vườn rau, ao cá, gốc dừa, ngôi nhà sàn,… đồng hiện một tâm trạng nghệ thuật, đó là nỗi đau đớn, tiếc thương đã và đang thấm sâu vào lòng người, lọng dân tộc. Đó là ngày Bác đi xa, ngày 2 tháng 9 năm 1969, ngày Quốc tang.
Sự kết hợp các câu cảm thán, câu hỏi tu từ làm cho giọng thơ như tiếng nấc cất lên, nghẹn ngào, biểu cảm:
Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!
.. Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm…
2. Sáu khổ thơ tiếp theo trong phần hai bài thơ nói lên tình thương bao la và phẩm chất cao đẹp của Bác. Cách cấu trúc bài thơ giống như bài văn tế khi nhắc tới công đức của con người vừa qua đời.
Bằng hình ảnh hoán dụ, Tố Hữu ca ngợi lòng yêu nước thương dân, tình nhân ái bao la của Hồ Chí Minh. Đây là hai câu thơ trong bốn câu thơ hay nhất trong bài thơ "Bác ơi!”:
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người.
Bằng nghệ thuật liệt kê, tác giả nhắc lại tấm lòng nhân ái bao la, mênh mông, của Bác. Đó là nỗi đau và nỗi lo của Bác. Lòng Bác sâu nặng như lòng mẹ: “Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ – Cho hôm nay và cho mai sau”. Đó là lòng Bác; Bác sống, Bác yêu, Bác cho, Bác để, Bác tặng:
Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già.
Đó là Bác nhớ, Bác nghe, Bác lắng… Đó là tình cảm của lãnh tụ dành cho chiến sĩ và đồng bào nơi Thành đồng Tổ quốc:
Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong Bác
Bác nghe từng bước trên tiền tuyến
Lắng mỗi tin mừng, tiếng sung xa.
Bác đã tùng nói: "Miền Nam luôn trong tim tôi”, Thơ chúc Tết năm 1969, Bác đã viết: "Năm qua thắng lợi vẻ vang – Năm nay tiền tuyến chắc thắng to… ”, Bác là niềm vui thắng trận. Bác là chỗ dựa tinh thần để tiền tuyến xốc tới "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào!", Tố Hữu vừa khóc thương Bác, vừa làm sống lại tâm hồn Bác.
Điệp ngữ "vui" và các động từ: "nâng niu, quên” đã nói lên một cách sâu sắc tâm hồn Hồ Chí Minh: lạc quan yêu đời, giàu đức hi sinh. Hình ảnh so sánh đầy chất thơ:
Bác vui như ánh buổi bình minh
Vui mỗi mầm non, trái chín cành
Vui tiếng ca chung hòa bốn biển
Nâng niu tất cả, chỉ quên mình.
Bác sống giản dị, thanh bạch. Chiếc va li nhỏ, vài ba bộ quần áo đơn sơ, đôi dép cao su…, "chẳng vàng son ". Nhiểu người thường nhắc đến hai câu thơ tuyệt bút sau đây để ca ngợi đức tính giản dị của Bác Hổ:
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
Tư tưởng lớn, ý thơ đẹp và hay, nghệ thuật tưởng phản tài ba, Tố Hữu đã để lại câu thơ trong trí nhớ nhiều người.
Có thể nói, đoạn thơ đã thể hiện sâu sắc cảm động tâm hồn, phong cách, đạo đức và lối sống Hồ Chí Minh.
3. Ba khố thơ trong phần cuối là tiếng khóc, là sự ghi nhớ, là lòng biết ơn, là lời ước nguyện.
Thương Bác, nhớ Bác càng thấy lòng mình bơ vơ, đau đớn: "Ôi Bác ơi, những xế chiều – Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!
Bác đã đi xa, bước vào "thế giới Người Hiền”. Sự nghiệp cách mạng, đạo đức cách mạng của Bác mãi mãi là "Ánh hào quang đỏ thêm sông núi”, là tài sản tinh thần vô giá có tác dụng động viên, cổ vũ đồng bào, chiến sĩ "cùng nhau tiến lên” với niềm tin sắt đá:
“Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”
(Di chúc)
Nhớ mãi công ơn của Bác, nhân dân ta nguyện ghi sâu trong lòng lời Bác dặn, quyết tâm vươn lên hoàn thành sự nghiệp cách mạng của Bác để lại. Bài thơ khép lại bằng một hình so sánh mang hình tượng sông núi kì vĩ. Tố Hữu khóc Bác bằng một lời thề chiến đấu:
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.
Tố Hữu là nhà thơ viết vế Bác Hồ nhiều nhất, sâu sắc nhất, hay nhất. Hình ảnh Bác Hồ: “Người là Cha, là Bác, là Anh – Quả tim lớn lọc trong dòng máu nhỏ” đã in đậm trong nhiều trang thơ của Tố Hữu.
“ Bác ơi!” là một trong những bài thơ hay nhất viết về Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc.
Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 6
Bác Hồ mất (2-9-1969) nhân dân cả nước và thế giới xúc động, đau đớn, tiếc thương vô hạn. Nhiều nhà thơ đã làm thơ viếng Bác. Mỗi bài thơ là cả tấm lòng của thi nhân tưởng niệm vị lãnh tụ kính yêu. Nhưng có lẽ bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu là bài thơ cảm động nhất, hay nhất! Cũng dễ hiểu, Tố Hữu tài lớn hơn mà tình (lòng yêu mến, kính trọng, tiếc thương vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc) cũng lớn hơn.
Thơ tuôn chảy theo nguồn cảm xúc dào dạt một cách tự nhiên, hồn nhiên, không dụng công, không kĩ xảo:
“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa!”
Nhà thơ chỉ nói sự thật của lòng mình, của “lòng trời” mà chấn động tâm hồn người đọc. Mấy câu thơ mở đầu bài “Bác ơi!” gợi cho ta nhớ lại những ngày ướt át, đau buồn đó. Bác Hồ vừa mất, trời đổ mưa kéo dài suốt tuần lễ. Hàng triệu người đi viếng Bác trong mưa lạnh, không còn phân biệt được nước mưa hay nước mắt. Nhà thơ Tố Hữu “chạy về” từ bệnh viện, đến bên thang gác, nghẹn ngào:
“Chuông ôi, chuông nhỏ còn reo nữa?
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!”
Nhạc thơ đã nói lên tất cả. Câu thơ cắt nhịp 2/2/3 (phòng lặng/ rèm buông / tắt ánh đèn) đứt đoạn, tức tưởi, đau đớn! Bác đã đi rồi! Làm sao nhà thơ có thể tin được điều đau lòng đó? Cuộc sống quanh Bác vẫn nguyên lành, tươi đẹp “Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời”, bao nhiêu tin tưởng, bao nhiêu hi vọng của nhân dân miền Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu! Nhà thơ cảm thấy yếu đuối trước mất mát to lớn của dân tộc, một chút mềm lòng thành kính đó cũng rất đáng quý:
“Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!”
Mới đó mà vị lãnh tụ đã trở thành người thiên cổ, trong hoài niệm của thi nhân, Người đi như trong cõi tiên:
“Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây trắng bay…”
Nhà thơ nghĩ thương Bác, một đời chỉ biết lo toan cho thiên hạ:
“Ôi, phải chi lòng được thảnh thơi
Năm canh bớt nặng nỗi thương đời”
Và nhà thơ ca ngợi vị lãnh tụ kính yêu:
“Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người”
Nhà thơ ca ngợi trái tim yêu thương “mênh mông” của Bác. Chính nguồn tình cảm cao quý này đã tạo ra sức mạnh vô biên cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Và Tố Hữu đã khái quát thành hai dòng tình cảm lớn là tình yêu nước (ôm cả non sông) và lòng thương người (mọi kiếp người). Tìm hiểu con người Bác và thơ Bác, chúng ta càng thấy khái quát của Tố Hữu thật là sâu sắc. Rồi tác giả mở rộng những khía cạnh của hai dòng tình cảm lớn đó:
“Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu”
Nỗi đau của Bác là “nỗi đau dân nước”, nhân dân còn lầm than, Bác “đau”, đất nước còn chia cắt, Bác “đau”. Bác còn “đau” vì nhiều dân tộc của “năm châu” còn bị nhiều ách xiềng xích, Bác còn đau vì sự chia rẽ của phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ.
Mỗi một nhận định, một minh chứng của Tố Hữu vừa có giá trị khái quát lại vừa cụ thể sinh động, làm nổi bật những khía cạnh tình cảm và tư tưởng phong phú của vị lãnh tụ:
“Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em tha, lụa tặng già.”
Tố Hữu cũng hiểu thấu nỗi lòng của Bác đối với miền Nam nên đã dành hẳn một khổ thơ để diễn tả tình cảm sâu nặng của Bác đối với nhân dân miền Nam và tình cảm thiêng liêng của nhân dân miền Nam đối với Bác:
“Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Bác nghe từng bước trên tiền tuyến
Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa. ”
Tố Hữu đã cảm nhận được điều bao trùm và hết sức cơ bản trong cách sống của Hồ Chí Minh: con người ấy đạt đến cái tự nhiên như trời đất, tức là đã hòa đồng với tự nhiên, đã đạt đến cái cao sâu huyền diệu của sự sống. Và vì thế mà cũng trường tồn với trời đất. Phải chăng đó chính là ngọn nguồn sâu xa của niềm vui, tinh thần lạc quan và lẽ sống quên mình của Bác:
“Bác vui như ánh buổi bình minh
Vui mỗi mầm non, trái chín cành
Vui tiếng ca chung hòa bốn biển
Nâng niu tất cả, chỉ quên mình”
Tố Hữu sống gần gũi với Bác Hồ, hiểu sâu sắc con người và hoạt động của Bác, được “tỏa sáng” bởi đạo đức, tác phong của Người nên trong những giây phút xúc động, nhà thơ đã cô đúc lại trong hình thức ngôn ngữ giản dị, trong sáng thành những lời rung động lòng người:
“Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”
Đoạn kết của bài thơ, cũng là nỗi tiếc thương vị lãnh tụ quá cố, những xúc động đã dịu đi, lí trí hơn, tình được nén lại, “nghĩa nặng”:
“Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều.
Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!
Ra đi, Bác dặn: “Còn non nước….”
Nghĩa nặng, lòng không dám khóc nhiều.”
Những chi tiết trong Di chúc của Bác như “Còn non nước…”, “Mác Lênin” thể hiện sự suy nghĩ của nhà thơ về trách nhiệm của những người kế tục sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người, đồng thời cũng nói lên lòng trung thành của nhà thơ, người chiến sĩ cách mạng đối với vị lãnh tụ đã khuất. Nhà thơ tin tưởng vào sự trường tồn của sự nghiệp cách mạng mà Người đã gầy dựng và nguyện vươn lên vững chắc:
“Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn”
Bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu xúc cảm dào dạt không bi lụy, lí trí sáng suốt đã chế ngự được tình cảm đau thương tang tóc. Hình ảnh vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc hiện lên trong thơ với đầy đủ phẩm chất cao quý như tình yêu nước, lòng thương người, tác phong giản dị hòa hợp với thiên nhiên, “một đời thanh bạch chẳng vàng son”.
Bằng nhạc điệu trang nghiêm, bằng hình tượng thơ hoành tráng, bằng triết lí nhân bản, sâu sắc. nhà thơ đã truyền đến người đọc niềm thương yêu, tôn kính vị lãnh tụ. Đúng như nhà thơ Xuân Diệu nhận xét: Bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu là một “điếu văn bi hùng”.
Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 7
Tố Hữu là một nhà thơ có cuộc đời và sự nghiệp cách mạng, cũng như sự nghiệp sáng tác luôn gắn bó và song hành chặt chẽ với nhau với nhau. Có thể nói rằng Tố Hữu là định nghĩa của một nhà thơ lý tưởng, với những tình cảm cao đẹp, thơ ca của ông luôn gắn liền với từng sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước, của dân tộc.
Sau cuộc tổng tiến công năm Mậu Thân 1968, đất nước ta bước vào một giai đoạn kháng chiến mới đầy cam go và ác liệt. Cùng lúc này sự ra đi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã trở thành một mất mát vô cùng to lớn đối với đất nước, là nỗi đau lớn của toàn dân tộc Việt Nam.
Trước hung tin ấy, Tố Hữu dù đang nằm viện, nhưng đã lập tức trở về nhà sàn nơi Bác làm việc để nhìn Bác lần cuối. Bài thơ Bác ơi! đã ra đời trong hoàn cảnh vô cùng đớn đau và xúc động ấy, được Xuân Diệu ca ngợi là “bài điếu văn bi hùng bằng thơ”, mà cho đến ngày hôm nay mỗi lần đọc lại ta vẫn cảm thấy nghẹn ngào, thương tiếc không thôi về sự ra đi của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Bác ơi! là một bài thơ dài không chỉ có những cảm xúc xót thương vô hạn trước sự ra đi của Hồ Chủ tịch, mà nó còn đóng vai trò là một bản chiêm nghiệm, đúc kết sâu sắc về cuộc đời và sự nghiệp gắn bó với dân tộc, đất nước của Bác. Trong sáu khổ thơ đầu tiên là những nỗi niềm đau đớn, xót xa trước sự kiện trăm tuổi của Người, mà ở đây cảm xúc trong thơ của Tố Hữu không chỉ là nỗi đau riêng mà nó còn là nỗi đau chung, cảm nhận chung hàng triệu đồng bào lúc bấy giờ.
“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cau, mấy gốc dừa!
