Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện (15 mẫu hay nhất)

Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện (15 mẫu hay nhất)

Quảng cáo
Cài đặt app vietjack

Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện - mẫu 1

Tuy là hai tác phẩm khác thể loại nhưng những yếu tố kì ảo trong truyện cổ tích Thạch SanhChuyện chức phán sự đền Tản Viên có những nét tương đồng.

Đầu tiên ta thấy một cách rõ ràng mô típ về thế giới thần linh, ma quỷ - nơi có những thế lực siêu nhiên mang nhiều sức mạnh vượt quá con người. Ở thế giới đó, vong hồn vẫn tồn tại sau khi chết và giao tiếp với con người dương gian. Với mô típ này đã tạo nên một thế giới kì bí, ẩn chứa những bí ẩn của siêu nhiên. Đó cũng chính là điểm cuốn hút và hấp dẫn người đọc để khai phá và tăng sức hấp dẫn của chuyện kể.

Điểm tương đồng thứ hai chính là sự gặp gỡ giữa dương gian và thế giới thần linh kì bí. Ấy là ở thế giới thần linh cũng có sự phân chia Thiện - Ác. Ta bắt gặp trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên một Diêm Vương uy nghi, luôn công bằng và đứng về lẽ phải, một thổ công hiền hậu, có công với đất nước, luôn mong muốn đưa đến phúc đức cho nhân dân. Còn trong Thạch Sanh đó là vị Ngọc Hoàng sáng suốt và đầy lòng trắc ẩn, khi đã ban xuống cho đôi vợ chồng hiền hậu, tốt bụng nhưng tuổi đã già mãi chưa có con. Ngọc Hoàng đã chấp nhận để con trai của mình, đường đường là một vị thái tử nhưng xuống hạ giới để làm con trai của đôi vợ chồng kia. Quả là một món quà trời ban !. Bên cạnh đó cũng có không ít yêu ma, quỷ quái cũng có phép thần thông như chằn tinh, đại bàng thần trong Thạch Sanh, hay các quan ăn hối lộ dưới Minh ti, viên bách hộ họ Thôi trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Thông qua việc xây dựng nhân vật có ác, có thiện, tác giả muốn gửi gắm thông điệp ẩn sâu trong thế giới thần linh chính là đại diện cho thế giới dương gian đang tồn tại.

Quảng cáo

Giữa hai câu chuyện còn có sự tương đồng về quan niệm cái ác khó bị triệt tiêu. Thông qua yếu tố kì ảo, hai câu chuyện đã thể hiện sự tồn tại dai dẳng của cái ác. Như trong Thạch Sanh hồn ma của chằn tinh và đại bàng vẫn luôn bám lấy và hãm hại Thạch Sanh. Còn trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là sự hoành hành tác quái bao năm của viên bách hộ họ Thôi dưới trướng là thần đền ban phúc lộc. Thông qua việc thể hiện cái ác khó bị triệt tiêu để nhằm tôn lên vinh quang chiến thắng của cái thiện, là một cuộc đấu tranh gian khó nhưng cuối cùng cái thiện vẫn chiến thắng vẻ vang.

Bên cạnh những điểm tương đồng, yếu tố kì ảo và giá trị của chúng cũng có sự khác biệt giữa truyện cổ tích Thạch SanhChuyện chức phán sự đền Tản Viên.

Đầu tiên, trong Thạch Sanh các yếu tố thần kì tham gia vào cốt truyện để giúp đỡ những nhân vật bất hạnh và tiếp thêm sức mạnh cho người đứng ra bảo vệ cái thiện còn trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, yếu tố thần kì là nơi để thể hiện tính cách nhân vật. Cụ thể trong Thạch Sanh, nhân vật Thạch Sanh được Ngọc Hoàng sai tiên ông dạy đủ thứ võ nghệ cao cường và mọi phép thần thông, chính điều đó đã giúp cho Thạch Sanh có thể giành chiến thắng về sau. Tuy nhiên trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, nhân vật Tử Văn chỉ là một người bình thường, về sau dẫu có sự giúp sức là lời trình của thổ công làm chứng cho những lời nói của Tử Văn với Diêm Vương nhưng không là phần quyết định. Mọi việc vẫn ở chính con người Tử Văn gan trường, dám đối mặt với cái chết để bảo vệ cái thiện, lẽ công bằng. Như vậy có thể thấy, ở truyện cổ tích là nơi nhân dân gửi gắm ước mơ nên câu chuyện sẽ mang nặng vai trò của yếu tố kì ảo hơn.

Quảng cáo

Thêm nữa, yếu tố kì ảo góp phần đề cao nhân vật, xây dựng hình tượng nhân vật hoàn mỹ, là người anh hùng toàn vẹn. Điều đó được thể hiện nhiều trong truyện cổ tích Thạch Sanh. Với chi tiết Ngọc Hoàng sai hoàng tử xuống đầu thai làm con của hai vợ chồng già, sau đó sai tiên ông dạy cho anh đủ thứ phép thuật và võ nghệ. Qua chi tiết này đã khẳng định nguồn gốc cao quý của Thạch Sanh – mang dòng máu thần linh và tài năng phi thường của nhân vật. Hay quá trình dễ dàng giết được chằn tinh và đại bàng cũng góp phần phóng đại sức mạnh to lớn, tầm vóc vĩ đại của nhân vật. Tuy nhiên ở Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, không có yếu tố kì ảo nào trực tiếp phóng đại vẻ đẹp và sức mạnh nhân vật. Yếu tố kì ảo chỉ là không gian, bối cảnh và các cuộc đối thoại nhằm bộc lộ tính cách chính trực, không sợ cái chết, bảo vệ lẽ công bằng ở Tử Văn. Khác nhau như vậy là bởi lẽ, truyện cổ tích xây dựng lên những kiểu nhân vật hình mẫu, những người anh hùng toàn vẹn nên cần yếu tố kì ảo nhằm phóng đại nhân vật. Ngược lại, trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên nhân vật cần được xây dựng gần gũi hơn với con người đời thường để nhằm tôn vinh, đề cao sức mạnh con người.

Mặt khác, truyện cổ tích Thạch Sanh để cao triết lí sống “ở hiền gặp lành", kẻ ác phải chịu báo ứng còn tác phẩm Chuyện chức phán sự đền Tản Viên để cao sự cứng cỏi, can đảm của kẻ sĩ, đấu tranh tìm sự công bằng. Chính từ hai thông điệp gửi gắm và mối quan tâm khác nhau đã tạo ra điểm khác nhau trong giá trị của các yếu tố kì ảo.

Quảng cáo

Dàn ý Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện

- Mở bài: Giới thiệu hai tác phẩm truyện được xác định là đối tượng của sự so sánh, đánh giá, nêu mục đích và cơ sở của việc so sánh, đánh giá này.

- Thân bài: Cần triển khai các ý:

+ Thông tin chung về từng sản phẩm: hoàn cảnh ra đời, đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật, vị trí của tác phẩm trong đời sống văn học,..

+ Những điểm tương đồng giữa hai tác phẩm truyện và nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng ấy.

+ Những điểm khác biệt giữa hai tác phẩm truyện và điều kiện làm nên sự khác biệt ấy.

- Kết bài: Nêu ý nghĩa của việc đánh giá các tác phẩm truyện khi đặt chúng trong tương quan so sánh.

Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện - mẫu 2

Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, ông có sở trường về tùy bút. Sông Đà là tập tùy bút hay nhất của Nguyễn Tuân viết về cảnh và người Tây Bắc, là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của nhà văn. Ở Tây Bắc, ông sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân làm đường và đồng bào các dân tộc ít người. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã mang lại cho Nguyễn Tuân nguồn cảm hứng sáng tạo dồi dào. Phong cảnh Tây Bắc dưới ngòi bút Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ uy nghiêm, vừa tuyệt vời, thơ mộng. Trong bài Người lái dò sông Đà rút từ tập tùy bút Sông Đà, nhà thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn hết lời ngợi ca vẻ đẹp của con người Tây Bắc, nhất là những người lái đò trên con sông dữ dội và thơ mộng ấy.

Trong tùy bút, hình ảnh sông Đà hiện lên thật hung dữ:“Lúc này nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tưng đi một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm của một ấm nước sôi khổng lồ. Ngấn mạn thuyền thấp hơn ngấn nước tứ vi bên ngoài, cạp mui thuyền cắm ngập dưới ngấn nước đang sôi trắng lên. Mặt sông cũng có ổ gà như mặt đường cạn, đi vào ổ gà sông là thuyền bị giật xuống bị dồi lên. Đã gọi là thác, tức là chỗ khúc sông phức tạp đó nhiều luồng nước. Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay, có luồng nước đi vào đúng luồng rồi nhưng mà không trúng tim luồng thì cũng vẫn có thể lài thập tử nhất sinh như thường.. ”.

Những hình ảnh sông Đà hiện lên không kém phần thơ mộng, trữ tình: “Tôi có bay tạt qua sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con Tây Bắc hung bạo và trữ tình.. “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gấm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bừa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phết vào bản đồ...”.

Hình ảnh con sông Đà vừa “hung bạo và trữ tình” là cái nền để người lái đò xuất hiện. Ông lái đò là người anh hùng sông nước: trong cuộc chiến đấu gay go với con sông dữ, ông là người chỉ huy tài ba, trí dũng, can trường, Vượt qua hết các vực xoáy, luồng chết, cửa tử,... để đưa con đò đến nơi sóng yên nước lặng. Về tư thế: “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”, về phong thái: “tỉnh táo, tự tin., cố nén vết thương do sóng nước gây ra”, về hành động: “hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”, “đánh đòn tỉa”, “đánh đòn âm vào chỗ hiểm”. Sau Khi “phá xong cái trùng vi thạch trận, vòng thứ nhất”, ông không một phút “nghỉ tay nghỉ mắt”, phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn “chiến thuật”. Khi nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông “ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Thế là những luồng tử đã “bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh”. Sau đó, ông bước vào trận chiến với “một trùng vây thứ ba”. Ông liền “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa” có bọn đá hậu vệ của con thác. Rồi “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Thế là hết thác. Sóng nước lại thanh bình.

Hơn nữa, ông lái đò còn là nghệ sĩ tài hoa. Trong nghề chèo đò vượt thác, ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở. Ở vòng đầu lũ đá ấy đã mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngọn sông nhưng ông đã thuộc lòng các cửa này. Ở vòng thứ hai, cửa tử tàng lên đê đúng lừa con thuyền của ông vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn nhưng ông vẫn cứ hiểu được điều nguy hiểm ấy. Ông khám phá ra cách chinh phục chúng: cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Khi bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử, nhờ nhớ mặt bọn này nên đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến, ở trùng vây cuối cùng, mặc dù ít cửa hơn nhưng ông nhận ra rằng ở bên phải bên trái đều là luồng chết cả, lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cho nên, ông dùng đòn “phóng thẳng”. Thế là ông chiến thắng trọn trong cuộc đi qua cửa ải nước đủ tướng dữ, quân tợn vừa rồi. Đúng như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét, ông lái đò là một “tay lái ra hoa”.

Còn cô lái đò là một người phụ nữ Việt Nam yêu nước tha thiết, đảm đang, tháo vát, tâm hồn dạt dào cảm xúc và tràn ngập chất thơ: “..Một buổi chiều Quỳnh Nhai khác, tôi lại tìm đến một cô lái đò đã từng chở đò dọc đưa gạo kháng chiến từ Quỳnh Nhai về thác Tà Hè đổ lên kho quân lương. Cô lái đò châu Quỳnh Nhai giảng cho tôi hiểu biết thêm về ý nghĩa kiến trúc của cái thuyền then vút đuôi én trên sông Đà: “Các eng bảo thuyền giống con cá, bảo cái thuyền như một con cá nó quẫy mạnh đuôi trên mặt sông thì cùng được thôi. Chúng em chỉ biết cái đuôi thuyền nó vẫy lên cao như thế để có cái chỗ mà treo cái bu gà. Gà sống này, con nào đẹp lông và gáy hay, thì phải mua đến mười đồng bạc mới. Con gà sống là cái đồng hồ của người lái đò sông Đà đấy. Đi đường xa, qua bờ này bến khác, có tiếng gà gáy đem theo, nó đỡ nhớ nương ruộng bản mường mình. Hai bên bờ sông Đà, ai ai cũng biết hát cả đấy. Đang phát nương, nhìn xuống dòng sông Đà mà thấy thuyền các eng đi qua, là người phụ nữ Thái chúng em đều hát gửi xuống một hai câu và có khi hát cả một bài. Hồi Pháp chiếm đóng, tiếng hát của phụ nữ đều lánh xa bờ xa bến. Nhiều tiếng hát chạy xa lên tận đỉnh núi. Nay hòa bình, hết địch rồi tiếng hát mới lại xuống dần tới mặt bến...”.

Nhìn chung, nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân rất tài hoa. Nhà văn lược bỏ hầu hết các chi tiết về đời tư của ông lái đò, cô lái đò để đi sâu khắc họa ngoại hình, hành động của nhân vật.

Chúng ta thử so sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao (Chừ người tử tù). Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong sáng. Huấn Cao viết chữ rất đẹp: “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm(...). Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”. Trong thị hiếu thẩm mỹ của cổ nhân, từ Trung Hoa đến Việt Nam, viết chữ đẹp là một thủ pháp nghệ thuật và chơi chữ đẹp là một thú chơi cao khiết, tao nhã. Bởi vậy, qua những băn khoăn, tính toán, mưu mẹo, biệt đãi, nhẫn nhục, đau khổ, hốt hoảng, hi vọng, tuyệt vọng, hồi hộp, lo sợ, thành kính của viên quản ngục thì cái tài hoa quý hiếm của nhân vật Huấn Cao càng được tôn lên đỉnh cao chói lọi.

Về khí phách, Huấn Cao không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống cảnh “cá chậu chim lồng”, ông đi làm giặc triều đình. Đến khi bị bắt đưa vào ngục tử tù, ông không tỏ ra mảy may sợ hãi hay hối tiếc. Cổ mang gông, chân vướng xiềng, bước vào ngục tử tù chờ ngày ra pháp trường, ông vẫn hiên ngang, đường hoàng như bước đi trên đường cái. Chính cái khí phách khác thường của ông đã làm cho ngục quan - một người đầy uy quyền đối với ông - phải tỏ ra “khép nép” khi vào gặp ông tại nhà lao. “Thiên lương” của ông vô cùng trong sáng: cái tài của Huấn Cao chính là nơi phát lộ cái tâm của ông. Tiền bạc, uy quyền không hề lung lạc được ông: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Ông đúng là một nhân cách lí tưởng: “Bần tiện bất năng di, phú quý bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất”.

Vì vậy, khi chưa hiểu được các phẩm chất tốt đẹp của ngục quan (biết trân trọng, thật lòng yêu cái đẹp dù phải sống trong hoàn cảnh xấu xa) thì Huấn Cao có thái độ cứng rắn với ông. Đến lúc cảm được “cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của ngục quan, Huấn Cao mềm lòng thốt lên: “Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao -quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phí mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Và Huấn Cao sẵn sàng cho ngục quan những dòng chữ cuối cùng của một đáng tài hoa, một bậc anh hùng nghĩa sĩ trong một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có ở chốn lao tù”: “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Trong một không khí tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, làm họ dụi mắt lia lịa. Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ trên một tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo:

“Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo bức lụa trắng với những nét vuông tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thỏi mực, thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá vậy. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?... Tôi bảo thực đây, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiện lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.

Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo.

Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau.

Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rì vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Đoạn văn tả cảnh Huấn Cao cho chữ trên đây bộc lộ tron vẹn nhất vẻ đẹp sáng ngời của nhân cách Huấn Cao. Trong không khí trang trọng, thiêng liêng, trong cảm hứng sáng tạo mãnh liệt, mê say, ông Huấn Cao đã quên hẳn gông xiềng, nhà ngục chặt hẹp, tối tăm, ẩm ướt, quên cả cái chết đang chờ đợi mình. Tâm hồn ông hoàn toàn hướng tới sự bất tử của cái đẹp, cái “thiện lương” trong sáng. Lời khuyên nhủ của ông đối với quản ngục đã thể hiện quan niệm biện chứng của ông giữa cái tâm và cái tài, giữa cái đẹp và cái thiện. Trong nhân sinh quan cao vời của ông, người nghệ sĩ say mê cái đẹp trước hết phải là người phải biết đặt “thiện lương” lên vị trí tột cùng. Lời di huấn thiêng liêng ấy của Huấn Cao về nghệ thuật, về đạo lí làm người đã được quan ngục bái lĩnh bằng tất cả tấm lòng chân thực của mình và người đời trân trọng lắng nghe.

Có thể nói, cảnh ông Huấn Cao cho chữ là sự chiến thắng kiêu hùng của ánh sáng đối với bóng tối, của “thiện lương” đối với tội ác, của cái chân - thiện - mỹ đối với cái xấu xa, thô bỉ. Hơn nữa, đó còn là biểu tượng của việc tài hoa lên ngôi trong cảnh lao tù. Người tử tù đang tiến dần đến cõi chết, nhưng còn tài hoa của họ đang hàng hái, ung dung bước vào còi bất tử, vĩnh hằng.

Nhìn chung, vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”.

Từ việc tìm hiểu vài nét về vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao chúng ta dễ thấy được chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám. Về nét chung (tính thống nhất): Nguyễn Tuân vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. ông vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác. lịch lăm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu hiện: điện ảnh, hội họa, điêu khắc... Ông vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo, giàu có. Khả năng tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhằng. Mặt khác, các phép ví von, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, tượng trưng, đối ngữ, liệt kê... được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện, về nét riêng (tính khác biệt): Trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca ngợi là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Các nhân vật ông Nghè, ông Cử, ông Huấn Cao (Vang bóng một thời), ông Thộng phu, cô đào Tám (Chiếc lư đồng mắt cua) là những minh chứng sinh động. Sau Cách mạng tháng Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân. Đó là anh bộ đội Tây Bắc ngụy trang bằng hoa đào, đuổi giặc giữa rừng đào. Đó là người chiến sĩ cộng sản Tô Hiệu trồng đào trong xà lim hay cô nhân quân Quảng Bình ngồi gác máy bay dưới gốc hoàng mai. Đó là những cô gái lái đò sông Đà trên những chiếc thuyền đuôi én cao vút... Đặc biệt là ông lái đò sông Đà vượt thác sông Đà “tay lái ra hoa”. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi “ngông”, mắc cái bệnh hum mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái Đẹp và nhấm nháp những cảm giác mới lạ. Khi ấy, ở Nguyễn Tuân, hầu như cái gì cùng trở thành “chủ nghĩa”: chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa duy mĩ, chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa cảm giác, chủ nghĩa tài tử, chủ nghĩa ẩm thực..., và bao trùm lên tất cả là chủ nghĩa độc đáo. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn nhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó. Nhưng không còn là một Nguyễn Tuân “nghệ thuật vị nghệ thuật” nữa. Ông đã nhìn ra cái đẹp của con người dưới góc độ của những vấn đề xã hội (Xòe). Cụ thể là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nảy nở sinh sôi; đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn hóa của chế độ mới.

Qua Người lái đò sông Đà và nhân vật người lái đò, ta thấy nổi lên một Nguyễn Tuân tài hoa độc đáo, uyên thâm, tâm huyết, có tấm lòng yêu thương, tự hào da diết về vẻ đẹp của thiên nhiên, con người miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc. Ca ngợi sự gan góc, thông minh, dùng cảm, kiên cường, tài hoa nhân hậu của con người Việt Nam trong công cuộc lao động xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao. Người lái đò sông Đà thật sự là một bài ca lãng mạn, trong sáng, hào sảng về lao động và về vẻ đẹp của con người trong lao động.

10+ Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện

Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện - mẫu 3

Tô Hoài và Kim Lân đều là một trong những tác giả tiêu biểu của văn xuôi thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm của họ đều lấy cảm hứng từ cuộc sống hiện thực của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng tám. Hai tác phẩm “Vợ Nhặt” và “Vợ chồng A Phủ” tuy phản ánh số phận của hai người nông dân khác nhau nhưng đều mang một kết thúc mở. Nơi mà niềm hy sinh về cuộc sống mới tự do và hạnh phúc của họ được gửi gắm. Kết truyện không chỉ là những tình tiết khép lại câu chuyện mà còn là nơi mà các nhà văn thể hiện những quan niệm, tư tưởng và mở ra những con đường cho nhân vật của mình. Nếu kết thúc truyện Chí Phèo là sự giải thoát cho một kiếp người bị tha hóa bởi xã hội thì cái kết của "Vợ nhặt" và "Vợ chồng A Phủ" lại được nhà văn Kim Lân, Tô Hoài mở ra bằng một hướng đi mới cho những số phận đau khổ cho những con người trong hai tác phẩm đó.

Hai tác phẩm "Vợ nhặt" và "Vợ chồng A Phủ" là hai tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của hai tác giả. Nếu như Kim Lân viết về tình cảnh thê thảm, tang thương của những người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945 thì Tô Hoài lại viết về cuộc sống tủi nhục, tối tăm của những người nông dân nghèo vùng núi Tây Bắc. Tuy khác nhau về chủ đề và cách thức thể hiện nhưng cả hai tác phẩm đều có những nét tương đồng, cả hai truyện ngắn đều viết về cuộc sống và số phận của những người nông dân nghèo; đều thể hiện sự đồng cảm, trân trọng của nhà văn với số phận và vẻ đẹp của các nhân vật, điều này được thể hiện rõ nét qua phần kết của hai tác phẩm.

Truyện ngắn "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân được viết năm 1954 về cuộc sống của những người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nhân vật chính của câu chuyện là Tràng - một người đàn ông nghèo khổ, xấu xí sống trong xóm Ngụ Cư. Trước sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của mọi người, Tràng bất ngờ có vợ ngay khi nạn đói đang hoành hành dữ dội nhất. Truyện kết thúc trong chi tiết bữa cơm thảm hại ngày đói của gia đình Tràng: "có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo" và tiếng tiếng trống thúc thuế dồn dập. Trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh những dòng người "ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm".

Kết thúc của Vợ nhặt được Kim Lân lấy cơ sở từ chính hiện thực cuộc sống của đất nước ta lúc bấy giờ. Bởi sau nạn đói năm 1945, cả đất nước ta đang chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa giành lấy chính quyền và tiên phong chính là phong trào đi phá kho thóc Nhật để chia cho dân nghèo. Những người nông dân cả đời chân lấm tay bùn, họ ít học, ít hiểu, thế những cái đói khát cùng cực đã giúp họ nhận rõ kẻ thù của mình, đó chính là thực dân Pháp và Phát xít Nhật. Trong khi thực dân Pháp thực hiện chính sách vơ vét của cải thì bọn phát xít Nhật lại bắt dân ta "nhổ cỏ trồng đay", đây cũng chính là nguyên nhân chính gây ra thảm họa nạn đói khủng khiếp 1945 cho dân tộc Việt Nam. Sống trong đói khát, trong cái chết rình rập nên những người nông dân đã ý thức được và tìm cách đấu tranh giành lấy sự sống. Và họ đến với cách mạng như một điều tất yếu, một lẽ đương nhiên. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không thể hiện rõ ràng rằng Tràng có đi theo "lá cờ đỏ" ấy không, nó chỉ mở ra một hướng liên tưởng cho người đọc. Thế nhưng phải chăng qua cái "kết thúc mở" ấy, nhà văn Kim Lân muốn cho người đọc hiểu rằng cuộc đời của các nhân vật trong câu chuyện của mình rồi sẽ thay đổi nếu như họ bắt gặp được ánh sáng Cách mạng? Cuộc đời của Tràng mở ra bằng ánh chiều tà chập choạng với những cảnh "đói sầm vì đói khát", thế nhưng khi kết thúc lại là ánh bình minh của người mới với hình ảnh của "lá cờ đỏ" kia. Tuy là một kết thúc mở nhưng nó đã gieo vào lòng chúng ta niềm tin mãnh liệt vào sự đổi đổi của Tràng, của gia đình Tràng, của hàng ngàn người dân nghèo khác.

Với "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài lại dẫn người đọc đến với cuộc sống của những người nông dân nghèo vùng Tây Bắc. Nhân vật chính trong truyện là Mị và A Phủ. Nếu như Mị là cô "con dâu gạt nợ" nhà thống lý Pá Tra, phải sống kiếp "con trâu, con ngựa", bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần thì A Phủ trở thành người ở không công cho nhà thống lí chỉ vì đánh nhau với con quan. Hai con người đau khổ ấy gặp nhau, cảm thông, thấu hiểu cho nhau từ những giọt nước mắt và họ đã quyết định giải thoát cho nhau khỏi thân phận nô lệ.

Truyện kết thúc ở chi tiết Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ và vụt chạy theo A Phủ để giải phóng chính mình. Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở về với cuộc sống lầm lũi, cam chịu như trước kia. Trong một lần "thổi lửa hơ tay", Mị đã bắt gặp "một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủ. Chính dòng nước mắt ấy đã làm cho Mị bừng tình, nhận thức được quyền sống của mỗi con người, nhận thức được sự độc ác của giai cấp thống trị. Vậy nên Mị đã "rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây" cắt đứt sợi dây trói cho A Phủ và thả A Phủ chạy thoát. Thế nhưng chỉ vài phút "đứng lặng trong bóng tối", Mị cũng "vụt chạy ra" theo A Phủ. Và rồi hai con người khốn khổ ấy "lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi". Sau này, hai người trở thành vợ chồng và dưới ánh sáng của cách mạng, họ cùng nhau chiến đấu bảo vệ quê hương.

Cái kết của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã cho chúng ta thấy được sự đồng cảm sâu sắc giữa những con người khốn khổ, cho ta thấy được sức sống tiềm tàng của họ, nhận thực sâu sắc của họ về quyền sống, quyền được tự do và hạnh phúc cùng với đó là tinh thần đấu tranh với bọn địa chủ phong kiến. Nếu như trước đây, Mị sống "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", sống vô cảm, vô hồn thì giọt nước mắt của A Phủ đã đánh thức trong tâm hồn Mị ý thức về sự sống. Hành động cắt đứt dây trói giải thoát cho A Phủ của Mị cũng là sự giải thoát cho chính bản thân mình. Giọt nước mắt ấy đã đánh thức khao khát sống tự do, hạnh phúc của cô. Và rồi hai con người đau khổ của đất Hồng Ngài đã dẫn nhau "lẳng lặng" "lao chạy xuống dốc núi" trốn thoát khỏi những hủ tục phong kiến, những sự thống trị tàn bạo và dã man, đó là sự tự ý thức của họ về quyền sống, tự do của một con người.

Tuy hai nhà văn Kim Lân và Tô Hoài viết về hai đề tài khác nhau nhưng cách kết thúc trong hai truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" và "Vợ nhặt" lại có những điểm tương đồng. Đầu tiên đó là hai cái kết đều mở ra một tương lai mới tươi sáng và tự do cho người nông dân nghèo khổ. Cả hai nhà văn đều hướng những nhân vật của mình đến với ánh sáng của cách mạng với hy vọng chắc chắn rằng cách mạng sẽ giúp họ đổi đời. Tuy có nhiều điểm giống nhau nhưng Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ cũng có những điểm khác biệt rất rõ ràng. Nếu như Vợ nhặt là hình ảnh của những người nông dân phải sống trong đói nghèo, trong cái chết rình rập, họ thấy được tội ác của bọn phát xít thực dân để từ đó hình ảnh "lá cờ đỏ" cùng đoàn người đi "phá kho thóc Nhật" in đậm trong tâm trí họ, cho họ thấy được con đường thoát khỏi đói nghèo thì Vợ chồng A Phủ lại cho ta thấy sức sống tiềm tàng của những người nông dân, họ tự vùng lên để giải thoát cho chính mình.

Hai chi tiết, hai cái kết trong Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt là khác nhau nhưng ta thấy rõ được những tâm tư, những tình cảm, những giá trị nhân đạo mà cả Kim Lân và Tô Hoài đều hướng tới. Đó là lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc trước những số phận đau khổ bị đày đọa bởi đói nghèo, bởi giai cấp thống trị. Để từ đó hướng họ tới một tương lai tươi sáng hơn khi họ vùng lên dưới ánh sáng cách mạng.

10+ Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện

Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện - mẫu 4

Việc sử dụng yếu tố kì ảo của hai tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” và “Thạch Sanh” có nhiều điểm tương đồng. Trước hết, trong cả hai tác phẩm Chuyện chức phán sự Đền Tản Viên và truyện cổ tích Thạch Sanh đều xuất hiện những nhân vật kì ảo, không có thật. Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, hình ảnh các nhân vật kì ảo được miêu tả vô cùng chi tiết, ẩn giấu những ý nghĩa như hồn ma tướng giặc Bách hộ họ Thôi là tên tướng bại trận của Bắc Triều, cái hồn bơ vơ ở Nam Triều, tranh miếu chiếm đền Thổ Công. Đây là hiện thân của cái ác, lừa lọc, giả dối. Hay hình ảnh nhân vật Thổ Công giữ chức Ngực sự đại phu từ thời Lý Nam Đế, chết vì cần vương.. Diêm Vương là người đứng đầu Minh ti, trực tiếp phán xử vụ án giữa Tử Văn và hồn ma tướng giặc. Đây đều là những nhân vật kì ảo, không có thực, góp phần thể hiện cốt truyện. Còn trong truyện cổ tích Thạch Sanh, cũng có những nhân vật không có thực, chỉ tồn tại trong thế giới cổ tích như: Ngọc Hoàng, thái tử, chằn tinh.. , đồ vật thần kì như niêu cơm thần ăn mãi không hết, tiếng đàn giúp cho Thạch Sanh được giải oan. Tiếp đó, sự tương đồng còn được thể hiện trong mô típ của cả hai tác phẩm: vong hồn vẫn còn tồn tại sau khi chết, trong thế giới thần linh có sự phân chia Thiện- Ác… Đây là mô típ với những tình tiết khá quen thuộc xuất hiện trong nền văn học Việt Nam từ thể loại truyện cổ tích thần kì tới truyện truyền kì.

Mặc dù vậy, yếu tố kì ảo được sử dụng có những điểm khác biệt nhất định. Đầu tiên, sự xuất hiện của nhân vật chính trong cả hai tác phẩm: Truyện Chuyện Chức phán sự đền Tản Viên với nhân vật chính là Ngô Tử Văn, được tác giả giới thiệu vô cùng cụ thể: tên, nơi sinh gắn với những địa điểm có thật “huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang”. Truyện cổ tích Thạch Sanh, nhân vật chính Thạch Sanh có nguồn gốc xuất thân kì ảo: Là thái tử do Ngọc hoàng cử xuống đầu thai làm con của hai vợ chồng già nghèo khó nhưng tốt bụng luôn giúp đỡ mọi người…Tiếp đó, sự khác nhau được thể hiện trong kết thúc truyện: Nếu như trong Chuyện Chức phán sự đền Tản Viên, Tử Văn trở về, nhận chức phán sự đền Tản Viên thì ở truyện cổ tích Thạch Sanh, Thạch Sanh được kết duyên với công chúa và được truyền lại  ngôn vua. Hơn thế nữa, về giá trị của tác phẩm được thể hiện qua mô típ chuyện cũng có nhiều điểm riêng biệt: Truyện cổ tích Thạch Sanh đã đề cao triết lý sống: “ ở hiền gặp lành”, kẻ ác phải chịu báo ứng còn trong Chức phán sự đền Tản Viên đề cao sự cứng cỏi, can đảm của kẻ sĩ, đấu tranh tìm sự công bằng không phải cho mình mà cho người yếu thế.

Qua sự phân tích, đánh giá giữa những điểm tương đồng và khác biệt, ta có thể thấy yếu tố kì ảo trong thể loại truyền kì là sự kế tục của thể loại văn học dân gian: Sự xuất hiện của những nhân vật kì ảo không có thực hay là mô típ truyện có những chi tiết hoang đường, huyền ảo như: người chết sống lại, thế giới thần linh cũng phân chia thiện ác… Dòng truyện kì ảo trung đại, dù vẫn còn mang bóng dáng của văn học dân gian, nhưng đây là những sáng tác đậm dấu ấn cá nhân của tác giả, gắn liền với sự bừng ngộ, sự ý thức của con người đối với hiện thực. Cảm hứng của Nguyễn Dữ khi sáng tác Truyền kì mạn lục là lấy cái “ kì” để nói cái “ thực”.. Vì lẽ đó, yếu tố kì ảo được sử dụng như một phương thức kể chuyện khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn, sinh động. Ngoài ra, yếu tố kì ảo và yếu tố hiện thực đan xen vào nhau, cùng tồn tại để bộ lộ tư tưởng của tác giả. Điều này khác với truyền cổ tích Thạch Sanh khi mà yếu tố kì ảo có vai trò to lớn, không thể thiếu trong sự phát triển tình tiết, giải quyết xung đột: chiếc đàn thần, niêu cơm của Thạch Sanh….

Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện - mẫu 5

Để thu hút được người đọc mỗi tác phẩm sẽ có những yếu tố riêng. Một trong số những yếu tố làm nên sự thành công đó là yếu tố kì ảo. Đặc biệt là yếu tố kì ảo trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” và trong truyện cổ tích “Thạch Sanh”. Thông qua việc so sánh về yếu tố kì ảo sẽ giúp chúng ta thấy rõ dấu ấn sáng tạo của Nguyễn Dữ khi tiếp nhận những ảnh hưởng của văn học dân gian.

Trong câu chuyện “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” yếu tố kỳ ảo đầu tiên phải kể đến đó là sự xuất hiện của các nhân vật từ cõi âm ti, khác hẳn với các thể loại truyện thông thường mà nhân vật là thần thánh, thanh cao không nhiễm bụi trần, điều đó đã đem đến cho người đọc những trải nghiệm mới, kích thích trí tò mò cũng như gây ấn tượng sâu sắc với độc giả về cốt truyện. Nhân vật ở cõi âm đầu tiên, là khởi nguồn nên mọi diễn biến sau đó chính là tên tướng giặc họ Thôi bại trận, chết trên đất Việt, sau đó trở thành yêu quái chiếm miếu của Thổ công, quấy nhiễu dân chúng. Có thể thấy rằng đây là nhân vật phản diện điển hình nhất của truyện, lúc còn sống thì tên này làm giặc, chính vì thế khi chết đi cũng chỉ có thể làm yêu quái nhiễu loạn nhân gian, đời đời bị người ta khinh ghét sợ hãi. Không chỉ vậy tên giặc này còn phản ánh một hiện thực của đời sống ấy là nạn tham quan hoành hành, làm cho nhân dân lầm than, điều đó thể hiện qua việc hắn đút lót tham quan, bưng bít cả thượng đế để làm trò bạo ngược. Đến khi nhân vật Ngô Tử Văn đại diện cho chính nghĩa, thay trời hành đạo tự tay đốt đi ngôi đền, khiến hắn không còn chỗ trú, thì tên này lại ngang nhiên giả dạng tiến vào giấc mộng của Tử Văn, cảnh cáo bắt chàng dựng lại đền bằng những lời lẽ rất mực oai nghiêm, văn vở. Nhưng thấy Tử Văn vẫn điềm nhiên thấy chết không sờn thì quay ra tức giận, trở mặt làm trò dọa dẫm "Phong đô không xa xôi gì, tuy ta hèn nhưng há lại không đem nổi nhà ngươi đến đấy. Không nghe lời ta rồi sẽ biết". Và y như rằng ngay tối ấy tên giặc này đã không tha cho Tử Văn mà khiến chàng phải xuống hầu cõi âm ti. Trước điện Diêm Vương, tên này lại lần nữa đóng vai Thổ công bị đốt đền, lời lẽ điêu ngoa, lươn lẹo, nhằm buộc tội khiến Tử Văn phải bị trừng phạt. Tuy nhiên đến lúc thấy Tử Văn có bằng cớ chứng minh tội trạng của hắn, thì tên này lập tức lật mặt giở giọng nhân từ, cầu xin Diêm Vương tha cho Tử Văn nhằm thoát tội, với lời lẽ thể hiện sử giả nhân giả nghĩa vô cùng: "...xin đại vương tha cho hắn để có cái đức rộng rãi. Chẳng cần đòi hỏi dây dưa, nếu chẳng may trị tội nó sợ sẽ làm hại đến đức hiếu sinh", câu nào câu ấy cũng lấy nhân đức đặt lên trên đầu lưỡi, nhưng thực tế rằng tên này đang sợ chuyện của mình bại lộ, nên mới vội bưng bít như thế. Quả là giang sơn dễ đổi bản tính khó dời, chết đến nơi vẫn không quên lươn lẹo, và kết cục của tên này cũng chẳng thể nào tốt đẹp bằng việc bị nhét gỗ vào miệng rồi đày xuống ngục Cửu U.

Nhân vật thứ hai chính là Thổ công, trong truyện miêu tả đây là một vị quan dưới thời Lý Nam Đế, vì có công giúp vua giữ nước mà chết thế nên được ban cho chức Thổ công và một ngôi đền, hưởng hương khói của nhân dân. Khi đến gặp Tử Văn thì hiện lên với phong thái nhàn nhã, khoan thai, áo vải mũ đen, là người hiền lành, trung thực, nên phải chịu nhún nhường cho tên giặc họ Thôi làm loạn. Có thể thấy rằng thổ công là nhân vật đại diện cho phe chính nghĩa, là người bị hại, phải chịu khốn đốn trước vấn nạn tham quan và gian thần nịnh nọt. Trong truyện nhân vật này chính là người đã chỉ điểm cho Ngô Tử Văn khi phải hầu Diêm Vương dưới âm ti, và giúp chàng thắng kiện còn tên giặc họ Thôi kia phải chịu trừng phạt. Sự kết hợp của Thổ công và Ngô Tử Văn trong truyện nhiều lần khiến ta liên tưởng đến sự giúp đỡ của thần, phật với nhân vật chính trong các câu chuyện dân gian, cổ tích. Chỉ khác một chút rằng, ở đây Ngô Tử Văn không hoàn toàn dựa vào những lời dạy của Thổ công mà quan trọng nhất vẫn là dựa vào khí khái, tinh thần dũng cảm của bản thân và tấm lòng trung thực, không sợ kẻ ác của nhân vật này. Sự kết hợp của Thổ công và Ngô Tử Văn có thể liên tưởng đến sự đoàn kết của nhân dân ta trong quá trình chống giặc ngoại xâm, thì ở đây là sự đoàn kết của phe chính nghĩa khi đối diện với cái ác, cái xấu hoành hành.

Nhân vật Diêm Vương là người đứng đầu cõi minh ti, trong truyện đóng vai trò là người phán xử. Lúc đầu khi đứng trước lời tố cáo đầy gian dối và lươn lẹo của tên tướng giặc họ Thôi, thì Diêm Vương đã bị lừa gạt và đâm ra trách phạt Tử Văn vì cớ sao lại phá đền, chốn thần phật nương náu. Tuy nhiên sao một hồi tranh cãi phân xử, lại thấy Ngô Tử Văn đưa ra được chứng cứ xác thực thì Diêm Vương đã lập tức nhận ra sự thật, trả lại công bằng cho Tử Văn đồng thời xử phạt tên giặc họ Thôi kia để trừng trị cái tính gian tà, chuyên làm điều ác quấy nhiễu nhân dân, lại còn thích mồm loa mép dải. Những nhân vật khác như quỷ Dạ xoa, quỷ sứ góp phần làm cho chốn âm ti thêm sinh động, nhiều màu sắc, thể hiện được sự uy nghiêm, cẩn trọng nơi địa phủ từ đó khơi gợi cảm giác hứng thú cho người đọc.

Cuối cùng là nhân vật Ngô Tử Văn, nhân vật chính của câu chuyện, ngoài việc nằm mộng thấy tên tướng giặc họ Thôi, rồi bị đưa xuống âm phủ chịu tội, thì yếu tố kỳ ảo và gây ấn tượng nhất của nhân vật này đó là việc chết đi rồi sống lại sau khi diện kiến Diêm Vương. Điều đó bộc lộ một chân lý đúng đắn, ở hiền gặp lành, người tốt sẽ được đền đáp xứng đáng, chứ không phải chịu chết một cách oan khuất, chứng minh sự hiện diện của lẽ phải không chỉ ở chốn trần gian mà ở bát cứ nơi đâu, kể cả ở chốn âm ti, người vốn đang ở đâu sẽ được trả về chỗ ấy để hưởng cho hết cái phúc phần dương gian của mình. Rồi sau đó nhận lời của Thổ công không bệnh mà mất, để đến ở cõi tiên hưởng cái phúc phần của tiên gia, âu cũng xem là một cái kết hậu trong hậu.

Còn với truyện cổ tích “Thạch Sanh”, Thạch Sanh là thái tử do Ngọc Hoàng phái xuống đầu thai làm con vợ chồng nhà nọ. Bà mẹ mang thai mấy năm mà không sinh. Khẳng định nguồn gốc cao quý, tài năng phi thường của Thạch Sanh. Sau đó, được thiên thần dạy đủ các môn võ nghệ, mọi phép thần thông. Khẳng định nguồn gốc cao quý, tài năng phi thường của Thạch Sanh. Tiếp theo là cậu giết chằn tinh và đại bàng nhằm khẳng định nguồn gốc cao quý, tài năng phi thường của Thạch Sanh. Cứu con trai vua Thủy Tề và được mời xuống chơi Thủy Cung, khẳng định chân lí người hiền sẽ gặp lành. Hồn chằn tinh và đại bàng tìm cách vu oan cho Thạch Sanh. Thể hiện sức sống dai dẳng của cái ác. Niêu cơm thần ăn mãi không hết, thể hiện ước mơ về cuộc ống no đủ của nhân dân lao động. Còn cây đàn thần làm cho Thạch Sanh giải oan nó còn làm cho đất nước hòa bình. Điều này tượng trưng cho công lí, cho sức mạnh của chính nghĩa. Những chi tiết này nhằm tăng sức hấp dẫn cho truyện thể hiện quan niệm của người dân lao động về công lí và mơ ước ở đời.

Như vậy có thể thấy rằng, các yếu tố kì ảo, hoang đường trong tác phẩm không chỉ góp phần làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn, kịch tính, gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Mà quan trọng hơn nó còn góp phần làm nổi bật chủ đề, nội dung và tính cách của từng nhân vật theo tuyến thiện - ác, từ đó phản ánh mơ ước của nhân dân ta về một thế giới công bằng bình đẳng, chân lý "ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác" được thực thi ở muôn nơi không kể chốn nhân gian hay cõi âm ti địa ngục.

Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện - mẫu 6

Nơi nghệ thuật ta kiếm tìm hiện thực ở những góc nhìn khác. Những góc nhìn mà ở nơi ấy hiện thực được toàn vẹn là chính nó với những góc khuất, những niềm đau và cũng là chính nó với những điều đẹp đẽ và cao cả. Để rồi giữa những hiện thực được nhìn nhận ấy, ta nuôi dưỡng nơi mình một khát vọng được sống và được yêu thương, một niềm tin vào chính mình và cuộc đời. Nếu dưới ngòi bút của Thạch Lam giữa những ngày đất nước chưa tìm lại được độc lập, hiện thực hiện lên tựa như cảnh phố huyện nghèo chỉ sáng chói lúc con tàu vụt qua thì dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu giữa những ngày đất nước vẫn chìm đắm sau ánh hào quang mà cuộc chiến để lại, những điều ta ngỡ là tất cả lại đổ vỡ trước ánh nhìn cận cảnh.

Có người từng nói, nhà văn là những nhà thư ký trung thành của thời đại. Hai bức tranh về hiện thực được dựng xây bởi Thạch Lam và Nguyễn Minh Châu có lẽ cũng đem theo hiện thực lịch sử ấy.

Thạch Lam khắc họa lên khung cảnh phố huyện nghèo, nơi con người khó khăn kiếm lấy cho mình chút gì đó để sống qua ngày. Câu truyện bắt đầu với ánh chiều dần tắt, những cửa hàng nhỏ lên đèn, những ánh sáng leo lắt khiến cho con dường một bên sáng một bên tối, tất cả tựa như bị nuốt chửng trước khoảnh khắc ngày tàn. Cảm nhận về ánh sáng mong manh hơn trước sự rệu rã nơi con người. Có lẽ nỗi đói khổ, sự tuần hoàn yên ả nơi phố huyện đã lấy đi nơi họ những khát vọng về một ánh sáng. Những kiếp đời sống mòn trước ngưỡng cửa của hiện thực. Tiếng cười dài của bà cụ Thi vang vọng khắp phố huyện. Tiếng cười của những cơn say, tiếng cười của những nỗi ám ảnh về kiếp sống rệu rã mỏi mệt. Sự chán nản của chị Tý dẫu dọn hàng sớm hay muộn thì có khác gì, sự im lặng của nhà bác hát sẩm khi khác chưa bước tới, cái bóng của bác phở Siêu đổ dài trước ánh lửa. Bức tranh về hiện thực phố huyện ở những năm đất nước chưa lấy được lại độc lập hiện lên trước mắt người đọc, một bức tranh buồn, mỏi mệt, rệu rã.

Bức tranh đầu tiên Nguyễn Minh Châu đem tới trước mắt người đọc lại là một bức tranh rất đẹp. Bức tranh khiến Phùng ngỡ đó là mục đích của cả chuyến đi dài, là điều mà nghệ thuật hướng tới. Con thuyền nơi ngoài xa đẹp và yên bình trên mặt biển mờ sương. Cả gia đình ngồi im lặng trên chiếc thuyền nhỏ. Tất cả khắc tạc lên một vẻ đẹp toàn bích. Có lẽ đó cũng là bức tranh của đất nước sau những năm giành lại được độc lập. Chúng ta sống giữa những hào quang sau cuộc chiến, những hạnh phúc sau khi nhận được chiến thắng, tựa như phùng khoảnh khắc nhìn thấy con tàu giữa bóng sương mờ, anh cả thấy trái tim mình tự như bị bóp chặt.

Nhưng hiện thực không chỉ nằm nơi những bề nổi dễ thấy. Hiện thực nằm nơi chúng được đổ bóng. Nơi chúng được cho một khoảng không để trọn vẹn là chính chúng.

Phố huyện nghèo nơi những áng văn của Thạch Lam như được thắp lên một niềm hi vọng khi đoàn tàu đến. Đoàn tàu tựa như một Hà Nội đã xa trong chị em Liên, đoàn tàu tựa như thứ ánh sáng có thể xua đi bóng đêm nơi phố huyện nghèo. Cảm thức về một Hà Nội, về một cuộc sống đa sắc màu dường như nuôi dưỡng trong chị em Liên và những người đợi chờ con tàu ấy một khát vọng. Một khát vọng hướng tới ánh sáng, một khát vọng chấm dứt những rệu rã và mỏi mệt. Tiềm ẩn sau bức tranh phố huyện nghèo là một khát vọng, một khát vọng được hướng tới ánh sáng, thoát khỏi sự bao trùm của bóng đêm.

Con thuyền ngoài xa nơi áng văn của Nguyễn Minh Châu hiện lên rõ nét trước ánh nhìn cận cảnh. Phùng chứng kiến cảnh từng người trên chiếc thuyền ấy cố gắng đánh đập thậm chí lấy đi mạng sống của nhau. Người chồng đánh vợ mình và người đàn bà không làm gì ngoài chịu đựng trong khi đứa trẻ có gắng giết cha của mình. Một hiện thực trần trụi, một hiện thực không được giải quyết sau hai chữ độc lập một hiện thực không được nhìn nhận dưới hai chữ dân chủ bình đẳng. Một hiện thực trái ngược với bức ảnh anh đã định nghĩa nó là nghệ thuật. Nghệ thuật là gì nếu khi đối diện với hiện thực, chúng đổ nát và méo mó. Độc lập là gì nếu chúng chỉ là cái cớ để ta chìm đắm trong những gì đã qua.

Khắc họa hai bức tranh về hiện thực, hai tác phẩm đem đến cho người đọc những điểm nhìn mới và đem đến những thông điệp lịch sử. Có lẽ chỉ dưới cái nhìn của nghệ thuật, những ngày tháng đã qua mới có thể hiện lên toàn vẹn là chính nó với những hiện thực bề nổi và những tiềm lực.

Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện - mẫu 7

Trong cả hai tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ và truyện cổ tích “Thạch Sanh”, yếu tố kì ảo đều được sử dụng một cách sáng tạo để tạo nên những câu chuyện hấp dẫn và đầy ý nghĩa. Cả hai tác phẩm có nhiều điểm tương đồng.

Trước hết, trong cả hai tác phẩm đều xuất hiện những nhân vật kì ảo, không có thật. Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, hình ảnh các nhân vật kì ảo được miêu tả vô cùng chi tiết, ẩn giấu những ý nghĩa như hồn ma tướng giặc Bách hộ họ Thôi là tên tướng bại Trận ở Bắc Triều, cái hồn bơ vơ ở Nam Triều, tranh miếu chiếm đền Thổ Công. Đây là hiện thân của ái ác, lừa lọc, giả dối. Hay hình ảnh nhân vật Thổ Công giữ chức Ngực sự đại phu từ thời Lý Nam Đế, chết vì Cần Vương. Diêm Vương là người đứng đầu, trực tiếp phán xử vụ án giữa Tử Văn và hồn ma tướng giặc. Đây đều là những nhân vật kì ảo, không có thực, góp phần thể hiện cốt truyện. Còn trong “Thạch Sanh” cũng có những nhân vật không có thực, chỉ tồn tại trong thế giới cổ tích như: Ngọc Hoàn, thái tử, chằn tinh…; đồ vật thần kì như niêu cơm thần, tiếng đàn giúp giải oan. Sự tương đồng còn thể hiện trong mô típ của cả hai tác phẩm: vong hồn vẫn còn tồn tại sau khi chết, trong thế giới thần linh có sự phân chia Thiện – ác…

Ngoài những điểm tương đồng, yếu tố kì ảo được sử dụng có những điểm khác biệt nhất định. Đầu tiên là sự xuất hiện của hai nhân vật chính trong hai tác phẩm. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên với nhân vật chính là Tử Văn được tác giả giới thiệu cụ thể từ tên, quê quán gắn với những địa điểm có thật. Truyện Thạch Sanh nhân vật chính là Thạch Sanh có nguồn gốc xuất thân kì ảo qua việc Thạch Sanh là thái tử do Ngọc Hoàng phái xuống đầu thai lằm con vợ chồng nhà nọ. Sự khác nhau còn được thể hiện ở việc kết thúc truyện. Nếu trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên Tử Văn trở về nhận được chức thì trong Thạch Sanh thì Thạch Sanh lại được kết hôn với công chúa và được làm vua. Về giá trị của tác phẩm, truyện Chuyện chứa phán sự đền Tản Viên đề cao sự can đảm, mạnh mẽ thì Thạch Sanh đề cao triết lí sống “Ở hiền gặp lành”, kẻ ác chịu báo ứng.

Qua sự phân tích, đánh giá giữa những điểm tương đồng và khác biệt, ta có thể thấy yếu tố kì ảo tỏng thể loại truyền kì là sự kế tục của thể loại văn học dân gian. Cả hai tác phẩm đều sử dụng yếu tố kì ảo để tạo nên những câu chuyện hấp dẫn, đồng thời truyền tải những thông điệp sâu sắc về cuộc sống và con người.

Xem thêm các bài văn mẫu 12 Cánh diều hay khác:

Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 12 hay khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 12

Bộ giáo án, đề thi, bài giảng powerpoint, khóa học dành cho các thầy cô và học sinh lớp 12, đẩy đủ các bộ sách cánh diều, kết nối tri thức, chân trời sáng tạo tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official


Giải bài tập lớp 12 Cánh diều khác
Tài liệu giáo viên