(Siêu ngắn) Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm tự sự hoặc tác phẩm kịch - Chân trời sáng tạo

Bài viết soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm tự sự hoặc tác phẩm kịch trang 81, 82, 83, 84, 85, 86 siêu ngắn gọn sách Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo giúp học sinh lớp 10 dễ dàng soạn văn 10.

(Siêu ngắn) Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm tự sự hoặc tác phẩm kịch - Chân trời sáng tạo

Quảng cáo

* Tri thức về kiểu bài:

Kiểu bài:

Phân tích, đánh giá một tác phẩm tự sự hoặc tác phẩm kịch là kiểu bài nghị luận văn học sử dụng lí lẽ và bằng chứng để làm rõ giá trị nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm tự sự (sử thi, truyện kể, truyện ngắn, tiểu thuyết, kí,...) hoặc tác phẩm kịch (chèo, tuồng, hài kịch, bi kịch,...).

* Yêu cầu đối với kiểu bài:

Ngoài những yêu cầu về nội dung nghị luận và kĩ năng nghị luận như đã trình bày, khi thực hiện bài nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm tự sự/ kịch, bạn cần phân tích, nhận xét về chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật theo đặc trưng thể loại.

• Với các tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết hay sử thi thì cần tập trung vào cách xây dựng tình huống truyện, miêu tả nhân vật, sử dụng ngôi kể, điểm nhìn, lời của người kể chuyện, đối thoại, độc thoại của nhân vật,...

Quảng cáo

• Với các tác phẩm truyện kí, hồi kí, du kí, nhật kí, phóng sự,... thì cần tập trung vào các yếu tố tạo nên tính xác thực của sự kiện, chi tiết,... góc nhìn, thái độ, quan điểm, cảm xúc và ngôn từ của tác giả.

• Với các tác phẩm kịch (chèo, tuồng; bi kịch, hài kịch, chính kịch) thì cần tập trung vào các yếu tố như mâu thuẫn, xung đột, nhân vật, hành động, lời thoại,...

• Bố cục bài viết gồm các phần:

Mở bài: giới thiệu tác phẩm tự sự/ tác phẩm kịch (tên tác phẩm, thể loại, tác giả,...); nêu nội dung khái quát cần phân tích, đánh giá.

Thân bài: lần lượt trình bày các luận điểm phân tích, đánh giá tác phẩm theo một trình tự nhất định (chủ đề trước, nghệ thuật sau; nghệ thuật trước, chủ đề sau hoặc kết hợp cả hai).

Kết bài: khẳng định lại một cách khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm; nêu tác động của tác phẩm đối với bản thân hoặc cảm nghĩ sau khi đọc, thưởng thức tác phẩm.

Quảng cáo

*Đọc ngữ liệu tham khảo

Văn bản: Thực tế và mộng tưởng trong Cô bé bán diêm

Câu 1 (trang 83 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Ngữ liệu trên đã là một bài viết hoàn chỉnh hay chưa? Những dấu hiệu nào giúp bạn xác định như vậy?

Trả lời:

- Ngữ liệu trên chưa phải là một bài viết hoàn chỉnh.

- Có thể căn cứ vào kí hiệu [...] để xác định ngữ liệu chỉ là đoạn trích.

Câu 2 (trang 83 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Luận điểm được tập trung phân tích, đánh giá trong ngữ liệu là gì?

Trả lời:

- Luận điểm được tập trung phân tích, đánh giá trong ngữ liệu là lối kể đan xen giữa thực tế và mộng tưởng trong Cô bé bán diêm có tác dụng rất lớn để đưa người đọc xâm nhập vào thế giới mộng tưởng của nhân vật.

Quảng cáo

Câu 3 (trang 83 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Chỉ ra sự kết hợp giữa lí lẽ và bằng chứng trong ngữ liệu.

Trả lời:

- Sự kết hợp giữa lí lẽ và bằng chứng trong ngữ liệu:

Lí lẽ

Bằng chứng

Thực tế càng tăng thêm phần nghiệt ngã với em bé thì nó càng thôi thúc em bé tìm đến với chốn bình yên là cõi mộng ảo.

Các lần quẹt diêm và hiệu quả mà nó mang lại.

Truyện có nhiều hơn năm lần quẹt diêm

Bởi bốn lần, mỗi lần em chỉ quẹt một que, riêng lần thứ năm em quẹt liên tục hết cả bao diêm.

Câu 4 (trang 83 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Người viết đã có những nhận xét gì về tác dụng của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm?

Trả lời:

- Người viết đã có những nhận xét về tác dụng của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm:

+ Lối kể xen kẽ có tác dụng rất lớn để đưa người đọc xâm nhập vào thế giới mộng tưởng của nhân vật.

+ Ánh sáng từ ngọn lửa que diêm đảm nhận hai chức năng: vừa sưởi ẩm (chức năng này không quan trọng vì ngọn lửa diêm thì quá nhỏ nhoi trước trời tuyết mênh mông), vừa thắp sáng lên thế giới mộng ảo, cái thế giới mang lại hạnh phúc cho em.

*Thực hành viết theo quy trình

Đề bài (trang 84 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2):

Đề 1: Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của một tác phẩm truyện.

Đề 2: Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của một màn kịch mà bạn đã học hoặc đã đọc.

Bước 1: Chuẩn bị viết

Xác định đề tài

Tham khảo các bài trước (Bài 1. Bài 6) để xác định đề tài cho phù hợp. Với hai đề bài nêu trên, phạm vi cho phép bạn lựa chọn rất rộng. Bạn có thể chọn một tác phẩm truyện hoặc một màn kịch nào đó để phân tích, đánh giá. Xem danh mục tác phẩm dưới đây.

Truyện: Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi), Giang (Bảo Ninh), Buổi học cuối cùng (An-phong-xơ Đô-đế), Hai vạn dặm dưới đáy biển (Giuyn Véc-no), Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (Nguyễn Ngọc Thuần),...

Kịch: Xã trưởng – Mẹ Đốp (trích Quan Âm Thị Kính, chèo cổ), Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lõm Thị Hến (trích Nghêu, Sò, Ốc, Hến, tuồng đồ); Lời nói dối cuối cùng Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ),...

Việc xác định mục đích viết, người nghe, thu thập tư liệu, bạn thực hiện như đã tiến hành ở các bài học trước.

Bước 2: Tìm ý, lập dàn ý

Tìm ý

Để xác định các nội dung chính của bài phân tích, bạn có thể đặt và trả lời các câu hỏi: Chủ đề của tác phẩm này là gì? Những tác phẩm nào có cùng chủ đề ? Chủ đề của tác phẩm cần phân tích, đánh giá đó có gì sâu sắc, mới mẻ? Chủ đề đó bao gồm các khía cạnh nào và được khơi sâu nhờ bút pháp thế nào?,... (Tìm ý cho việc phân tích, đánh giá chủ đề).

Hoặc các câu hỏi: Tác phẩm được sáng tác theo thể loại nào (truyện, kịch)? Thể loại ấy có những điểm gì đáng lưu ý trong cách xây dựng nhân vật, cốt truyện, điểm nhìn, lời kể, lời thoại,...)? Các yếu tố hình thức nghệ thuật của tác phẩm có gì đặc sắc và đã góp phần thể hiện chủ đề thế nào? (Tìm ý cho việc phân tích, đánh giá các nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật).

Lập dàn ý

Sắp xếp, trình bày các ý đã tìm thành một dàn ý (theo bố cục nêu trong Tri thức về kiểu bài). Riêng với dàn ý phần thân bài, bạn cần:

• Lần lượt chi tiết hoá các luận điểm.

• Thân bài cần trình bày ít nhất hai luận điểm, một luận điểm phân tích, đánh giá chủ đề và một luận điểm phân tích, đánh giá những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm (gắn với đặc trưng thể loại), hoặc trong mỗi luận điểm, kết hợp phân tích, đánh giá chủ đề với phân tích, đánh giá nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật và chỉ ra tác dụng của chúng trong việc thể hiện chủ đề.

Bước 3: Viết bài

Dựa vào dàn ý, bạn hãy viết thành một bài văn hoàn chỉnh. Khi viết cần:

• Thể hiện được các đặc điểm của kiểu bài Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm tự sự hoặc tác phẩm kịch nhằm đáp ứng yêu cầu cần đạt.

• Chú ý cách diễn đạt sáng rõ, khúc chiết, linh hoạt.

Bước 4: Xem lại và chỉnh sửa

Bạn hãy đọc lại bài viết và tự đánh giá theo bảng kiểm:

(Siêu ngắn) Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm tự sự hoặc tác phẩm kịch | Chân trời sáng tạo

Đề 1: Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của một tác phẩm truyện.

Bài viết tham khảo

Nhà văn nổi tiếng người Tiền Giang Đoàn Giỏi đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả nhiều thế hệ với tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam”. Tác phẩm này viết vào năm 1957, kể về cuộc hành trình đi tìm người cha của nhân vật An. Bằng ngòi bút tài hoa cùng những hiểu biết sâu sắc, Đoàn Giỏi đã vô cùng thành công khi dựng lên bức tranh thiên nhiên, con người phương Nam qua đoạn trích “Đất rừng phương Nam”.

Văn bản kể về việc An theo tía nuôi, Cò vào rừng tràm để lấy mật. Theo bước chân của ba nhân vật, từng khung cảnh lần lượt hiện ra. Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ khiến cậu bé An không khỏi ngạc nhiên, thích thú. Song song với việc quan sát, theo dõi thực tế, An còn nhớ tới lời má nuôi kể về việc “ăn ong”. Như vậy, thông qua cách kể chuyện từ nhiều điểm nhìn, tác giả đã miêu tả chân thực cảnh thiên nhiên, cuộc sống và con người Nam Bộ. Đây cũng chính là chủ đề bao trùm toàn bộ văn bản.

Trước hết, bức tranh thiên nhiên được khắc họa ngay ở phần mở đầu. Vào thời điểm sáng sớm, rừng U minh vẫn còn chìm trong cái yên tĩnh, bình lặng. Các sự vật có sự chuyển mình hết sức nhẹ nhàng “trời không gió, nhưng không khí vẫn mát lạnh”, “ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh”. Hòa mình vào bầu không khí mát mẻ, trong lành ấy, con người cảm thấy khoan khoái, nhẹ nhàng đến lạ thường. Đến giữa trưa, bức tranh núi rừng hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết. Giờ đây, nhân vật An không chỉ cảm nhận nhiên nhiên bằng thị giác, xúc giác mà còn bằng khứu giác và thính giác. Nhờ đó, không bị bỏ lỡ bất kì cảnh tượng đẹp đẽ nào của rừng tràm. Dưới bóng cây xanh, con người được lắng nghe âm thanh đàn chim hót rộn ràng, líu lo, được ngửi hương hoa tràm ngọt dịu hòa trong gió. Bức tranh thiên nhiên càng thêm trù phú, tươi đẹp nhờ sự xuất hiện của nhiều loài sinh vật như: kì nhông, chim áo già màu nâu, chinh manh manh mỏ đỏ,… Tất cả các sự vật đã góp phần điểm tô cho cảnh tượng nên thơ, kì vĩ nơi rừng tràm U Minh mênh mông, bát ngát.

Trong trích đoạn “Đất rừng phương Nam”, cuộc sống của người dân Nam Bộ được khắc họa hết sức giản đơn, gắn liền với hai công việc: làm kèo và lấy mật. Đây là những công việc đòi hỏi con người cần tận tâm, giàu kinh nghiệm, có hiểu biết. Muốn ong đến đóng tổ, người dân phải tinh mắt chọn vùng rừng tốt, biết gác kèo hợp lí. Muốn thu được những gùi đầy ắp mật, người dân cần chăm chỉ, cần mẫn đi xuyên rừng, khéo léo vắt từng cái tàn ong sáp trắng. Có thể thấy, chỉ với một vài chi tiết, nhà văn đã giúp người đọc có hình dung cụ thể về cuộc sống, công việc gắn liền với rừng tràm.

Cuối cùng, Đoàn Giỏi còn khéo léo dựng lên hình ảnh con người Nam Bộ phóng khoáng, thuần hậu, giàu tình cảm và yêu thiên nhiên sâu sắc. Những phẩm chất, tính cách này được thể hiện rõ ở cả ba nhân vật. Trước hết, ta thấy một cậu bé An luôn lễ phép, ham học hỏi, tiếp thu điều mới lạ. Mỗi khi trò chuyện, An không bao giờ tỏ ra hài hước, thân mật như Cò mà luôn giữ thái độ đúng mực. Cậu thưa chuyện với bậc trên bằng những lời nói chân thành, có đầu, có đuôi “Kèo là gì, hở má?”, “Một tổ nữa kìa, tía ơi!”. An rất thông minh, sáng dạ và ham học. Cậu khắc sâu trong đầu lời má nuôi kể về việc gác kèo nuôi ong rồi đem so sánh với kiến thức trong sách vở. Bên cạnh An, Cò cũng là một chàng trai hồn nhiên, tinh nghịch. Vì được sinh ra và lớn lên ngay tại mảnh đất phương Nam nên Cò vô cùng am hiểu về tự nhiên, rừng tràm. Trên đường đi lấy mật, cậu đã chỉ cho An nhiều điều thú vị, mới lạ. Sau cùng, nhân vật tía nuôi tuy xuất hiện ít ỏi nhưng lại in sâu trong tâm trí độc giả. Ông là người lao động dày dặn kinh nghiệm, giàu lòng nhân ái. Khi bé An đưa cỏ tranh và sậy khô lại, ông từ chối và nói “Đừng! Không nên giết ong, con à! Để tía đuổi nó cách khác…”. Câu nói trên đã cho thấy tấm lòng bao dung, thương yêu của một con người thật thà, chất phác.

Bên cạnh đặc sắc về nội dung, những nét độc đáo trong hình thức nghệ thuật cũng là yếu tố góp phần làm nên thành công cho tác phẩm. Bằng ngôn ngữ đậm màu sắc địa phương, hình ảnh thân thuộc, giàu sức gợi, nhà văn đã khắc họa rõ nét cảnh sắc rừng tràm cùng cuộc sống lao động bình dị của con người. Ngoài ra, việc kể chuyện qua nhiều điểm nhìn, như của An, của Cò, của má nuôi,… khiến văn bản thêm hấp dẫn, sinh động hơn. Từ đó, giúp người đọc có cái nhìn đa chiều và toàn diện. Qua đây, nhà văn ngợi ca, bày tỏ tình cảm yêu mến vẻ đẹp thơ mộng, hùng vĩ nơi núi rừng phương Nam. Đồng thời, bộc lộ tấm lòng trân trọng, thương yêu những con người chân chất, thuần hậu Nam Bộ.

“Đất rừng phương Nam” giống như một bức tranh thu nhỏ, hài hòa màu sắc, bố cục. Ở đó, con người sinh sống hòa hợp với thiên nhiên, đất trời. Thật không ngoa khi tác phẩm này được đánh giá là “một trong những tên tuổi viết cho thiếu nhi hay nhất Việt Nam” – Hữu Thỉnh.

Đề 2: Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của một màn kịch mà bạn đã học hoặc đã đọc.

Bài viết tham khảo

Nghị luận phân tích, đánh giá văn bản: Xã Trưởng – Mẹ Đốp:

(Siêu ngắn) Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm tự sự hoặc tác phẩm kịch | Chân trời sáng tạo

Nghệ thuật khi sinh ra đã hình thành mối quan hệ mật thiết với đời sống, nó luôn vận động và phát triển trong sự ràng buộc tự nhiên với hiện thực. Nhờ phản ánh trung thành hiện thực ấy mà nghệ thuật thực sự tham dự vào sự phát triển của tiến trình lịch sự như một thứ vũ khí sáng tạo và khám phá mảnh đất hiện thực của thời đại mình.

Dám chĩa thẳng vào hiện thực, đoạn trích “Xã Trưởng-Mẹ Đốp” trong tác phẩm chèo “Quan Âm Thị Kính” đã nói lên sự thật bất công trong xã hội phong kiến giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.

Được trích từ vở chèo: “Quan âm Thị Kính”. “Xã Trưởng-Mẹ Đốp” là một vở chèo cổ mẫu mực nhất của nền nghệ thuật sân khấu chèo Việt Nam. Trong trích đoạn biểu hiện rõ hai giai cấp: giai cấp thống trị là Xã Trường, đại diện cho chính quyền làng xã thời kỳ phong kiến, tộc quyền Việt Nam và Mẹ Đốp chuyên đi đánh mõ và báo cáo các việc cho dân làng, đại diện cho tầng lớp nhân dân thời kỳ bấy giờ, được xem là tầng lớp hạ lưu của xã hội.

“Xã Trưởng-Mẹ Đốp”là trích đoạn hài đặc trưng của sân khấu chèo về hề áo ngắn và hề áo dài. Các loại hình nhân vật phổ biến của chèo bao gồm kép, đào, hề, mụ, lão. Kép thường là các sĩ tử chân chính, hiếu học; đào (nữ chính) bao gồm đào thương, đào lệch hay còn gọi là đào lẳng, đào pha; hề; mụ lão. Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ với tính cách không thay đổi. Trong đó nhân vật hề là khá phổ biến.

Trong “Xã Trưởng-Mẹ Đốp” Hề áo ngắn là Mẹ Đốp, đại diện cho tầng lớp nhân dân bị trị luôn luôn tìm cách đả kích, châm chọc, chửi khéo giai cấp thống trị là Xã Trưởng, gây tiếng cười hóm hỉnh, sâu cay, chua chát, sảng khoái , hể hả qua những việc làm ngu dốt, vô nhân đạo của chúng diễn ra hàng ngày.

Nhân vật thứ hai là hề áo dài, cụ thể là Xã Trưởng, một chức quan mua tại hương thôn, ngu dốt nhưng lại háo sắc, tham lam, dối trên gạt dưới, hà hiếp dân lành, thường bị người nông dân chơi sỏ. Nhân vật hề áo dài trên sân khấu chèo truyền thống, bản thân nhân vật không làm hài nhưng qua phong cách biểu diễn thể hiện, nhân vật tự bộc lộ cái hai rất thâm thúy, gây tiếng cười chua chát, cười ra nước mắt.

Vốn là đại diện cho giai cấp thống trị, Xã Trưởng không dứt khỏi cái bản chất thối nát của xã hội phong kiến bấy giờ. Một tên quan lại mang trong mình hết thảy những đặc điểm xấu xa của phần “con” trong con người. Chẳng há mà hắn có thể thốt lên ngay những câu đầu tiên:

“Xã Trưởng:

Tại dân vi tổng lí

Quốc pháp hữu công hầu

Ơn dân xã thuận bầu

Tôi đứng đầu hàng xã

Nay cơ chừng động mả

Thị Mầu đã hoang thai

Chiểu lệ làng ngả vạ không sai

Bắt khoán cứ một trăm quan quý”

Cái giọng điệu gắt gỏng, bố đời, doạ nạt được thét ra. Chẳng mấy làm lạ khi hắn vốn là quan mua, tự mãn khi mình được chọn làm lí trưởng, cho mình đứng trên tất cả mọi người. Hắn tự cho mình cái quyền chà đạp người dân chân chất, thật thà và cái quyền khinh bỉ thân phận của người khác.

Ngược với xã trưởng thì tác giả vở chèo cũng đã tạo ra cho chúng ta một nhân vật Mẹ Đốp – là đại diện cho giai cấp bị trị, bị chà đạp, vùi dập nhưng Mẹ Đốp đã khéo léo làm bẽ mặt, hạ nhục kẻ tham quan háo sắc khi nhắm thẳng vào cái ngu dốt của Xã Trưởng.

Trong xã hội nhan nhản những điều dơ bẩn, quan lại ức hiếp, nhũng loạn, bóc lột người dân thấp cổ bé họng thì sự căm ghét của nhân dân đối với vua quan lại càng thêm sâu sắc, xung đột giữa hai giai cấp bị trị và thống trị lại càng trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Vì thế chẳng có lí do gì mà có dịp người dân lại không châm biếm quan lại.

Xã Trưởng hẳn là người kém chữ, lại chẳng viết văn thơ khi mà mẹ đốp nói câu nào cũng chẳng hiểu, ấy thế mà vẫn diễu võ dương oai ta đây là nhất: “Con này mày láo”

Suốt cả cuộc thoại Mẹ Đốp như nắm dây cương xoay cho Xã Trưởng điên đảo đến ngớ người. Hết cái này chẳng hiểu lại đến cái kia chẳng hiểu. Đường đường là xã trưởng nhưng đầu óc hạn hẹp, ngu dốt nên bị Mẹ Đốp-người dân nhưng hiểu biết hơn nữa lại được sự tín nhiệm của nhân dân châm chọc cho một vố lại chẳng hấn gì? Há chẳng phải hắn chẳng hiểu gì mà tin theo lời Mẹ Đốp hay sao.

Cái ánh mắt láo liêng, chớp nháy cùng cái vẻ cười gian tà hiện lên qua những câu thoại cũng đã đủ để ta hình dung ra một kẻ tham quan, háo sắc. Đứng trước sự sàm sỡ của Xã Trưởng, Mẹ Đốp đủ tỉnh táo, mạnh mẽ cũng như khéo léo mà kêu mà nói khiến hắn chột dạ thấy sợ mà đánh trống lảng.Sau một hồi bộc lộ đủ mọi tính xấu thì Xã Trưởng cũng phải đành mà kêu Mẹ Đốp đi rao mõ: “Thôi đi rao mõ đi!

Hành động bốc mồm Xã Trưởng chính là chi tiết châm biếm đả kích mạnh mẽ. Trong xã hội xưa người ta thường quan niệm phụ nữa là thấp hèn cho nên dải yếm thả trước của phụ nữ cũng được gán cho cái sự dơ bẩn. Khi Mẹ Đốp bốc mồm cũng là lúc mỉa mai những lời thốt ra từ miệng hắn vốn cũng chẳng tốt đẹp gì.

Khi nhận ra mình bị mụ đàn bà chơi cho vố đau thì Xã Trưởng cậy đà bắt nạt, hoạnh hoẹ. Đây cũng chính là cái đặc trưng cho giai cấp thống trị lúc bấy giờ. Thế nhưng, trong xã hội không phải ai cũng vậy, có nhan nhản nhưng không phải toàn bộ. Cũng là kẻ dối trên lừa dưới, ngu ngục, bù nhìn thì hắn cũng biết sợ mang thêm tiếng “xấu” cho bản thân vốn đã chẳng đẹp đẽ gì:

“Mẹ Đốp:

Ối bố Đốp ơi là bố Đốp ơi!

Đi đâu để thầy Xã thầy ấy ăn hiếp tôi đây này.

Xã Trưởng:Thôi, thôi!

Lọt tai làng sang tai họ bây giờ!

Nín đi!

Thôi tao xin mày!

Rồi tao đến cho thúng thóc!

Đi rao đi!

Nhớ vào mời bằng được cụ Đồ Điếc, nhớ đấy nghe không?”

Thông qua tình huống này ta thấy “đồng tiền” là thước đo đong đếm mọi giá trị vật chất lẫn cả tinh thần. Xã Trưởng thì dùng của cải vật chất để bịt miệng bất công, bịt miệng sự thật. Người dân lành cũng vì vật chất mà từ bỏ đấu tranh.

Là vở chèo tiêu biểu biểu cho thái độ châm biếm của nhân dân với giai cấp thống trị đồng thời mang lại tiếng cười sảng khoái cho khán giả. Cùng với những câu thoại biểu cảm, giọng điệu uyển chuyển phù hợp với tính cách nhân vật giúp lột tả hết được hình ảnh mang tính đại diên như Xã Trưởng và Mẹ Đốp. Hơn hết vở chèo vẫn hết sức giản đơn, gần gũi với người dân Việt Nam.

Vốn là Chèo cổ cho nên chèo thường xoay quanh vấn đề giáo dục cách sống, cách ứng xử giữa người với người theo quan điểm đạo lí dân gian hoặc theo tư tưởng Nho giáo. Và ở “Xã Trưởng-Mẹ Đốp” luôn toát lên những tinh thần ấy.

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 10 Chân trời sáng tạo siêu ngắn, hay khác:

Tủ sách VIETJACK shopee lớp 10-11 cho học sinh và giáo viên (cả 3 bộ sách):

Săn shopee giá ưu đãi :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH LUYỆN THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 10

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi, sách dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 10 Chân trời sáng tạo khác
Tài liệu giáo viên