…
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây trắng bay…”
Trong suốt bốn khổ thơ đầu có lẽ rằng câu thơ đánh động tâm can người đọc nhất là hai câu thơ đầu “Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa/Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…” lời thơ nghe như trào nước mắt. Sự kiện Bác ra đi đã lại trong lòng nhân dân những nỗi đau khôn tả, mà không chỉ nước mắt con người đưa chân Bác, thậm chí những nỗi đau đớn mất mát ấy còn cảm động cả thiên nhiên, đến trời xanh cũng buồn không hửng nắng, mà rỏ những giọt mưa đầy hiu hắt.
Không khí tang thương bao trùm cả lòng người, cả cảnh vật, tất thảy vắng đi hơi thở của Người đều trở nên ảm đạm lạnh lẽo, những vườn cau, những gốc dừa, lối sỏi quen, thang gác, chuông nhỏ, phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn đều như không còn sinh khí, như đang để tang cho vị lãnh tụ kính yêu.
Sự kiện bàng hoàng, đau đớn ấy không ngờ lại xảy ra khi đất nước sắp đến ngày thắng lợi, vậy mà Người đành ra đi trước, không kịp nhìn thấy cảnh Nam Bắc sum họp, không kịp nhìn thấy cái thành tựu mà mấy mươi năm Người dốc lòng vun đắp hy sinh, không kịp chung vui cùng dân tộc ngày đại thắng. Hỏi rằng có nỗi đớn đau, mất mát nào sâu đậm hơn thế nữa?
Tố Hữu dường như không thể tin vào sự thật rằng Bác đã rời nhân thế, không thể tin được Bác lại buông tay vào một ngày thu nắng đẹp, trước thềm độc lập của đất nước mà thốt lên đầy đau đớn rằng “Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!”.
Nghẹn ngào, chua xót làm sao khi những trái bưởi vàng ngọt, những hoa nhài ngát hương, những mặt hồ soi bóng mây nay bỗng như thừa thãi, bởi Bác còn đâu mà trông thấy, mà thưởng thức. Những cảnh có đẹp, có xum xuê biết mấy thì Bác đi rồi cũng trở nên ảm đạm, chán chường, bởi trong ngôi nhà sàn, trong nơi Bác ở, Bác chính là vầng hào quang soi sáng, làm nên sức sống cho tất cả.
Với sáu khổ thơ tiếp theo, Tố Hữu đã có những suy nghĩ, chiêm nghiệm thật sâu sắc, tràn đầy lòng kính trọng và yêu mến đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Suốt cuộc đời 79 mùa xuân tươi đẹp, Bác chưa lúc nào để mình được thảnh thơi, trái tim chỉ nặng một “nỗi thương đời”. Bác đã vực dậy non sông Việt Nam, mang trong mình tấm lòng của người mẹ “Ôm cả non sông, mọi kiếp người”.
Người cả đời sống với một tâm hồn bao dung, chan hòa với thiên nhiên “yêu từng ngọn lúa mỗi cành hoa”, trái tim luôn chất chứa những tình thương người, cảm thông cho những số phận đớn đau bất hạnh trên khắp năm châu, địa cầu, là cơ sở cho lý tưởng, niềm tin và lẽ sống của Hồ Chủ tịch. Người suốt đời phấn đấu vì hòa bình, độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Thế nhưng không chỉ nằm ở tầm vĩ mô của những lý tưởng to lớn là khát vọng giải phóng dân tộc, mà trái tim Người còn rộng lớn hướng tới từng cá nhân, số phận con người cụ thể “Sữa để em thơ, lụa tặng già”. Đồn thời Người luôn có những tình cảm gắn bó, tha thiết, sâu đậm với từng mảnh đất quê hương, Bác nhớ miền Nam như nhớ quê nhà, để ý từng tiếng vọng của miền Nam thân yêu “Bác nghe từng bước trên tiền tuyến/Lắng mỗi tin mừng tiếng súng xa”.
Người sống mà chỉ để ý đến những niềm vui, những niềm hạnh phúc của vạn vật, vạn người xung quanh mình, nhưng lại quên đi chính bản thân. Bác nào có giữ riêng cho mình một thức gì, chỉ có mong ước một nỗi hạnh phúc cho dân tộc hôm nay và mai sau. Khi sắp ra đi Người cũng chỉ mong được mang đi một khúc hát của quê hương, một điệu hò xứ Nghệ, một bài quan họ Bắc Ninh.
Bao nhiêu tình thương dành cả cho dân tộc, cho đất nước, Bác chịu sống một đời thanh bạch, cần, kiệm, liêm, chính, không màng đến những cảnh hư vinh, vật chất. Một tấm áo vải, một đôi dép cao su chắp vá bao bận, Người đã trở thành tượng đài bất tử trong lòng hàng triệu người dân đất Việt. Tư tưởng, vẻ đẹp phẩm chất, những đóng góp vĩ đại cho dân tộc của Người mãi mãi được muôn đời ghi nhớ công ơn.
“Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều
Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu?
Ra đi, Bác dặn: “Còn non nước…”
Nghĩa nặng, lòng không dám khóc nhiều
Bác đã lên đường theo tổ tiên
Mác – Lênin, thế giới Người hiền
Ánh hào quang đỏ thêm sông núi
Dắt chúng con cùng nhau tiến lên!
Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn
Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.”
Trước sự ra đi của Bác, nhưng Tố Hữu cũng thấu hiểu rằng nỗi đau này tuy lớn nhưng không thể vì thế mà làm suy sụp tinh thần chiến đấu của nhân dân trong những ngày chiến tranh miền Nam trở nên cam go và ác liệt nhất.
Chúng ta phải nhanh chóng vượt qua nỗi đau để Bác bước vào nỗi nhớ nghìn thu trong trái tim mỗi người, tiếp tục hướng về phía trước hoàn thành nốt những trăn trở của vị cha già vĩ đại “Còn non nước …” mà như Bác đã dặn trong Di chúc nước ta sẽ còn phải “kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa,…” .
Bác ra đi nhưng đã trở thành những tượng đài bất tử cùng với Mác – Lênin, về với giới “Người hiền” vĩnh viễn ở trên cao dùng tư tưởng của mình để soi đường và dẫn dắt con dân Việt Nam trải qua những bước đường khó khăn phía trước.
Và không trái với tấm lòng của Bác, Tố Hữu đã khai thác được những sức mạnh mới từ sự ra đi của người lãnh tụ vĩ đại, cuộc đời luôn có những hy sinh, mất mát, nhưng không vì thế mà ta suy sụp, gục ngã, trái lại ta lại càng phải sống mạnh mẽ và luôn tiến bước về phía trước. Còn Bác sẽ sống mãi trong lòng nhân dân, trong dòng lịch sử nhiều đau thương, anh hùng của dân tộc, Người đã trở thành bất tử muôn đời.
Bác ơi! là một trong những bài thơ viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh xúc động và sâu sắc hơn cả. Không chỉ thể hiện tấm lòng đau đớn, xót thương vô hạn trước sự ra đi của Bác, mà nó còn là những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời và sự nghiệp gắn bó với đất nước với nhân dân của người cha già dân tộc, đồng thời thể hiện tấm lòng biết ơn, lời hứa sâu sắc của cả một dân tộc về sự tiến bước, nỗ lực trong công cuộc chiến đấu và xây dựng đất nước.
Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 8
Trong lời điếu văn đầy xót thương và cảm động đọc trước linh cữu Chủ tịch Hồ Chí Minh, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã khẳng định: “Dân tộc ta, nhân dân ta. non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta”.
Nhà thơ Tố Hữu cũng đã thể hiện điều đó trong một bài thơ khóc Bác – Bác – Bác ơi! là tiếng khóc tiễn biệt, là lời “điếu văn bi hùng” bằng thơ (Xuân Diệu). Bài thơ không chỉ bộc lộ nỗi đau xót và tiếc thương, mà còn là sự đúc kết những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Giữa lúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ của dân tộc đang tiếp diễn vô cùng gay go, quyết liệt, ngày 2- 9- 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Người qua đời là một tổn thất lớn lao đối với cách mạng và dân tộc Việt Nam. Trong những ngày ấy, cả dân tộc ta và bạn bè quốc tế đã biểu lộ nỗi tiếc thương, nỗi đau xót vô hạn trước sự ra đi của Người. Trong những ngày ấy, “Đời tuôn nước mắt, đời tuôn mưa..
Bác ơi! của Tố Hữu ra đời trong không khí những ngày đại tang ấy. Bài thơ như một bài “điếu văn bi hùng” thể hiện ở cả kết cấu, giọng điệu lẫn hình ảnh, ngôn ngữ thơ,… Tất cả đã bộc lộ nỗi đau xót, tiếc thương của tác giả đồng thời đúc kết những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ mở đầu với khung cảnh đau buồn, tang tóc bao trùm lên toàn cõi Việt Nam trong những ngày mất Bác:
“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”
Không hiểu sao trong những ngày Bác mất, trời mưa tầm tã. Phải chăng tổn thất lớn của dân tộc ta đã lay động đến cả trời xanh làm cho cao xanh kia cũng tuôn trào nước mắt? Hay chính là nước mắt của con dân Việt Nam khóc người cha già dân tộc đã thăng hoa, hòa vào vũ trụ và ngưng kết thành mưa? Nhà thơ đã đồng nhất “đời” và “trời” tạo thành một ý thơ có sức khái quát diễn tả nỗi đau lòng mình và nỗi đau dân tộc trước tổn thất quá lớn lao.
Đó là những giọt nước mắt nóng bỏng chất sử thi – một dân tộc anh hùng tiếc thương một anh hùng dân tộc. Nỗi tiếc thương khiến cỏ cây, đất trời bỗng trở nên bùi ngùi, tâm hồn người bỗng trở nên ngơ ngác:
“Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa”
Khung cảnh thiên nhiên, khung cảnh nhà Bác,… tất cả vẫn còn đây, nhưng tất cả đều thẫn thờ:
“Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác đứng nhìn lên
Chuông ôi chuông nhỏ còn reo
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!…
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây trắng bay”
Đoạn thơ với rất nhiều câu hỏi và câu cảm thán. Những dấu hỏi, dấu cảm, dấu chấm lửng, những thán từ cùng với cách ngắt nhịp chậm, nhịp dài ngắn đan xen đã diễn tả một cách xúc động nỗi tiếc thương nghẹn ngào trong lòng nhà thơ. Bài thơ với lối kết cấu như một bài điếu văn cổ điển (lung khỏi- thích thực- ai vãn).
Tính cổ điển trong kết cấu đã nâng hình tượng thơ và cảm xúc của nhà thơ lên tầm vóc lịch sử và thời đại. Đó là hình tượng của muôn đời và cảm xúc của muôn người. Hình tượng Bác hiện lên trong nỗi tiếc thương vô hạn xen lẫn niềm kính phục thiêng liêng.
Phần thứ hai của bài thơ thể hiện những suy ngẫm, những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chi Minh: Người là tình yêu bao la, Người mang nỗi lo ” muôn mối như lòng mẹ”, Người “nâng niu tất cả chỉ quên mình”, Người luôn mang hình bóng miền Nam trong trái tim, Người “Một đời thanh bạch, chẳng vàng son”,…
Đoạn thơ với chất giọng trầm hùng bi tráng, với những hình ảnh vừa giản dị. vừa lớn lao rất phù hợp với hình tượng Bác Hồ và nỗi tiếc thương, niềm thành kính của nhà thơ đối với Bác. Còn gì đẹp hơn, ý nghĩa hơn khi nhà thơ dùng hình tượng trái tim để biểu tượng cho tình cảm bao la của Bác: “Bác ơi, tim Bác mênh mông thếÔm cả non sông, mọi kiếp người”. Còn gì giản dị gần gũi hơn và cũng bao dung trời biển hơn khi nhà thơ so sánh tấm lòng của Bác với tấm lòng của người mẹ:
“Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ
Cho hôm nay và cho mai sau”
“Bác sống như trời đất của ta”,
Bác đem “Tự do cho mỗi đời nô lệ” và Bác còn “Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa”, Bác dành sữa cho em thơ và tặng lụa cho người già. Con người của “trời đất”, của “tự do” được lồng trong con người của đời thường. Con người vĩ đại Hồ Chí Minh hòa vào con người bình thường Hồ Chí Minh tạo nên một vẻ đẹp vừa lớn lao, vĩ đại vừa gần gũi, thân thiết. Sinh thời, Bác Hồ luôn dành tình cảm đặc biệt đối với miền Nam.
Bác nói: “Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”. Để đáp lại lòng mong mỏi của cháu con trong Nam, Bác đã dự định sẽ vào thăm nhưng dự định chưa kịp thực hiện thì… Tố Hữu đã so sánh:
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
Nỗi nhớ thương miền Nam của Bác giống như “nỗi nhớ nhà” và nỗi mong ngóng Bác của miền Nam giống như “nỗi mong cha”. Nỗi nhớ thương gắn với nỗi đau chia cắt thân mình Tổ quốc và khát vọng thống nhất, đoàn tụ. Câu thơ diễn tả một thứ tình cảm rất gia đình nhưng ý thơ vượt lên câu chữ để diễn tả một vấn để mang tính sử thi của thời đại và dân tộc. Đoạn thơ khép lại bằng những hình ảnh suy tưởng mang tính khái quát cao mà vẫn chan chứa cảm xúc:
“Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”.
Bác để lại nhiều: độc lập, tự do, cơm no, áo ấm,… Nhưng tất cả đều xuất phát từ một thứ vô cùng quý giá: “tình thương”- “Bác thương các cụ già”, “Bác thương đàn cháu nhỏ”, “Bác thương đoàn dân công”,… Bác thương dân, yêu nước nên đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Bác “nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Đúc kết cuộc đời Bác, nhà thơ chiêm nghiệm và nhận thấy hai phẩm chất nổi bật: tình yêu thương quên mình và sự giản dị thanh cao.
Tác giả dùng hình tượng “áo vải” mong manh để nói về “một đời thanh bạch”, thể hiện phẩm chất giản dị mà thanh khiết vô ngần của Bác. Bác là vậy, giản dị mà vĩ đại, “áo vải” mà “hồn muôn trượng”. Đoạn thơ với rất nhiều hình ảnh so sánh, ẩn dụ đã thể hiện một cách sâu sắc những suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tố Hữu đã vĩnh hằng hóa, bất tử hóa hình tượng Bác Hồ trong thiên nhiên, đất trời và trong lòng người. Đoạn thơ thể hiện niềm cảm phục thành kính, niềm tự hào thiêng liêng trước anh linh của vị cha già dân tộc. Trong niềm xúc động, niềm cảm phục và tự hào, nhà thơ đã thay mặt con dân nước Việt thầm nói lên lòng mình:
“Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều
Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!
Ra đi, Bác dặn: “Còn non nước..”
Nghĩa nặng, lòng không dám khóc nhiều”.
Và thầm hứa với Bác:
“Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn
Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn”.
Biến đau thương thành hành động, cả dân tộc Việt Nam đã đứng lên thực hiện di chúc của Bác. Sáu năm sau ngày Bác đi xa. chúng ta đã “đánh cho Mĩ cút, đánh cho Ngụy nhào”, đem lại hòa bình, thống nhất, nối liền một dải non sông và xây dựng đất nước ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Trong số rất nhiều những bài thơ viết về Bác, cùng với trường ca Theo chân Bác, Bác ơi! là một thành công lớn của nhà thơ Tố Hữu.
Bài thơ là niềm xúc động dâng trào và những chiêm nghiệm sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Cha già dân tộc, người anh hùng vĩ đại của thế kỉ XX. Bác ơi! là bài thơ khóc Bác nhưng đó là những dòng nước mắt nóng bỏng chất sử thi.
Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 9
“Bác ơi” là bài thơ được tác giả Tố Hữu viết sau ba ngày Bác Hồ ra đi. Cảm xúc chung toàn bài thơ là nỗi niềm tiếc thương đối với vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam, trân trọng, ngợi ca tình yêu nước thương dân của Người.
Bài thơ được mở đầu bằng tiếng khóc nấc nghẹn của nhà thơ, đó cũng là tiếng khóc thương của hàng triệu con người Việt Nam trước sự ra đi của người Cha già của dân tộc:
“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…”
Nhà thơ Tố Hữu đã điệp từ “tuôn” như muốn khẳng định sự đau xót khôn xiết của con người và cả thiên nhiên khi Bác rời xa. Nỗi đau xót ấy bao trùm lấy cả lòng người và trời đất.
Tố Hữu là một nhà thơ Cách mạng nhiệt huyết, vậy nên, ông rất gần gũi với Bác Hồ, rất thương mến người Cha già kính yêu của dân tộc. Thế nhưng, khi người Cha già ấy ra đi, Tố Hữu lại không được gần bên, nên khi vừa hay tin, ông đã “chạy về thăm Bác”.
Những cảnh vật xưa cũng vẫn nguyên đây, căn nhà sàn Bác đã ở giờ đây chẳng còn tiếng nói của Người mà trở nên trống vắng, lạnh lẽo đến vô cùng:
“Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác, đứng nhìn lên
Chuông ôi chuông nhỏ còn reo nữa?
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!”
Những đồ vật bên trong đó giờ đây nằm bất động, chuông không reo, phòng tắt đèn, rèm cửa buông, những gốc cau, gốc dừa ướt lạnh sương, … tất cả đều vắng hơi ấm của Người. Đối với Tố Hữu, điều ấy thật đau đớn, thật tê tái đến nhường nào! Nhà thơ dạo bước quanh trên “lối sỏi quen” nhưng tất cả giờ đây chỉ còn là những kỉ niệm, bởi Bác Hồ đã rời xa thế giới này, thật đau đớn, thật xót xa biết bao!
Và dường như nhà thơ vẫn còn chưa tin vào sự thật ấy, ông bật lên tiếng khóc nghẹn ngào, giật mình trong thảng thốt, gọi tên Bác:
“Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời”
Mùa thu ấy thiên nhiên đều đẹp, con người đều mừng vui bởi khi đó, cả tiền tuyến còn đang trong ác liệt, cả miền Nam đang trên đà chiến thắng. Tất cả mọi người đều mơ đến ngày thống nhất Nam Bắc, Bác Hồ sẽ vào thăm miền Nam, cả miền Nam sẽ được thấy Người vẫy tay cười trong nắng mới:
“Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười”
Căn nhà Bác ở và làm việc vẫn còn nguyên đây, những cây bưởi đã ra trái ngọt, hoa nhài đã nở thơm ngát nhưng thật trống trải “còn đâu bóng Bác đi sớm hôm” nữa. Nhịp điệu thơ ở đây mang đầy sự nghẹn ngào, những câu hỏi tu từ liên tiếp được đặt ra như để biểu thị cho nỗi đau vô bờ của nhà thơ:
“Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!”
Bốn khổ thơ là những niềm tiếc thương vô hạn của nhà thơ cũng như của toàn dân Việt Nam trước sự ra đi của Người. Nỗi đau xót ấy không chỉ con người mới thấu mà thiên nhiên, trời đất đều cảm nhận được! Không gian nghệ thuật trong bốn khổ thơ được Tố Hữu mở rộng dần từ căn nhà của Bác tới thiên nhiên, miền Nam, đất trời, tất cả đang thấm thía nỗi đau xót khi Bác ra đi.
Sáu khổ thơ tiếp theo, Tố Hữu dựng lại hình tượng vị Cha già của dân tộc với tấm lòng yêu thương bao la và những phẩm chất cao đẹp. Cả cuộc đời của Người sống với lí tưởng cao đẹp là giành lại độc lập cho đất nước, giành lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Người đã dâng hiến cả đời mình cho sự nghiệp cứu nước, nhưng tới khi mất đi, sự nghiệp ấy vẫn chưa hoàn thành, tấm lòng của Người vẫn còn “nặng thương đời” mà chưa được “thảnh thơi”:
“Ôi, phải chi lòng được thảnh thơi
Năm canh bớt nặng nỗi thương đời”
Câu thơ cảm thán chứa đựng sự cảm phục đối với Bác cũng như nỗi xót xa cho sự vất vả của Người. Bác luôn yêu thương mọi người, yêu non sông đất nước, mọi kiếp lầm than của dân tộc, thế nên Tố Hữu đã dùng ở đây một hình ảnh ẩn dụ thật tinh tế để miêu tả điều đó:
“Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người”
Hai câu thơ chứa đựng ca ngợi tình yêu nước sâu sắc và lòng thương người mênh mông Bác dành cho dân tộc Việt Nam, cho “mọi kiếp người” lầm than trên thế giới. Hai câu thơ này có lẽ là những câu thơ đặc sắc nhất, hay nhất cả bài thơ!
Khi Bác ra đi, miền Nam còn đang khói lửa, Bác ra đi không buồn mà chỉ đau xót và trăn trở cho đất nước, cho năm châu còn chưa được hoà bình. Nhà thơ đã dùng biện pháp liệt kê để kể về những nỗi “đau” mà Bác còn mang nặng và khẳng định tình yêu bao la của Bác với mọi người, mọi nhà, cho vạn vật khắp thế giới này:
“Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu
Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ
Cho hôm nay và cho mai sau…”
Lòng Bác cũng như tấm lòng của người mẹ hiền, thương đàn con thơ dại. Bác đã sống hiên ngang, vĩ đại “như trời đất của ta”, yêu thương, chăm lo cho “ngọn lúa, cành hoa”, cho “mỗi đời nô lệ”, cho trẻ em và người già.
Bác cũng dành một tình cảm sâu nặng cho các chiến sĩ nơi đầu trận tuyến. Với Bác, miền Nam là ruột thịt, luôn trong tim Bác. Bác dõi theo từng “bước trên tiền tuyền”, vui mừng khi tin thắng trận kéo về.
“Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Bác nghe từng bước trên tiền tuyến
Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa”
Những câu thơ ở đây đều chứa chan xúc cảm, khẳng định sự yêu thương chân thành, sự mong mỏi đất nước hoàn toàn độc lập của Người. Tố Hữu khóc thương Người, nhưng cũng từ đó mà làm sống dậy tâm hồn của Người, tình yêu của Người – rộng lớn, mênh mông.
Khổ thơ tiếp theo, chúng ta thấy một loạt những từ “vui” được trải đều khắp khổ thơ:
“Bác vui như ánh buổi bình minh
Vui mỗi mầm non, trái chín cành
Vui tiếng ca chung hoà bốn biển
Nâng niu tất cả, chỉ quên mình”
Nhà thơ đã làm sống dậy tâm hồn của Bác, sống dậy những mơ ước của Người. Người “nâng niu” tất cả nhưng lại “quên” đi bản thân mình. Bởi lẽ sống của Bác là lẽ sống của dân tộc, Bác đã hy sinh, đã quên mình vì cả dân tộc Việt Nam. Tâm hồn ấy, lí tưởng ấy thật cao cả, thật đáng tự hào!
Bác sống một đời giản dị, thanh bạch, khiêm nhường và hy sinh. Đến lúc Người ra đi, Người cũng chỉ có vài bộ quần áo đơn sơ đã sờn, vài đôi dép cao su mộc mạc, “chẳng vàng son”, như một bức “tượng đồng phơi lối mòn” và chỉ để lại cho chúng ta một tình yêu thương vô bờ bến, một tâm hồn trải “muôn trượng” thế gian:
“Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”.
Đức tính giản dị là một trong muôn vàn những đức tính tốt đẹp mà Người đã để lại cho chúng ta noi theo. Và Tố Hữu đã dựng lên hình tượng Người giản dị như thế, khiêm nhường như thế nhưng cũng thật vĩ đại, thật cao đẹp biết bao! Tình yêu thương, sự hy sinh của Người cho dân tộc sẽ mãi mãi được nhắc đến với sự trân trọng, kính yêu vô bờ!
Ba khổ cuối cùng của bài thơ, nhà thơ đặt những cảm xúc của mọi con người vào đó để bày tỏ niềm tiếc thương trước sự ra đi của Người. Người đã ra đi mãi mãi, để lại cho chúng con sự tiếc nhớ vô cùng. Thế nhưng, lời Bác dặn dò vẫn còn đó, phải nén lại đau thương để tập trung vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, để thực hiện di chúc của Người trước lúc đi xa:
“Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều
Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!
Ra đi, Bác dặn: “Còn non nước…”
Nghĩa nặng, lòng không dám khóc nhiều”
Bác ra đi rồi, sự thành kính của chúng con tiễn đưa Người tới thế giới của những người vĩ đại. Nhưng lý tưởng Người để lại, những bài học Người đã dạy, những căn dặn Người đã nêu sẽ là “ánh hào quang đỏ” dẫn dắt chúng con “cùng nhau tiến lên”, soi sáng cho con đường của cả dân tộc.
Người sẽ mãi mãi là tấm gương hy sinh hết mình cho Tổ quốc mà chúng con nguyện noi theo. Bác đã hòa mình vào sông núi, dõi theo bước chân của chúng ta, để non sông Việt Nam sẽ vĩnh viễn vững bền:
“Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn”.
Nhịp thơ của những khổ thơ cuối dồn dập, vẫn là niềm tiếc thương nhưng đã nguôi ngoai phần nào, và trong đó là sự quyết tâm, khẳng định chắc chắn. Những dòng thơ cuối như kết tinh một chân lý: Yêu Bác, lòng ta càng “trong sáng hơn”, mạnh mẽ, vững vàng hơn. Ánh sáng của Người soi tỏ con người chúng ta, thanh lọc tâm hồn chúng ta, nâng tầm sức mạnh.
Cả bài thơ Bác ơi là niềm tiếc thương vô hạn của nhà thơ Tố Hữu với sự ra đi của người Cha già mà cả dân tộc kính yêu. Cuộc đời Người là sự hy sinh, cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, tấm lòng Người trải rộng yêu thương hết thảy mọi người. Bác ra đi, nhưng những người còn ở lại sẽ tiếp bước con đường của Người, hoàn thành di chúc và ước muốn của Người lúc còn sinh thành, đó là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Bài thơ là niềm xúc động dâng trào trong lòng Tố Hữu khi về thăm Người khi Người đã rời xa cùng những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời Bác. Bài thơ vừa mang nỗi xúc động vừa chứa chan tính chất hào hùng như chất liệu sử thi. “Bác ơi” xứng đáng trở thành một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp của Tố Hữu.
Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 10
“Bác ơi!” được Tố Hữu viết vào ngày 6-9-1969, bốn ngày sau khi vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc qua đời. “Bác ơi!”được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, gồm 13 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu thơ.
Bài “Bác ơi!” là tiếng khóc tiễn biệt, mang ý nghĩa như một bài điếu văn rất cảm động, vừa ca ngợi lòng yêu nước thương dân bao la của Bác Hồ, vừa biểu lộ lòng tiếc thương, ghi nhớ công ơn to lớn của lãnh tụ. Mở đầu bài thơ là tiếng khóc. Bác Hồ qua đời để lại nỗi đau thương trong lòng hàng triệu đồng bào ta và bạn bè gần xa. Nỗi đau thương trùm cả cõi đời và cả vũ trụ bao la, mênh mông:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…
Câu thơ thứ hai, chữ “tuôn” được điệp lại hai lần đã cực tả nỗi mất mát, đau thương của dân tộc thật vô hạn. Đọc hồi kí của Tố Hữu, ta biết lúc Bác Hồ mất, nhà thơ còn đi công tác xa. Nghe tin Bác mất, tác giả vội “chạy về”. Đó là một buổi chiều đau đớn, bàng hoàng. Hai chữ “ướt lạnh” diễn tả nỗi đau đớn tái tê ấy:
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa!
Bác ra đi, ngôi nhà sàn của Bác trở nên vắng lặng, hiu hắt buồn. Chuông chẳng còn reo nữa. Ánh đèn “tắt”, “rèm buông”, phòng của Bác ở và làm việc thì đã “lặng”. Sự sống như ngừng lại trong đau thương:
Chuông ôi chuông nhỏ còn reo nữa
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!
Bác ra đi quá bất ngờ, đột ngột. Cả miền Nam, cả tiền tuyến lớn anh hùng đang trên đà chiến thắng. “Rước Bác vào thăm”… là ước mơ đẹp của đồng bào, chiến sĩ. Nhưng giờ đây còn đâu nữa khi Bác đã đi xa.
Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười!
Ngày hội chiến thắng, ngày hội thống nhất non sông… thế là vắng bóng Bác. Bác ra đi, cỏ cây hoa lá, thiên nhiên tạo vật đều đau đớn tiếc thương. Vườn rau, gốc dừa, trái bưởi, hoa nhài, ao cá… những vật thân quen ấy của Bác được nhân hoá gợi ra bao đau đớn, cô đơn, buồn tủi, ngậm ngùi. Lấy ai để san sẻ nỗi đau buồn thương tiếc? Tố Hữu có một lối nói biểu cảm rất sâu sắc. Ông đứng lặng, tự hỏi lòng mình rồi hỏi cỏ cây hoa lá:
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây bay…
Bốn khổ thơ đầu, Tố Hữu đã mở ra một không gian nghệ thuật từ đất trời, cõi đời, niềm Nam,… đến vườn rau, ao cá, gốc dừa, ngôi nhà sàn,… đồng hiện một tâm trạng nghệ thuật, đó là nỗi đau đớn, tiếc thương đã và đang thấm sâu vào lòng người, lòng dân tộc. Đó là ngày Bác đi xa, ngày 2 tháng 9 năm 1969, ngày Quốc tang. Sự kết hợp các câu cảm thán, câu hỏi tu từ làm cho giọng thơ như tiếng nấc cất lên, nghẹn ngào, biểu cảm:
Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm…
Sáu khổ thơ tiếp theo trong phần hai bài thơ nói lên tình thương bao la và phẩm chất cao đẹp của Bác. Cách cấu trúc bài thơ giống như bài văn tế khi nhắc tới công đức của con người vừa qua đời. Bằng hình ảnh hoán dụ, Tố Hữu ca ngợi lòng yêu nước thương dân, tình nhân ái bao la của Hồ Chí Minh. Đây là hai câu thơ trong bốn câu thơ hay nhất trong bài thơ “Bác ơi!”:
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người.
Bằng nghệ thuật liệt kê, tác giả nhắc lại tấm lòng nhân ái bao la, mênh mông, của Bác. Đó là nỗi đau và nỗi lo của Bác. Lòng Bác sâu nặng như lòng mẹ: “Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ – Cho hôm nay và cho mai sau”. Đó là lòng Bác: Bác sống, Bác yêu, Bác cho, Bác để, Bác tặng:
Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già.
Đó là Bác nhớ, Bác nghe, Bác lắng… Đó là tình cảm của lãnh tụ dành cho chiến sĩ và đồng bào nơi Thành đồng Tổ quốc:
Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Bác nghe từng bước trên tiền tuyến
Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa.
Bác đã từng nói: “Miền Nam luôn trong tim tôi”, Thơ chúc Tết năm 1969, Bác đã viết: “Năm qua thắng lợi vẻ vang – Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to… “, Bác là niềm vui thắng trận. Bác là chỗ dựa tinh thần để tiền tuyến xốc tới “Đánh Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào!”, Tố Hữu vừa khóc thương Bác, vừa làm sống lại tâm hồn Bác. Điệp ngữ “vui” và các động từ: “nâng niu, quên” đã nói lên một cách sâu sắc tâm hồn Hồ Chí Minh: lạc quan yêu đời, giàu đức hi sinh. Hình ảnh so sánh đầy chất thơ:
Bác vui như ánh buổi minh
Vui mỗi mầm non, trái chín cành
Vui tiếng ca chung hòa bốn biển
Nâng niu tất cả, chỉ quên mình.
Bác sống giản dị, thanh bạch. Chiếc va li nhỏ, vài ba bộ quần áo đơn sơ, đôi dép cao su…, “chẳng vàng son”,Nhiều người thường nhắc đến hai câu thơ tuyệt bút sau đây để ca ngợi đức tính giản dị của Bác Hồ:
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
Tư tưởng lớn, ý thơ đẹp và hay, nghệ thuật tưởng phản tài ba, Tố Hữu đã để lại câu thơ trong trí nhớ nhiều người. Có thể nói, đoạn thơ đã thể hiện sâu sắc cảm động tâm hồn, phong cách, đạo đức và lối sống Hồ Chí Minh. Ba khố thơ trong phần cuối là tiếng khóc, là sự ghi nhớ, là lòng biết ơn, là lời ước nguyện.
Thương Bác, nhớ Bác càng thấy lòng mình bơ vơ, đau đớn: “ôi Bác xế chiều – Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu! Bác đã đi xa, bước vào “thế giới Người Hiền”. Sự nghiệp cách mạng, đạo đức cách mạng của Bác mãi mãi là “Ánh hào quang thêm”, là tài sản tinh thần vô giá có tác dụng động viên, cổ vũ đồng bào, chiến sĩ “cùng nhau tiến lên” với niềm tin sắt đá:
“Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày này”.
(Di chúc)
Nhớ mãi công ơn của Bác, nhân dân ta nguyện ghi sâu trong lòng lời Bác dặn, quyết tâm vượt lên hoàn thành sự nghiệp cách mạng của Bác để lại. Bài thơ khép lại bằng một hình so sánh mang tượng hình sông núi kì vĩ. Tố Hữu khóc Bác bằng một lời thề chiến đấu:
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.
Tố Hữu là nhà thơ viết về Bác Hồ nhiều nhất, sâu sắc nhất, hay nhất. Hình ảnh Bác Hồ: “Người là Cha, là Bác, là Anh – Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ” đã in đậm trong nhiều trang thơ của Tố Hữu. “Bác ơi!” là một trong những bài thơ hay nhất viết về Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc.
Phân tích bài thơ Bác ơi - mẫu 11
Chiều ngày 2/9/1969, tin Bác Hồ mất đến với Tố Hữu khi ông đang điều trị ở bệnh viện. Ông vội trở về, tìm đến ngôi nhà sàn thân quen. Trời mưa tầm tã, xung quanh vắng lặng. Lòng trĩu buồn, đêm hôm ấy ông ngồi viết bài thơ này. Xuân Diệu cho đây là bài “điếu văn bi hùng”. Bài thơ thể hiện nỗi đau thương tột độ và sự cảm nhận bao quát về cuộc đời, phẩm chất và đức độ của lãnh tụ.
Hai câu thơ đầu, nhà thơ nhắc đến không khí đau buồn bao trùm đất nước, tạo ra chất bi hùng của sự kiện Bác mất. Cả nước khóc thương Người:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa…
Hình ảnh người con vắng Bác lúc đầu mang tâm trạng trống vắng bơ vơ dáng dấp, bước chân thẫn thờ trông thật tội nghiệp:
Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác đứng nhìn lên
Không gian nơi Bác ở cũng nhuốm màu tang thương li biệt:
Chuông ôi, chuông nhỏ còn reo nữa?
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!
Hoa lá cỏ cây vắng hơi Người cũng ngơ ngơ ngác ngác:
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!
Tác giả sử dụng bút pháp quen thuộc với thơ ca truyền thống, gởi tâm trạng vào cảnh vật, từ ngoại cảnh mà thấy bức tranh tâm trạng, tâm hồn – sự trống vắng hụt hẫng, nỗi thương lớn lao khi mất Bác. Ngôn ngữ đối thoại nội tâm làm cho chân dung nhân vật trữ tình hiện lên chân thực, tự nhiên. Dòng thơ tuôn chảy một cảm xúc dạt dào. Cảm xúc đau buồn tạm nguôi ngoai, nhà thơ nhắc đến chân dung lãnh tụ, những tâm sự vui buồn của Người khi còn sống:
Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu.
…Bác vui như ánh buổi bình minh
Vui nỗi mầm non trái chín cành (…)
Từ đó mà ý thơ chiêm nghiệm tổng quát:
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông trọn kiếp người.
…Nâng niu tất cả chỉ quên mình.
Ở lãnh tụ có bao phẩm chất cao đẹp nhưng tình thương và đức hi sinh của Người đã làm nên sự vĩ đại và bất tử. Tình nhân ái của Người vừa cụ thể thiết thực: sữa để em thơ, lụa tặng già vừa bao quát cả nhân loại còn khổ đau: nỗi năm châu – sự chia rẽ của phong trào cộng sản thế giới lúc bấy giờ.
Biện pháp so sánh tấm lòng của Bác như lòng mẹ làm cho hình tượng lãnh tụ vừa gần gũi vừa cao cả trong tình thương. Những dòng thơ vừa có cảm xúc dạt dào vừa cô đọng, khái quát về lí tưởng sống của Người. Phong cách lối sống của Người khiến ai cũng phải ngưỡng mộ: Bác sống như trời đất của ta.
Khi đã thấu hiểu lòng người và lẽ trời thì con người sẽ có cách ứng xử phù hợp với tự nhiên nên hòa hợp với thiên nhiên. Con người ấy đã hòa nhập với tự nhiên vì đạt được những cái tự nhiên, nghĩa là đạt đến cái huyền diệu cao sâu của sự sống.
Và khi ấy con người sẽ nhận được sự nâng đỡ của tự nhiên để trường tồn cùng trời đất: Đó là ngọn nguồn sâu xa trong tinh thần lạc quan yêu đời của Bác, sinh thời Bác rất yêu thiên nhiên cây cỏ, chim muông và thích được sống giữa thiên nhiên. Cách ứng xử ấy biểu hiện bên ngoài của sự hòa đồng với trời đất.
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi giữa lối mòn.
Nghĩ đến dân, đến nước mà không hề nghĩ đến mình là sự hi sinh và đức độ còn sống giản dị là hòa nhập với tự nhiên và là phong cách, phẩm chất trong sáng. Suốt cuộc đời người tận tụy hi sinh vì nước đến mức quên mình , còn bản thân Người sống đạm bạc, thanh sạch, cao khiết và rất mực giản dị.
Tấm gương đạo đức và nhân cách ấy làm cho Người trở nên vĩ đại giữa đời thường và bất tử trong lòng dân tộc, trở thành biểu tượng về con người Việt Nam đẹp nhất mọi thời đại. Những câu thơ giàu cảm xúc của Tố Hữu đã đạt đến sự cô đọng hàm súc và sức khái quát về nhân cách và lối sống Hồ Chí Minh. Ba khổ thơ cuối bài, cho dù tấm lòng có tiếc nhớ nhung nỗi buồn đã khuây khỏa nên tâm hồn bừng sáng lên niềm tin khi nghĩ về tương lai:
Bác đã lên đường theo tổ tiên
Mác-Lê nin thế giới Người Hiền
Ánh hào quang đỏ thêm sông núi
Dắt chúng con cùng nhau tiến lên!
Nguyện theo con đường, lí tưởng mà Bác đã chọn, tiếp tục cuộc hành trình nên nhà thơ thấy vững vàng, cứng rắn hơn khi nghĩ rằng Bác luôn bên cạnh:
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.
Âm hưởng đoạn thơ cuối điềm tĩnh, sâu lắng. Tình thương dạt dào đã lắng lại nên trí tuệ lắng kết một chân lí. Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn. Trước kia, trong bài thơ Sáng tháng Năm, Tố Hữu cũng đã thấy: “Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta / Ta bỗng lớn ở bên Người một chút”.
Đây là vẻ đẹp, sức cuốn hút kì diệu của lãnh tụ và ánh sáng tinh hoa của một nhân cách lớn có sức mạnh chinh phục, có tác dụng thanh lọc tâm hồn, nâng cao sức mạnh cho người đối diện. Sau này nhà thơ Việt Phương cũng viết:
Nguồn ánh sáng đến muôn đời chẳng tắt,
Vượt cao hơn sự chết, vẫn soi đường.
(Muôn vàn tình thân yêu bao trùm lên khắp quê hương)
Cuối bài thơ là niềm tin vào sự trường tồn của lãnh tụ trong sự nghiệp cách mạng, trong sự trường tồn của dân tộc. Bài thơ là tiếng khóc cao cả làm bất tử một con người cao cả.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 Ôn thi THPT Quốc gia khác:
Sách VietJack thi THPT quốc gia 2025 cho học sinh 2k7:
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều