Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài thơ Đất Nước (học sinh giỏi)



Đề bài: Tư tưởng "Đất Nước của Nhân Dân" đã được thể hiện như thế nào trong chương "Đất Nước" (trích trường ca "Mặt đường khát vọng") của Nguyễn Khoa Điềm?

Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài thơ Đất Nước (học sinh giỏi)

Bài giảng: Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài thơ Đất Nước - mẫu 1

    "Đất ngoại ô" (1972), "Mặt đường khát vọng" (1974) của Nguyễn Khoa Điềm cho thấy một hồn thơ giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện những tâm tư của người thanh niên trí thức trước những vấn đề trọng đại của dân tộc ta thời chống Mĩ.

Quảng cáo

    Đoạn thơ "Đất Nước" là chương V của trường ca "Mặt đường khát vọng". Trước Nguyễn Khoa Điềm, đề tài quê hương đất nước đã được nói rất hay, rất đằm thắm trong những bài thơ nổi tiếng như "Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm), "Đất nước" (Nguyễn Đình Thi), "Quê hương"(Giang Nam),... "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca - sự nhận thức về nguồn gốc sâu xa của Đất Nước, vế trí tuệ, tâm hồn và ý chí của Nhân Dân đã tạo dựng nên một "Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại" - Có thể nói tư tưởng "Đất Nước của Nhân Dân" đã được thể hiện một cách sâu sắc và độc đáo trong đoạn thơ "Đất Nước" này.

    Đoạn thơ dài 110 câu thơ tự do, đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian. Ta có cảm nhận: tục ngữ ca dao, dân ca, truyền thuyết, cổ tích,... đã hóa thân trong những vần thơ "Đất Nước". Từ con người đến cảnh vật, từ các chi tiết lấy từ nhịp sống cần lao, dân dã như "gừng cay, muối mặn", như "cái kèo cột thành tên", "miếng trầu", "hạt gạo",... đến chuyện "yêu nhau và sinh con đẻ cái", chuyện "chèo đò, kéo thuyền vượt thác"... bình dị thế thôi nhưng mở ra một không gian nghệ thuật vô cùng thân thuộc, làm dộị lên trong lòng ta niềm tự hào về một Đất Nước "Vốn xưng nền văn hiến đã lâu" (Nguyễn Trãi). Chất liệu văn hóa dân gian ấy đã được nhà thơ sử dụng như một thủ pháp nghê thuật tạo nên tính độc đáo và vẻ đẹp thẩm mĩ, đồng thời qua hệ thống hình tượng và cảm hứng trữ tình diễn tả một cách hào hứng và phóng khoáng tư tưởng chủ đạo "Đất Nước của Nhân Dân" đem đến cho người đọc bao tự hào xúc động.

Quảng cáo

    Nếu như bài thơ "Đất nước" của Nguyên Đình Thi là một giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng, "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm là một giọng thơ bồi hồi, sâu lắng,.., thì trong đoạn thơ này, Nguyễn Khoa Điểm đã thể hiện những xúc cảm suy tưởng về Đất Nước dưới dạng một lối trò chuyện tâm tình.

    Phần đầu khúc ca, tác giả nói về lịch sử đất nước – một đất nước hình thành từ "những ngày xửa ngày xưa" ... qua bốn nghìn năm "đằng đẵng". Không kể lại những sự lịch sử oai hùng, những chiến công oanh liệt, những anh hùng lừng danh mà "anh và em đều nhớ" Nguyễn Khoa Điềm đã triển khai cảm hứng về Đất Nước bàng những cái bình dị, bình thường rất gần gũi và thân thương với mọi gia đình Việt Nam. Có tiếng nói của mẹ, miếng trầu của bà, có sự tích "Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc"...Có thuần phong mĩ tục, có tình nghĩa mẹ cha, có mồ hôi làm ra bông lúa hạt gạo, có ngôn ngữ nhân dân, lời ăn tiếng nói do nhân dân sáng tạo ra đặt tên cho những vật quanh mình...

        ... " Đất Nước bắt đầu với miếng trầu hây giờ bà ăn,

    Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc

    Tóc mẹ thì bới sau đầu

    Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

    Cái kèo, cái cột thành tên,

    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

    Đất Nước có từ ngày đó...".

    Đoạn thơ trên gợi nhớ đến truyển thuyết "Thánh Gióng", truyện cổ tích "Trầu Cau", phong tục búi tóc của người Âu Lạc, gợi nhớ đến những bài dân ca về tình vợ chồng, về công việc nhà nông. Thơ tuy chỉ gợi, chỉ vẽ ra một vài nét thoáng nhẹ, mơ hồ, xa xôi nhưng đậm đà ý vị.

    Đất Nước bình dị và đáng yêu, cu thể và gần gũi với "em" và "anh" với mỗi chàng trai, cô gái. "Đất là nơi anh đến trường – Nước là em tắm"; là cây đa giếng nước, sân đình, là bến đò "nơi ta hò hẹn", là nơi "em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"; là khúc dân ca vời vợi đã thấm vào máu, vào hồn của mỗi con người Việt Nam từ thuở còn nằm trong nôi:

    "Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc",

    Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"...

    Đất Nước thiêng liêng và tự hào biết mấy. Cha Rồng mẹ Tiên đã sáng tạo ra Đất Nước này. Lời thơ thầm thì nói vể tình non nước sâu nặng. Nó dẫn hồn ta trở về cội nguồn qua huyền thoại diệu kì:

        "... Đất là nơi Chim về,

    Nước là nơi Rồng ở

    Lạc Long Quân và Âu Cơ

    Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng"...

    Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" được nói đến một cách cực kì sâu đậm khi nhà thơ ngợi ca giọt mồ hôi và xương máu của nhân dân. Đất Nước trường tồn qua "thời gian dài đằng đẵng" và trải rộng trên một "không gian mênh mông". Chính Nhân dân đã đổ mồ hôi và xương máu để xây dựng và bảo vệ Đất Nước. Một dân tộc cần cù và dũng cảm. Lớp lớp người biết làm ăn giỏi và sống trong tư thế hiên ngang. Câu chuyện lứa đôi không nói về tình yêu mà lại nói về nghĩa tình non nước:

        "... Em ơi em

    Hãy nhìn rất xa

    Vào bốn nghìn năm Đất Nước

    Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

    Con gái,con trai bằng tuổi chúng ta

    Cần cù làm lụng

    Khi có giặc người con trai ra trận

    Người con gái trở về nuôi cái con

    Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

    Nhiều người đã trở thành anh hùng...".

    Suốt hàng ngàn năm lịch sử, chính Nhân dân là những người sáng tạo nên Đất Nước này: "Không ai nhớ mà đặt tên - Nhưng họ đã làm ra Đất Nước". Hạt lúa do bàn tay dân ta trồng; lấy hòn than, con cúi để giữ lửa; truyền cho con cháu tiếng nói ông cha; đắp đập be bờ"... và để làm ra cây trái. Họ "đã làm" và "đã giữ" , "họ truyền", "họ đắp đập be bờ"...và "bốn nghìn lớp người" đã làm nên tất cả:

        "... Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng,

    Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

    Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

    Họ gánh theo tên xã, tên làng chuyến di dân.

    Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái...".

    Ngôn ngữ thơ (giữ và truyền, gánh, đắp đập be bờ) được nhấn đi nhấn lại để tô đậm truyền thống cần cù lao động của Nhân dân - chủ nhân của Đất Nước.

    "Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta" (Hồ Chí Minh). "Nước chúng ta - Nước những người chưa bao giờ khuất" (Nguyễn Đình Thi); "Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa" (Huy Cận); "Tuốt gươm không chịu sống quỳ" (Tố Hữu). Nguyên Khoa Điềm cũng có một lối nói độc đáo tư tưởng ấy:

    "Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

    Có nội thù thì vùng lên đánh bại".

    Tư tưởng "Đất Nước và Nhân dân" là sự ngợi ca mồ hồi và xương máu của nhân dân. "Không có mồ hôi và máu thì các dân tộc không thể có lịch sử" (Ăngghen). Chính vì thế mà nhà thơ trẻ đã viết:

    "Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

    Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại".

Quảng cáo

    Hai câu thơ mà bốn lần nhắc lại từ "Đất Nước" hai lần láy lại từ "Nhân dân", biểu lộ biết bao tình thương mến!

    Đất nước ta vô cùng tráng lệ với núi cao, sông dài, biển rộng, với những cánh đồng thẳng cánh cò bay. Những tên núi, tên sông đã soi bóng vào thơ ca dân tộc. "Bạch Đằng giang phú"của Trương Hán Siêu, "Dục Thúy Sơn", "Côn Sơn ca", của Ức Trai, "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan, "Đêm trang trên sông Trà" của Cao Bá Quát, v.v... Giang sơn gấm vóc biết mấy tự hào! "Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!" (Tố Hữu). Nguyễn Khoa Điềm cũng nói về núi, về sông của Đất Nước, nhưng anh không nói về "địa linh nhân kiệt", "quan hà hiểm trở", "một cảnh chiều tà"... mà có một lối nói riêng. Mỗi một địa danh, mỗi một thắng cảnh như một nét khắc, nét tạc vào cõi đất trời vẻ đẹp tâm hồn với những đức tính quý báu của nhân dân ta như tình yêu chung thủy của lứa đồi, sức mạnh quật khởi, ý chí tự lập tự cường, đức tính hiếu học, bàn tay cán cù, khéo léo, tấm lòng hồn hậu, bao dung...:

    ... "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu,

    Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

    "Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

    Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

    Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

    Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên".

   Có những tên đất, tên làng vời vợi nghìn trùng gợi lên trong lòng người đọc hôm nay nhớ về ông cha đã từng "mang gươm đi mở cõi", lấn biển, khai hoang, đoạn kình, bộ hổ, bắt sấu, đào kênh. Đoạn thơ như một đài tưởng niệm về cống đức của Nhân dân - những anh hùng vô danh đã góp máu và mồ hôi làm nên Đất Nước:

    "Những người dân nào đỡ góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm".

    Cảnh núi sông như hội tụ lấp lánh qua những vần thơ đẹp cho ta nhiều rung cảm. Tiếp đó, nhà thơ đi tới một nhận thức khái quát: hồn sông núi cũng là điệu tâm hồn của Nhân dân:

    "Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

    Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha.

    Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta".

    Cấu trúc câu thơ biến hóa như một phức điêu đa thanh và đa âm, làm cho cảm xúc thơ dồn nén, giọng thơ thiết tha bồi hồi.

    "Đất Nước của Nhân dân" không chỉ trường tồn trên chiều "đằng đẵng" của lịch sử, trải ra trên chiều rộng "mênh mông" của không gian địa lí, mà còn ở tầm sâu của tâm hồn, ở tầm cao của ý chí giống nòi. Một dân tộc yêu ca hát, cuộc đời hòa quyện trong ca dao dân ca. Một nhân dân nghĩa tình trong nếp sống "Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội"; biết sống thủy chung sắt son trong tình yêu, "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn", biết trung hiếu vẹn toàn:

    "Hằng năm ăn đâu làm đâu

    Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ".

    "Mồng mười tháng ba" ngày giỗ Tổ Hùng Vương, cháu con tự bốn phương trời tụ hội về Phong Châu, một nén hương trầm tỏa khói, một cử chỉ "cúi đầu" thành kính, biết ơn tiên tổ. Trở về cội nguồn là một nét rất đẹp của tâm hồn Việt Nam.

    Trên mọi chặng đường lịch sử hàng ngàn năm, nhân dân ta "người người lớp lớp" ngẩng cao đầu đi tới, dũng cảm và hiên ngang, kiên cường và bất khuất để bảo vệ Đất Nước, giữ vững cơ đồ Việt Nam:

    "Biết trồng tre đợi ngày thành gậy,

    Đi trả thù mà không sự dài lâu".

    Kết thúc đoạn thơ là tiếng hát ngân vang trên những dòng sông quê hương. Những con sông "trăm màu", và "trăm dáng" cuồn cuộn xuôi dòng... là hình ảnh của Đất Nước thân yêu. Tiếng hát của những người "chèo đò, kéo thuyền vượt thác" là nhịp sống lao động, lạc quan và yêu đời của nhân dân ta trên con đường đi tới ngày mai...

    Giọng thơ ngọt ngào âm vang đem đến cho chúng ta niềm tin yêu tự hào về sự trường tồn của Đất Nước muôn quý nghìn yêu:

    "Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

    Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

    Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

    Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi".

    Bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm còn là "lời tự hát". Anh hát về tình yêu đôi ta, hát về Nhân dân, về non sông Đất Nước. Anh hát về quá khứ "thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông". Anh hát về một ngày mai với nhiều "mơ mộng". Chính Nhân dân - người làm ra Đất Nước đã cho anh niềm tin thiêng liêng ấy:

    "Mai này con ta lớn lên

    Con sẽ mang Đất Nước đì xa,

    Đến những tháng ngày mơ mộng".

Quảng cáo

    Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" qua đoạn thơ này đã chi phối cách nhìn, cách cảm và cách nghĩ của nhà thơ trẻ Nguyễn Khoa Điềm trong những năm chiến tranh chống Mĩ vô cùng ác liệt. Tư tưởng này đã được diễn tả bằng một hồn thơ đậm đà màu sắc dân gian, nó đã làm phong phú thêm cho ý niệm về Đất Nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại.

    Cảnh sắc núi sông gắn liền với tâm hồn dân tộc, khí phách của giống nòi. Cái bình dị tồn tại quanh ta hòa quyện với cái cao cả thiêng liêng cho thấy vẻ đẹp vĩnh hằng của Đất Nước của nền văn hóa Việt Nam và sự trường tồn của dân tộc.

    Bài thơ tuy có chỗ còn dàn trải, nhưng ý tuởng đẹp, cảm hứng và ngôn ngừ thơ độc đáo. Nó đã khơi dậy tình yêu nước, niềm tự hào dân tộc, trách nhiệm và khát vọng công dân đối với Đất Nước trong mỗi chúng ta:

    "Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

    Phải biết gắn bó và san sẻ

    Phải biết háa thân cho dáng hình xứ sở

    Làm nên Đất Nước muôn đời".

Dàn ý Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài thơ Đất Nước

I. Mở bài:

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, với tác phẩm nổi tiếng "Đất nước", đã để lại dấu ấn sâu sắc trong văn học Việt Nam. Bằng sự tài hoa và tình yêu sâu sắc đối với đất nước, ông đã khắc họa một bức tranh tư tưởng đa chiều về sự quan tâm, tự hào và đoàn kết của nhân dân đối với Đất Nước.

II. Thân bài:

1. Nguồn gốc của Đất Nước

Nguyễn Khoa Điềm khẳng định một điều tất yếu trong tác phẩm "Đất nước": "Khi ta lớn lên, đất nước đã có rồi". Điều này thúc đẩy mỗi con người khao khát tìm hiểu nguồn cội của đất nước. Đất nước không chỉ là một khái niệm trừu tượng, mà nó bắt nguồn từ những điều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt Nam từ xa xưa. Tác giả kể lại những khía cạnh như:

- "Ngày xửa ngày xưa": lời mở đầu của các truyện cổ tích.

- "Miếng trầu": gợi nhớ đến tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau.

- "Tóc mẹ thì bới sau đầu": thể hiện thói quen búi tóc của phụ nữ Việt Nam.

- "Thương nhau bằng gừng cay muối mặn": truyền thống trọng tình nghĩa của dân tộc.

- Đất nước trưởng thành qua quá trình lao động sản xuất: "cái kèo cái cột thành tên", "một nắng hai sương".

Đất nước tồn tại từ xa xưa, và đó là thời gian vô hạn mà tác giả gọi là "Đất Nước có từ ngày đó", khẳng định sự tồn tại lâu đời của Đất Nước.

2.  Đất Nước là gì?

Nguyễn Khoa Điềm tách riêng hai yếu tố "đất" và "nước" để suy tư về Đất Nước một cách sâu sắc. Đất Nước không chỉ là một khái niệm trừu tượng, mà nó là không gian riêng tư, quen thuộc liên quan đến cuộc sống hàng ngày của mỗi con người. Đó là "nơi anh đến trường", "nơi em tắm", và cũng là nơi chứa đựng những kỷ niệm tình yêu lứa đôi: "nơi em đánh rơi... thương thầm".

Đất Nước không chỉ đơn thuần là không gian cá nhân, mà còn là không gian bao la, trù phú, là nơi sinh tồn của cả cộng đồng qua bao thế hệ. Đất Nước mang trong mình những giá trị văn hóa, truyền thống, và tình cảm đoàn kết của dân tộc. Mỗi con chim phượng hoàng đến Đất Nước, đều là sự đoàn tụ của dân mình.

Nhìn vào quá khứ, Đất Nước là một nơi thiêng liêng, gắn liền với truyền thuyết, huyền thoại từ xa xưa. "Đất là nơi chim về... trong bọc trứng". Đối với hiện tại, Đất Nước không chỉ tồn tại trong địa lý mà còn trong tấm lòng mỗi con người. Mỗi người đều thừa hưởng những giá trị của Đất Nước, và khi có sự gắn kết giữa mỗi cá nhân và đất nước, sẽ tạo nên một sự hài hòa, một tình yêu lớn lao đối với quê hương. Đó là sự gắn kết giữa cái riêng và cái chung. Và trong tương lai, thế hệ trẻ sẽ "mang đất nước đi xa", "đến những ngày mơ mộng", đất nước sẽ trường tồn và bền vững.

3. Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân

Tư tưởng Đất Nước của nhân dân được thể hiện thông qua các chiều rộng, chiều dài và chiều sâu của nó. Chiều rộng địa lí cho thấy Đất Nước không chỉ là kết quả của tạo hóa, mà còn hình thành từ phẩm chất và số phận của mỗi người. Đất Nước là một phần trong máu thịt và tâm hồn của con người. Đó là nhờ vào tình nghĩa yêu thương, thủy chung mà "hòn Vọng Phu" và "hòn Trống Mái" xuất hiện.

III. Kết bài

Tư tưởng đất nước của nhân dân, như được tô điểm bằng những giọng điệu trữ tình và hình ảnh gần gũi, chắc chắn phản ánh sự đoàn kết và tự hào của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm "Đất nước" không chỉ là một sáng tác văn học nổi bật mà còn là một bức tranh tư tưởng sâu sắc về tình yêu đất nước và lòng tự hào về con người Việt Nam.

Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài thơ Đất Nước - mẫu 2

Dưới đây là nội dung về bài Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài thơ Đất nước mà công ty Luật Minh Khuê muốn gửi tới quý khách hàng:

Nguyễn Khoa Điềm, một nhà thơ sinh ra trong một gia đình trí thức, đã thể hiện truyền thống yêu nước và cách mạng. Từ kiến thức văn hóa sâu rộng được thừa hưởng từ gia đình và nền tảng tri thức cá nhân, thơ ông trở thành một tác phẩm tổng hòa của cảm xúc mãnh liệt và suy tư sâu sắc về đất nước và con người. Ông viết: "Với các nhà thơ khác, đất nước là mảnh đất của những huyền thoại anh hùng, còn với tôi, đất nước là của những cá nhân vô danh, của nhân dân". Được lấy cảm hứng từ chiến trường Bình Trị Thiên cháy bỏng, bài thơ "Con đường khát nước" của ông là một khúc ca nhiệt huyết và sôi nổi, mà trái tim tuổi trẻ đã thể hiện. Đoạn trích "Đất nước" được xây dựng bằng cách sử dụng mệnh đề và sử dụng chất liệu văn hóa dân gian quen thuộc. Điều này tạo ra một hiệu ứng thẩm mỹ đặc biệt cho bài thơ, đồng thời mô tả một cách sống động tư tưởng về "Đất nước của nhân dân". Trong thế giới văn học Việt Nam, tác phẩm "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm nổi bật như một viên ngọc quý. Tác giả này không chỉ là một nhà thơ tài ba mà còn là một tri thức yêu nước và có lòng đam mê cách mạng. Tác phẩm "Đất nước" được viết bằng những dòng thơ nồng nàn, đậm chất dân tộc, mang đến cho độc giả những trải nghiệm tinh thần sâu sắc về tình yêu và tư tưởng đất nước.

Nguyễn Khoa Điềm, trong thành công đầu tiên của mình trong việc thể hiện tư tưởng "Đất nước của nhân dân", đã khéo léo chọn lựa chất liệu văn hóa dân gian phù hợp. Mặc dù biết rằng chất liệu chỉ là một hình thức nghệ thuật trong một bài thơ, trong khi trái tim mới là nghệ sĩ thực sự, nhưng việc thể hiện giọng nói của trái tim là vô cùng quan trọng. Văn hóa dân gian trong bài thơ của ông bao gồm câu tục ngữ, ca dao, điệu dân ca, câu hò sông nước, câu chuyện cổ tích và phong tục tập quán. Ông đã gói gọn những yếu tố này trong câu thơ: "Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại". Nguyễn Khoa Điềm đã bắt đầu tìm kiếm đất nước trong những câu chuyện cổ tích xưa kia. Vì vậy, nhà thơ mở đầu khúc ca đất nước bằng những câu thơ như sau:

"Khi ta lớn lên, Đất Nước đã có từ lâu rồi,

Đất Nước tồn tại trong những câu chuyện "ngày xửa ngày xưa..." mà mẹ thường kể.

Đất Nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn ngày nay,

Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre để đánh giặc.

Tóc mẹ bời sau đầu,

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

Cái kèo, cái cột thành tên,

Hạt gạo cần một nắng, hai sương để xay, giã, giần và sàng.

Đất Nước đã tồn tại từ ngày ấy..."

Trong quá trình trở về ngày xưa ấy, nhà thơ đã phát hiện ra hai nguyên tố gốc, làm nên đất nước đó, đó là "đất" và "nước". Trong quá trình hình thành và phát triển của đất nước, "đất" và "nước" là hai tế bào đầu tiên. Nguyễn Khoa Điềm đã biến đổi, nhân đôi và làm cho chúng nảy nở, để tạo ra một cơ thể đất nước hoàn chỉnh. Tất cả đều toát lên vẻ đẹp nền văn minh lúa nước lâu đời. Điều đáng ngợi của Nguyễn Khoa Điềm là ông không đơn thuần chuyển những câu tục ngữ, ngữ ca dao thành những câu thơ của mình, mà dường như những chất liệu văn hóa dân gian này đã thấm sâu vào tâm hồn ông từ thuở bé, từ những câu hát điệu ru mà bà của mẹ thường ngâm. Bây giờ, khi viết về đất nước, ông đã lọc và xử lý chúng qua lăng kính tâm hồn của mình. Kết quả là mỗi câu thơ dưới bút Nguyễn Khoa Điềm mang hơi thở của dân ca, hò sông nước và câu chuyện cổ tích.

"Đất là nơi anh đến trường,

Nước là nơi em tắm."

Câu thơ cuối cùng trong đoạn trích trên cũng là một ví dụ minh họa rõ nét cho việc Nguyễn Khoa Điềm sử dụng chất liệu văn hóa dân gian để thể hiện tình yêu đối với đất nước. Trong câu thơ này, ông biểu đạt sự gắn kết giữa con người và đất nước thông qua hình ảnh đơn giản nhưng đầy tượng trưng. Đất nước không chỉ là một khái niệm trừu tượng, mà là nơi mà mỗi người dân có sự hiện diện và đóng góp của mình. Điềm bày tỏ rằng đất nước không chỉ là mảnh đất với những câu chuyện anh hùng hào hùng, mà còn là của những con người vô danh, của nhân dân. Từng bước, Nguyễn Khoa Điềm đã xây dựng một bức tranh đa sắc về đất nước, con người và tình yêu dành cho tổ quốc. Bằng cách sử dụng chất liệu văn hóa dân gian, ông đã tạo nên một khung cảnh văn hóa phong phú, sống động, và đồng thời truyền tải được tình cảm sâu sắc của mình đối với quê hương. Các câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm trở thành một lời ca ngợi tình yêu và niềm tự hào với đất nước, thể hiện sự gắn bó.

Những câu thơ của ông trở thành một tiếng gọi thấm đẫm tình yêu và sự tự hào với đất nước, mang đến sự gắn bó mật thiết giữa con người và quê hương. Tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm mở rộng tầm nhìn của mình, đi sâu vào quá khứ và truyền thống lịch sử của dân tộc. Ông nhìn vào cái "ngày xửa ngày xưa" để tìm kiếm bí mật của đất nước. Ông nhận ra rằng đất nước không chỉ bắt đầu từ một thời điểm cụ thể, mà nó đã tồn tại và phát triển từ thuở rất xa xưa. Trong hành trình tìm kiếm này, Nguyễn Khoa Điềm phát hiện ra hai yếu tố cơ bản, làm nên bản chất của đất nước, đó là "đất" và "nước". Như một nhà thơ tài ba, ông biến đổi, nhân đôi và khám phá sự sống của chúng, biến chúng thành những yếu tố quan trọng trong xây dựng nên cơ thể đất nước. Hơn nữa, ông thấu hiểu rằng đất nước không chỉ đơn thuần là một địa lý vật chất, mà nó còn được tạo nên bởi những giá trị tinh thần, những tác động văn hóa và truyền thống của dân tộc.

Nguyễn Khoa Điềm, một người chiến sĩ và nhà thơ, đã để lại dấu ấn trên mọi nẻo đường của Tổ quốc yêu dấu. Bất kể ông đi đến đâu, nhìn vào lĩnh vực nào, khía cạnh nào, ông luôn chia sẻ niềm tin rằng tất cả mọi thành tựu đều là đóng góp của nhân dân. Với một tiền đề vững chắc, tác giả triển khai ý tưởng về quá trình lịch sử dựng nước và bảo vệ nước trong suốt bốn ngàn năm:

"Em ơi em ...

Người con gái trở về nuôi cái cùng con"

Trong suốt bốn ngàn năm đó, người Việt Nam luôn truyền dịp lửa yêu nước từ thế hệ này sang thế hệ khác. Từng lớp người Việt Nam đã ra trận, viết nên trang sử vẻ vang của dân tộc. Trang sử ấy được khắc dưới dòng máu, mồ hôi, nước mắt, và cuộc sống của vô số con người. Engels đã từng nhận định: "Không có máu và nước mắt của nhân dân, dân tộc không thể có lịch sử". Bài thơ "Đất Nước" được đặt trong ngữ cảnh hiện tại, khi văn học Việt Nam đang hòa nhập với văn học thế giới. Đối với những người yêu nước Việt Nam, bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt là điều cần thiết. Và bài thơ "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa khẳng định những thành công đã có, trở thành một hành trang tinh thần quan trọng của mỗi người chúng ta. Tuy biết rằng trường ca là một thể thơ dài, khó thuộc và nguy hiểm bị sa vào lối liệt kê và kể lể, nhưng trong đoạn trích "Đất Nước" và cả bài thơ "Mặt đường khát vọng," Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến những điều đặc biệt cho bài thơ "Đất Nước" với tư tưởng đất nước của nhân dân. "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm xứng đáng trở thành những vần thơ của năm tháng không thể nào quên. Bài thơ này không chỉ là một sáng tác văn học, mà còn là một tấm gương tinh thần, truyền cảm hứng và nâng niu những giá trị văn hóa dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra một cái nhìn sâu sắc về vai trò của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Ông nhấn mạnh rằng đất nước không chỉ là một khái niệm trừu tượng, mà nó được hình thành từ những người lao động chèo đò, lái thuyền, vượt thác với tình yêu và sự hy sinh. Những giai điệu êm ái, lời hát đậm chất dân gian trong đất nước ta đã tạo ra những bài ca lao động sáng tạo và ý nghĩa, làm cho dòng sông của đất nước thêm phong phú và sống động.

Trong bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm cũng tôn vinh khả năng sáng tạo và tinh tế của ngôn từ, nhịp điệu và hình ảnh. Ông đã sử dụng các phép điệp một cách hiệu quả, tạo ra giá trị thẩm mỹ cho đoạn thơ và giúp người đọc hiểu rõ hơn về sự đóng góp và vai trò quan trọng của nhân dân trong việc bảo tồn và phát triển truyền thống văn hóa dân tộc. Bài thơ "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là một tác phẩm văn chương đơn thuần, mà nó còn là một tình khúc ca ngợi sự đoàn kết, sự tự hào và lòng yêu nước của người dân Việt Nam. Qua những câu thơ tinh tế, ông đã khắc họa hình ảnh một đất nước giàu truyền thống, văn hóa và tình yêu thương. Bài thơ này gợi lên trong chúng ta những cảm xúc cao cả về quê hương và tổ quốc, khuyến khích chúng ta giữ gìn và phát triển những giá trị văn hóa dân tộc để mang lại sự giàu có và phồn thịnh cho đất nước.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 Ôn thi THPT Quốc gia khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 12

Bộ giáo án, đề thi, bài giảng powerpoint, khóa học dành cho các thầy cô và học sinh lớp 12, đẩy đủ các bộ sách cánh diều, kết nối tri thức, chân trời sáng tạo tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official


dat-nuoc.jsp


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên