10+ Phân tích khổ 4 Viếng lăng Bác (điểm cao)

Phân tích khổ 4 Viếng lăng Bác điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Phân tích khổ 4 Viếng lăng Bác (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Phân tích khổ 4 Viếng lăng Bác

I. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.

- Giới thiệu khái quát nội dung khổ cuối bài thơ “Viếng lăng Bác”.

II. Thân bài

1. Câu thơ đầu

- Đó là lời thông báo về sự việc tác giả sẽ phải rời xa lăng Bác, trở về miền Nam.

- “Thương trào nước mắt”: tình cảm dành cho Bác không thể diễn tả thành lời, bùi ngùi mà rơi những giọt nước mắt.

2. Ba câu tiếp theo

- Ước nguyện chân thành của tác giả:

+ Làm con chim: để vang lên lời ca yêu Bác mỗi ngày.

+ Làm cây tre: ước muốn được ở bên cạnh, cùng xây dựng, bảo vệ Tổ Quốc với Bác

+ Làm bông hoa: để tỏa hương thơm ngát, tô điểm cho nơi đây.

Quảng cáo

- Điệp ngữ “muốn làm”: nhấn mạnh khát khao chân thành của nhà thơ.

III. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật.

Phân tích khổ 4 Viếng lăng Bác - mẫu 1

Sau bao nhiêu cảm xúc của một người con lần đầu ra thăm người cha của mình thì giờ đây đã đến lúc phải rời xa. Cảm xúc ấy của nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện qua khổ thơ cuối bài thơ “Viếng lăng Bác” với bao ước muốn thành kính.

Bài thơ được sáng tác năm 1976 sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, đất nước được thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành. Tác giả ra thăm miền Bắc vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ chính là niềm xúc động thiêng liêng thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của tác giả từ niềm Nam ra viếng lăng Bác. Cuộc hành trình ấy đã đến lúc phải ra về với câu thơ đầy xúc động:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

Là một câu thơ mà cũng là một lời giã biệt của người con khi phải xa cha lần nữa. Lời giã biệt ấy thật nghẹn ngào sâu lắng. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm của nhà thơ dành cho Bác cũng như của tất cả mọi người khi phải rời lăng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn rời xa nơi Bác nghỉ. Đó là tâm trạng của muôn triệu con tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi người ấm áp quá, rộng lớn quá. Nhưng dù muốn hay không thì giây phút ngắn ngủi được gặp Bác cũng vô cùng thiêng liêng. Đã đến lúc dòng người vào lăng viếng Bác phải ra về.

Quảng cáo

Trong niềm xúc động nghẹn ngào đó là những ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa được một lần gặp Bác:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu trốn này”

Những ước nguyện của nhà thơ thật đáng quý biết bao! Nhà thơ muốn làm con chim hót để mang âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành đến với nơi Bác nghỉ. Tác giả muốn làm một đóa hoa tỏa hương thơm thanh cao. Muốn làm một cây tre trung hiếu giữa mãi giấc ngủ bình yên cho Người. Hình ảnh cây tre quả thật là một hình ảnh đẹp và được khép lại rất khéo ở cuối bài thơ. Ở đầu bài thơ, nhà thơ cũng mở đầu bằng hình ảnh hàng tre, đó là hình ảnh khi tác giả nhìn thấy khi vào lăng. Đó cũng là hình ảnh biểu tượng cho con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Nhưng kết thúc bài thơ là hình ảnh cây tre trung hiếu canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác. Cây tre như người lính trung thành, hàng ngày, ngày đêm vẫn đứng ở đó. Hình ảnh cây tre đã tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng. Điệp từ “Muốn làm” được nhắc lại ba lần biểu cảm trực tiếp và gián tiếp tâm trạng lưu luyến, ước muốn và sự tự nguyện chân thành của tác giả. Ước nguyện đó được bộc lộ ra từ tận sâu đáy lòng của nhà thơ Viễn Phương.

Khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác là tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn ở mãi ở bên lăng Bác không muốn rời xa nơi Bác yên nghỉ. Đồng thời là niềm nguyện ước của Viễn Phương muốn sống một cuộc đời đẹp đẽ để trở thành những bông hoa dâng lên Bác.

Quảng cáo

Phân tích khổ 4 Viếng lăng Bác - mẫu 2

Bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời vào năm 1976, đây là thời điểm đất nước hòa bình, hai miền thống nhất, nhà thơ có dịp ra thăm lăng Bác. Bài thơ thể hiện niềm kÍnh trọng và tình yêu thương và tiếc nuối của tác giả cũng như đồng bào miền Nam khi ra thăm Bác. Bài thơ đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc và thành công nhất là Hoàng Hiệp có cùng nhan đề.

Khổ cuối của bài thơ thể hiện sự thương nhớ và tâm nguyện của nhà thơ sau khi viếng Bác và trở về miền Nam để tiếp tục dựng xây, bảo vệ đất nước, bảo vệ miền Nam kiên cường, máu lửa của tổ quốc.

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Khi phải rời miền Bắc, rời lăng Bác nhà thơ đã không thể nào kìm được lòng mình nữa, tuôn trào nước mắt. Những khổ thơ ở trên đã diễn tả cảm xúc mãnh liệt nhưng nhà thơ vẫn cố kìm giữ trong đến khổ thơ cuối thì cảm xúc của nhà thơ đã tuôn theo dòng nước mắt tuôn rơi. Từ ngữ biểu cảm đã bộc lộ được nỗi xúc động trào dâng lên tới đỉnh điểm.

Từ cái nỗi xúc động đó tác giả thể hiện ước nguyện của mình:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Điệp ngữ “muốn làm” khiến cho nhịp thơ nhanh, dồn dập, giúp tác giả thể hiện được khát vọng mãnh liệt của mình. Khát vọng đó được bộc lộ qua những hình ảnh thơ vừa đẹp vừa gợi cảm “con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương”, “cây tre trung hiếu” tất cả để làm đẹp cho nơi Bác nằm, cũng như tác giả muốn dâng lên Bác những gì tinh hoa nhất của mình để Bác bình yên, thanh thản trong giấc ngủ ngàn thu. Các từ “đâu đây”, “trong lăng”, “chốn này” càng nhấn mạnh thêm cái ước mơ của tác giả được ở mãi bên Bác, lưu luyến không muốn rời. Sự khát khao này của nhà thơ cũng là khát khao chung của rất nhiều người, bởi vì

“Ta bên người, người tỏa sáng bên ta,

Ta bỗng lớn ở bên người một chút”

Viễn Phương cũng cảm nhận được điều đó khi được ở bên Bác Hồ. Ấn tượng nhất trong khổ cuối là hình ảnh “cây tre trung hiếu”, cây tre này khiến cho chúng ta nhớ lại hình ảnh “hàng tre” ở đầu bài thơ. Hai hình ảnh “hàng tre” và “cây tre trung hiếu” đã làm nên kết cấu đầu cuối tương ứng rất chặt chẽ. Nếu như mỗi người là một cây tre trung hiếu thì cả dân tộc sẽ là hàng tre trung hiếu với Bác. Tác giả nhắc lại một lần nữa hình ảnh “cây tre” để nhấn mạnh tình cảm gắn bó, trung thành với Bác, nguyện suốt đời thực hiện lý tưởng của người và đây cũng chính là ước nguyện của cả dân tộc.

Theo bước chân của nhà thơ Viễn Phương từ khi đến lăng cho tới khi ra về chúng ta nhận ra được dòng cảm xúc của nhà thơ thể hiện một cách liền mạch và càng lúc càng phát triển. Nỗi đau cứ được dâng cao và đến khổ cuối thì dâng lên tới đỉnh điểm, nỗi đau ấy cũng chính là tiếng lòng của tất cả người dân Việt Nam.

Tác giả chưa bao giờ có ước muốn sẽ làm điều gì đó cao cả, kỳ vĩ mà chỉ là “con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương” mà thôi, đó là những hình ảnh vô cùng nhỏ bé, bình dị nhưng đó là tất cả những gì tác giả muốn, miễn sao được ở bên Bác. Với hình ảnh “cây tre” ở khổ 1 là hình ảnh bất khuất, kiên cường thì đến khổ thơ cuối này hình ảnh “cây tre trung hiếu chốn này” là hình ảnh nghệ thuật nhân hóa, đó là tấm lòng thành kính, trung thành của tác giả dâng lên Bác, hay nói rộng ra đó là tình cảm của toàn dân tộc kính dâng lên người.

Nếu như ở mấy khổ trên địa từ nhân xưng, chủ thể nói tới là tác giả, là “con” thì ở khổ cuối chủ thể đó bị ẩn đi, không phải tác giả không nhắc tới nữa mà lúc này chủ thể là tất cả người con Việt Nam chứ không riêng gì tác giả nữa. Khổ cuối khép lại đó là cảm giác chia tay, xa cách về không gian địa lý, thời gian nhưng nó lại gần gũi trong ý chí và tình cảm, lòng trung hiếu

Bài thơ “viếng lăng Bác” thể hiện lòng thành kính và xúc động của nhà thơ khi được vào viếng lăng Bác. Bài thơ có giọng điệu trang trọng, nhiều hình ảnh ẩn dụ và gợi cảm, ngôn ngữ giản dị mà cô đúc. Bài thơ chính là tâm tình, là lời tri ân, sự biết ơn của con dân gửi tới vị cha già kính yêu của dân tộc, cả đời gắn bó, sát cánh, hy sinh cho sự nghiệp của cả dân tộc.

Phân tích khổ 4 Viếng lăng Bác - mẫu 3

Bài thơ Viếng lăng Bác đã thể hiện nỗi niềm xúc động, lòng biết ơn sâu sắc của Viễn Phương - một nhà thơ miền Nam lần đầu ra Hà Nội và hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác. Cấu trúc của bài thơ như một hành trình miêu tả khoảnh khắc khi tác giả đứng trước lăng, khi xếp hàng và khi đứng trước di hài của Bác. Khổ thơ kết thúc bài thơ là một dấu lặng kết thúc hành trình ấy, bộc lộ niềm lưu luyến của Viễn Phương khi tạm biệt Bác trở về miền Nam:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”

Dòng thơ đầu tiên cất lên bỗng trào dâng mãnh liệt cảm xúc nghẹn ngào, như rưng rưng hàng lệ nơi khóe mắt: "Mai về miền Nam thương trào nước mắt". Chỉ một chữ "thương" quen thuộc gắn với câu nói của người miền Nam mà như gói trọn biết bao thương yêu, xót xa và kính trọng. Câu thơ cất lên mà như nghẹn lại, xót xa đến vô cùng.

Tiếc nuối có, thương nhớ có, bởi vậy mà nhân vật trữ tình giã biệt mà vẫn khắc khoải bịn rịn, bày tỏ ước nguyện cá nhân:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”

Điệp ngữ "muốn làm" được nhắc đi nhắc lại đến ba lần cùng nhịp thơ dồn dập thể hiện khao khát chân thành, tha thiết của tác giả. Muốn làm con chim, đóa hoa tỏa hương, cây tre trung hiếu, tất cả đều là những sự vật đời thường giản dị, gắn liền với thiên nhiên gần gũi. Muốn làm con chim để để mang tiếng hót vui vẻ đến với Bác, làm đóa hoa để tỏa hương tô điểm cuộc đời, đặc biệt là cây tre gần gũi ẩn dụ cho vẻ đẹp thủy chung, son sắt của người Việt. Hình ảnh cây tre xuất hiện ở đầu bài thơ được nhấn mạnh với kết cấu đầu cuối tương ứng như một lời thề sắt son của nhà thơ nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung nguyện đi theo con đường của Bác. Mai trở về miền Nam nhưng tấm lòng chân thành đã được gửi lại trọn vẹn nơi lăng Bác. Ba câu thơ khuyết chủ ngữ ấy như là lời thay mặt cho triệu triệu đồng bào Việt Nam bày tỏ cảm xúc thành kính, tha thiết tới lãnh tụ.

Cả bài thơ là tiếng lòng của người con ra thăm lăng Bác, đặc biệt cảm xúc ấy được kết tinh trong khổ thơ cuối. Dù Bác đã ra đi nhưng Bác sẽ còn sống mãi trong trái tim của Viễn Phương nói riêng, nhân dân Việt Nam ta nói chung. Ước nguyện cao đẹp được hóa thân để được bên Bác cũng là ước nguyện đẹp nhất, chất chứa trọn vẹn tấm lòng trân quý của nhân dân ta.

Phân tích khổ 4 Viếng lăng Bác - mẫu 4

Bài thơ Viếng lăng Bác đã thể hiện nỗi niềm xúc động, lòng biết ơn sâu sắc của Viễn Phương - một nhà thơ miền Nam lần đầu ra Hà Nội và hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác. Cấu trúc của bài thơ như một hành trình miêu tả khoảnh khắc khi tác giả đứng trước lăng, khi xếp hàng và khi đứng trước di hài của Bác. Khổ thơ kết thúc bài thơ là một dấu lặng kết thúc hành trình ấy, bộc lộ niềm lưu luyến của Viễn Phương khi tạm biệt Bác trở về miền Nam:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”

Dòng thơ đầu tiên cất lên bỗng trào dâng mãnh liệt cảm xúc nghẹn ngào, như rưng rưng hàng lệ nơi khóe mắt: "Mai về miền Nam thương trào nước mắt". Chỉ một chữ "thương" quen thuộc gắn với câu nói của người miền Nam mà như gói trọn biết bao thương yêu, xót xa và kính trọng. Câu thơ cất lên mà như nghẹn lại, xót xa đến vô cùng.

Tiếc nuối có, thương nhớ có, bởi vậy mà nhân vật trữ tình giã biệt mà vẫn khắc khoải bịn rịn, bày tỏ ước nguyện cá nhân:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”

Điệp ngữ "muốn làm" được nhắc đi nhắc lại đến ba lần cùng nhịp thơ dồn dập thể hiện khao khát chân thành, tha thiết của tác giả. Muốn làm con chim, đóa hoa tỏa hương, cây tre trung hiếu, tất cả đều là những sự vật đời thường giản dị, gắn liền với thiên nhiên gần gũi. Muốn làm con chim để để mang tiếng hót vui vẻ đến với Bác, làm đóa hoa để tỏa hương tô điểm cuộc đời, đặc biệt là cây tre gần gũi ẩn dụ cho vẻ đẹp thủy chung, son sắt của người Việt. Hình ảnh cây tre xuất hiện ở đầu bài thơ được nhấn mạnh với kết cấu đầu cuối tương ứng như một lời thề sắt son của nhà thơ nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung nguyện đi theo con đường của Bác. Mai trở về miền Nam nhưng tấm lòng chân thành đã được gửi lại trọn vẹn nơi lăng Bác. Ba câu thơ khuyết chủ ngữ ấy như là lời thay mặt cho triệu triệu đồng bào Việt Nam bày tỏ cảm xúc thành kính, tha thiết tới lãnh tụ.

Cả bài thơ là tiếng lòng của người con ra thăm lăng Bác, đặc biệt cảm xúc ấy được kết tinh trong khổ thơ cuối. Dù Bác đã ra đi nhưng Bác sẽ còn sống mãi trong trái tim của Viễn Phương nói riêng, nhân dân Việt Nam ta nói chung. Ước nguyện cao đẹp được hóa thân để được bên Bác cũng là ước nguyện đẹp nhất, chất chứa trọn vẹn tấm lòng trân quý của nhân dân ta.

Phân tích khổ 4 Viếng lăng Bác - mẫu 5

“Tháp Mười đẹp nhất bông sen

Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”

Những câu thơ của nhà thơ Bảo Định Giang là những nét vẽ tài hoa về nhân cách phẩm chất đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Dân tộc Việt Nam mãi mãi tự hào vì có một vị cha già kính yêu cả cuộc đời đã hiến dâng cho non sông đất nước. Tri ân người rất nhiều văn nghệ sĩ đã có những vần thơ đẹp ca ngợi Bác. Trong đó bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương chính là tấm lòng thầm kính ngưỡng vọng là nén tâm hương mà nhà thơ ngưỡng vọng dâng lên Bác kính yêu. Bài thơ kết thúc với dòng cảm xúc:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Bài thơ Viếng lăng Bác được Viễn Phương sáng tác trong dịp tác giả đến thăm nơi yên nghỉ cuối cùng của Bác Hồ. Bài thơ thể hiện niềm xúc động chân thành, lòng yêu kính, biết ơn sâu sắc và nỗi niềm thương nhớ Bác Hồ của nhà thơ khi được đến viếng lăng Bác. Đến khổ cuối của bài thơ Viễn Phương đã bộc lộc niềm lưu luyến tiếc thương khi tạm biệt Bác trở về miền Nam.

Thương là xót xa vì nỗi đau mất mát đi người cha già kính yêu, nỗi đau ấy trào dâng thành nước mắt, mà cả dân tộc Việt Nam không kiềm lại được. Nỗi đau niềm thương tiếc của nhân dân Việt Nam đối với Bác làm cảm động cả tấm lòng trời đất khi:

“Suốt mấy đêm dài đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa”

Trong phút giây xúc động thiêng liêng, đứng trước sự vĩ đại sự hi sinh, lòng tận tụy của Người khiến nhà thơ xúc động tự nguyện muốn dâng hiến cuộc đời mình:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Chân bước đi mà lòng còn ngoảnh lại, lưu luyến không muốn rời, sức mạnh giá trị đạo đức Hồ Chí Minh níu kéo lòng người ở lại. Điệp ngữ “muốn làm” lặp đi lặp lại đã diễn tả tâm trạng vừa lưu luyến nhưng cũng đầy ước nguyện. Nhà thơ nguyện ước làm con chim hót góp tiếng hát mang niềm vui đến cho Bác mỗi ngày, làm đóa hoa tỏa hương sâu sắc tô điểm cho cuộc sống đặc biệt làm “cây tre trung hiếu” chốn này, đứng cạnh mãi bên người, canh từng giấc ngủ cho người. Cũng là lời hứa nguyện sống xứng đáng với lời dạy của Người. Viễn Phương đã nói lên niềm mong ước của mình cũng như ước nguyện của tất cả mọi người dân Việt Nam muốn được gần bên Bác và lớn lên một chút:

“Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta

Ta bỗng lớn lên ở bên Người một chút.”

Phân tích khổ 4 Viếng lăng Bác - mẫu 6

Trong những áng thơ viết về Bác Hồ, Viếng lăng Bác của Viễn Phương luôn được người đọc nhắc đến với niềm xúc động và biết ơn sâu sắc. Ra đời sau khi Bác mất, bài thơ là tiếng lòng thổn thức của một người con miền Nam lần đầu được viếng lăng Bác. Đặc biệt, khổ thơ cuối cùng không chỉ là lời chia tay mà còn gửi gắm những ước nguyện hóa thân đầy xúc động, thể hiện tấm lòng trung hiếu, sự ngưỡng mộ và biết ơn vô bờ của nhà thơ đối với vị lãnh tụ kính yêu.

“Mai về miền Nam, thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ tư: “Mai về miền Nam, thương trào nước mắt” là một lời chia ly mà chan chứa yêu thương. “Mai về” là khoảnh khắc chia tay, rời xa miền Bắc, rời xa lăng Bác – nơi thiêng liêng mà người con phương Nam lần đầu được đến viếng. Từ “thương” kết hợp với hình ảnh “trào nước mắt” khiến xúc cảm được đẩy lên cao độ. Đó là giọt nước mắt của nỗi buồn khi phải xa Bác, của niềm tiếc nuối khi chưa được ở lâu bên Người, và cũng là giọt nước mắt của lòng biết ơn sâu sắc. Câu thơ ngắn nhưng dư âm lại dài, chạm đến trái tim của người đọc bởi sự chân thành, tha thiết.

Ba câu thơ tiếp theo liên tiếp sử dụng mô-típ điệp cấu trúc “Muốn làm…” – như những ước nguyện chân thành, tha thiết, được cất lên từ trái tim yêu thương cháy bỏng. Ước muốn “làm con chim hót”, “làm đóa hoa”, “làm cây tre” – những hình ảnh tuy nhỏ bé, đơn sơ nhưng lại mang trong mình sự sống, vẻ đẹp, và biểu tượng cao cả. Chim là biểu tượng của tự do và sự lan tỏa niềm vui, tiếng hát. Làm con chim hót quanh lăng Bác, nhà thơ không chỉ muốn được ở mãi bên Người mà còn muốn đem lại âm thanh trong trẻo, nhẹ nhàng để ru giấc ngủ ngàn thu của Bác.

Ước muốn tiếp theo là “làm đóa hoa tỏa hương đâu đây” – một đóa hoa nhỏ giữa muôn vàn hoa trong vườn lăng, nhưng vẫn muốn góp phần tỏa hương, làm đẹp cho không gian thiêng liêng. Nếu con chim biểu trưng cho âm thanh, thì hoa là biểu trưng cho sắc hương, sự dâng hiến. Ước nguyện này cho thấy sự khiêm nhường và khao khát được cống hiến, dù chỉ là một phần nhỏ bé, nhưng vẫn là phần tử sống mãi bên Bác.

Cuối cùng, ước nguyện làm “cây tre trung hiếu” mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc nhất. Tre là biểu tượng truyền thống của dân tộc Việt Nam: kiên cường, bất khuất, dẻo dai và trung thành. Tre là hình ảnh đã xuất hiện ngay ở khổ đầu bài thơ – “Hàng tre bát ngát xanh rì / Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng” – và giờ đây được trở lại với ý nghĩa mới: làm cây tre “trung hiếu chốn này”. Đó là lời thề sắt son, là sự dâng hiến trọn vẹn cuộc đời để canh giữ cho lăng Bác, cho lý tưởng của Bác, cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. “Trung hiếu” là đức tính cao đẹp của người quân tử, người con – và khi được dùng để nói về mối quan hệ với Bác, nó thể hiện sự gắn bó không chỉ bằng tình cảm mà còn bằng hành động, lý tưởng sống.

Cả khổ thơ là một khúc hát chia ly đầy nghẹn ngào, nhưng không bi lụy. Đó là sự chia tay với tâm thế của người chiến sĩ đã thấm nhuần lý tưởng cách mạng, là lời tiễn biệt của người con mang theo di huấn của cha già dân tộc để tiếp tục hành trình sống và cống hiến. Các ước nguyện trong thơ đều nhỏ bé, giản dị, nhưng chính bởi vậy mà lại xúc động hơn cả, bởi nó được sinh ra từ tấm lòng yêu thương tha thiết và thành kính chân thành.

Ngôn ngữ thơ nhẹ nhàng, trong sáng, gần gũi, mộc mạc mà giàu cảm xúc. Hình ảnh trong khổ thơ mang tính biểu tượng cao, cách điệp cấu trúc và sử dụng các động từ “muốn làm” thể hiện khát vọng mãnh liệt, như một chuỗi khấn nguyện đầy xúc động của tác giả trước lăng Bác. Điểm đặc biệt là cảm xúc trong khổ thơ không bùng nổ mà lặng lẽ, sâu lắng, để lại dư âm da diết trong lòng người đọc.

Khổ thơ cuối cùng của bài thơ Viếng lăng Bác chính là điểm kết tinh của cảm xúc, là sự hóa thân của nhà thơ vào thiên nhiên để mãi được sống bên cạnh Bác, để giữ gìn những giá trị tốt đẹp mà Bác Hồ để lại cho dân tộc. Đó là sự tiếp nối tinh thần cách mạng, là lời hứa thầm lặng mà tha thiết, khắc ghi trong trái tim mỗi người con đất Việt. Và cũng chính bởi thế, bài thơ – đặc biệt là khổ thơ này – đã vượt qua ranh giới của thời gian để trở thành một khúc nhạc ngợi ca bất tử về tình yêu quê hương, đất nước và lòng biết ơn đối với vị Cha già vĩ đại của dân tộc.

Phân tích khổ 4 Viếng lăng Bác - mẫu 7

Trong kho tàng văn học Việt Nam hiện đại, bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương như một viên ngọc sáng thể hiện tình cảm thiêng liêng, niềm tiếc thương và sự ngưỡng mộ sâu sắc của nhân dân dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Bài thơ kết thúc bằng khổ thơ thứ tư, nơi cảm xúc lắng đọng nhất, sâu thẳm nhất được dồn nén và thăng hoa qua những ước nguyện giản dị mà xúc động:

“Mai về miền Nam, thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...”

Khổ thơ là lời từ biệt của nhà thơ với Bác, nhưng không chỉ là chia xa, mà còn là một lời thề nguyện thầm lặng: dù ở bất kỳ nơi đâu, nhà thơ vẫn muốn hiện diện bên Bác, được phụng sự, canh giữ và sống mãi trong không gian thiêng liêng của lăng Người.

Câu thơ đầu tiên mở ra khung cảnh chia tay đầy xúc cảm: “Mai về miền Nam, thương trào nước mắt”. “Mai về” – một mốc thời gian rất gần, gợi nên sự thật rằng cuộc gặp gỡ với Bác chỉ là trong chốc lát. Người con miền Nam phải trở về, để tiếp tục cuộc sống, nhưng giây phút rời xa lăng Bác lại khiến nhà thơ “thương trào nước mắt”. Giọt nước mắt ấy không phải sự yếu đuối, mà là kết tinh của lòng biết ơn, niềm thương nhớ, tình yêu quê hương đất nước và sự kính trọng sâu sắc đối với Bác. Câu thơ như một tiếng nấc nghẹn ngào, vừa là lời chia ly, vừa là một lời thề nguyện trong tim.

Ba câu thơ tiếp theo, với cấu trúc lặp “Muốn làm...”, là sự hóa thân của nhà thơ vào thiên nhiên: “Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác / Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây / Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”. Từ ngữ “muốn làm” thể hiện khát vọng tha thiết, mãnh liệt, là sự lựa chọn chủ động, thể hiện lòng thành. Dù Bác đã về với cõi vĩnh hằng, nhưng nhà thơ không muốn xa Bác. Ngay cả khi phải rời bước, ông vẫn mơ ước được hóa thành muôn vật nhỏ bé xung quanh lăng Bác để hiện diện bên Người mãi mãi.

Chim, hoa, và tre – ba hình ảnh giản dị, thân thuộc nhưng mang tính biểu tượng cao. Chim là biểu tượng của tự do, của âm thanh thanh thoát, trong trẻo – như muốn dùng lời ca ru giấc ngủ bình yên của Bác. Hoa tượng trưng cho cái đẹp, cho sự dâng hiến. Dù chỉ là “đóa hoa”, nhà thơ vẫn ước được góp phần điểm tô cho khung cảnh thanh tịnh nơi lăng Bác, như một hành động thành kính, tôn vinh. Cuối cùng là hình ảnh cây tre – biểu tượng của dân tộc, của phẩm chất kiên trung, bất khuất, dẻo dai. Cụm từ “trung hiếu” gắn liền với tre làm tăng thêm giá trị thiêng liêng của khát vọng. Nhà thơ không chỉ muốn được ở bên Bác mà còn muốn sống trọn vẹn đạo lý làm con, làm người, làm chiến sĩ trung thành với lý tưởng của Bác.

Điểm đặc biệt trong khổ thơ này là cảm xúc được thể hiện một cách nhẹ nhàng, trong sáng nhưng lại vô cùng sâu sắc. Không có những từ ngữ khoa trương, không có những biểu hiện đau thương bi lụy, Viễn Phương chỉ dùng những ẩn dụ mộc mạc nhưng đầy sức lay động để nói lên tình cảm nồng nàn của mình. Khát vọng hóa thân cũng không phải là khát vọng siêu hình, mà là khát vọng gắn bó, là lòng trung hiếu được gửi vào từng sự vật nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa.

Khổ thơ mang giọng điệu trầm lắng, tha thiết, thể hiện rõ nét đặc trưng phong cách thơ trữ tình – chính luận của Viễn Phương: kết hợp giữa cảm xúc chân thành và lý tưởng cao đẹp. Khổ thơ không chỉ là lời tiễn biệt, mà còn là lời hứa gắn bó trọn đời, thể hiện tinh thần tiếp nối lý tưởng cách mạng và đạo lý dân tộc một cách sâu sắc.

Từ khổ thơ này, người đọc không chỉ cảm nhận được tình cảm cá nhân của một nhà thơ mà còn thấy được tình cảm chung của hàng triệu người Việt Nam. Bởi Bác không chỉ là lãnh tụ, mà còn là hiện thân của hồn dân tộc, của lý tưởng, đạo đức, và lòng nhân ái. Ước nguyện của nhà thơ cũng là tiếng lòng của nhân dân – được sống bên Bác, sống như Bác, và tiếp nối những điều cao cả mà Người để lại.

Khổ thơ cuối trong Viếng lăng Bác chính là một điểm nhấn đầy xúc động, khép lại bài thơ bằng một nốt lặng sâu lắng. Nhưng đó không phải là sự kết thúc, mà là khởi đầu của một hành trình mới – hành trình sống, cống hiến và gìn giữ những lý tưởng đẹp đẽ mà Bác Hồ đã trao gửi. Chính khát vọng nhỏ bé ấy đã làm nên vĩ đại cho bài thơ, và để lại âm vang mãi trong lòng người đọc.

Phân tích khổ 4 Viếng lăng Bác - mẫu 8

Trong kho tàng thơ ca Việt Nam hiện đại, không thiếu những áng thơ ngợi ca Chủ tịch Hồ Chí Minh với tình cảm tha thiết và chân thành. Nhưng bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương lại mang một sắc thái rất riêng – nhẹ nhàng, mộc mạc mà sâu thẳm đến nao lòng. Cảm xúc được dồn nén và bung nở mạnh mẽ nhất trong khổ thơ cuối cùng, nơi lời chia tay biến thành lời nguyện ước vĩnh cửu:

“Mai về miền Nam, thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...”

Khổ thơ là sự hòa quyện giữa cảm xúc cá nhân và ý nguyện tập thể – không chỉ là tiếng lòng của riêng nhà thơ, mà còn là tâm nguyện chung của nhân dân miền Nam khi ra thăm lăng Bác.

Ngay câu đầu tiên đã khơi gợi một nỗi xúc động mạnh: “Mai về miền Nam, thương trào nước mắt”. Chỉ bảy chữ mà như có cả một dòng sông tình cảm chảy tràn. Việc phải rời xa lăng Bác khiến nhà thơ nghẹn ngào. Từ “thương” mang nhiều tầng nghĩa: thương Bác, thương quê hương, thương dân tộc... Và “nước mắt” là sự vỡ òa, là nỗi niềm không thể nén giữ. Chia xa Bác là một điều vô cùng đau xót, không chỉ vì nỗi nhớ mà còn vì lòng biết ơn khôn nguôi.

Ba câu tiếp theo là ba lần ước nguyện – giản dị mà sâu sắc. Cấu trúc “muốn làm...” được lặp lại như một lời khẩn cầu, một điệp khúc nhấn mạnh khao khát được ở gần Bác dù chỉ là những vật thể nhỏ bé. Nhà thơ không ước mơ điều lớn lao, mà chỉ mong được hóa thân thành chim, thành hoa, thành tre – những biểu tượng của sự sống, của vẻ đẹp và sự kiên cường.

Hình ảnh con chim hót là biểu tượng của sự tự do và thanh âm dịu dàng. Chim không chỉ hót để ca ngợi, mà còn như ru giấc ngủ cho Người – giấc ngủ ngàn thu nhưng vẫn sống mãi trong lòng dân. Đóa hoa thì âm thầm tỏa hương – tượng trưng cho sự hy sinh, cho tình yêu thầm lặng mà bền bỉ. Tre – biểu tượng dân tộc – lại càng đặc biệt. “Cây tre trung hiếu chốn này” không chỉ gợi đến lòng trung thành, mà còn thể hiện phẩm chất bất khuất, hiên ngang của dân tộc mà Bác chính là hiện thân cao cả nhất.

Khổ thơ là sự kết tinh tuyệt vời giữa cảm xúc chân thành và hình ảnh thơ trong sáng, mang tính biểu tượng cao. Nó không chỉ là nỗi lòng của nhà thơ, mà còn là sự gắn bó thiêng liêng của cả dân tộc với Bác. Ước nguyện hóa thân ấy chính là bản tuyên ngôn thầm lặng về tình yêu, sự ngưỡng vọng và lòng biết ơn vô hạn với Người.

Phân tích khổ 4 Viếng lăng Bác - mẫu 9

Bài thơ Viếng lăng Bác là một bản tình ca thiêng liêng mà Viễn Phương – người con miền Nam – đã dâng lên Bác Hồ kính yêu trong lần đầu tiên được ra thăm lăng Bác. Trong đó, khổ thơ cuối cùng có lẽ là đoạn thơ lắng đọng và lay động nhất bởi nó kết tinh cảm xúc và thể hiện khát vọng hóa thân vào thiên nhiên để ở mãi bên Người:

“Mai về miền Nam, thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...”

Câu thơ đầu tiên mở ra một không gian chia ly, một nỗi niềm không nói thành lời. Sau hành trình vượt hàng ngàn cây số ra tới thủ đô, được đứng trước lăng Bác là giấc mơ có thật. Nhưng “mai về miền Nam”, nhà thơ phải rời xa Bác. “Thương trào nước mắt” không đơn thuần là sự xúc động nhất thời, mà là biểu hiện sâu sắc của tình cảm dồn nén bấy lâu nay. Từ “thương” đầy chất Nam Bộ, giản dị mà tha thiết.

Ba câu thơ sau là ba ước nguyện đầy xúc động. “Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác” – để dâng tiếng ca thay lời ru cho Người. “Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây” – để làm đẹp, để góp hương thơm cho nơi yên nghỉ. “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” – để vững vàng, kiên cường như truyền thống dân tộc. Cấu trúc điệp “muốn làm” thể hiện sự chủ động, khát khao, dồn dập như muốn hóa thân ngay lập tức. Những hình ảnh thiên nhiên tuy bé nhỏ nhưng chất chứa ý nghĩa sâu xa – gắn liền với đời sống, với tâm hồn dân tộc và gắn với những gì giản dị nhất quanh lăng Bác.

Từng ẩn dụ đều gợi nhắc đến một lối sống: sống cống hiến, sống yêu thương, sống trung thành. Nhà thơ không chỉ muốn ở bên Bác về mặt không gian, mà còn muốn ở bên Bác về tinh thần, lý tưởng. Đây không còn là lời chia tay đơn thuần, mà là lời hứa gắn bó trọn đời.

Khổ thơ khép lại bài thơ bằng một cung bậc cảm xúc dâng trào, vừa xót xa, tiếc nuối, vừa thành kính, quyết tâm. Đó cũng chính là biểu tượng của một thế hệ chiến sĩ, những con người đã đi qua chiến tranh, luôn mang trong tim hình ảnh của Bác, sống vì Bác, và mong muốn được tiếp bước Người.

Phân tích khổ 4 Viếng lăng Bác - mẫu 10

Giữa biết bao bài thơ viết về Bác Hồ kính yêu, Viếng lăng Bác của Viễn Phương vẫn luôn giữ một vị trí đặc biệt trong lòng người đọc bởi cảm xúc chân thành, gần gũi mà thấm đẫm chất thiêng liêng. Khổ thơ cuối của bài thơ chính là đỉnh cao của cảm xúc, nơi nỗi nhớ Bác và khát vọng được hóa thân để gần Người vĩnh viễn dâng trào mãnh liệt:

“Mai về miền Nam, thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...”

Tình cảm của Viễn Phương dành cho Bác được dồn nén trong từng con chữ. Sau khi vào lăng viếng Bác, chứng kiến hình ảnh yên nghỉ bình yên của Người, nhà thơ không thể ngăn nổi xúc động khi phải rời xa. Câu thơ “Mai về miền Nam, thương trào nước mắt” không chỉ là sự thật về hành trình, mà còn là sự thật về trái tim. Nó diễn tả một tình cảm chân chất mà mãnh liệt – người miền Nam thương Bác, nhớ Bác, đau đáu hướng về Bác.

Ước muốn hóa thân trong ba câu tiếp theo không phải là mong ước viển vông mà là biểu tượng thiêng liêng của lòng tôn kính. Chim hót, hoa thơm, tre trung hiếu – đều là những biểu tượng gắn liền với tâm hồn Việt Nam. Nhưng ở đây, những vật ấy còn trở thành hiện thân của người chiến sĩ cách mạng: âm thầm, bền bỉ, vững vàng và trung thành. Nhà thơ không muốn rời xa Bác, mà muốn hóa thành một phần của không gian quanh lăng – nơi Người yên nghỉ, nơi nhân dân gửi gắm biết bao nỗi niềm.

Khổ thơ là minh chứng cho sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và nghệ thuật. Cấu trúc điệp và hình ảnh biểu tượng được sử dụng giản dị mà hiệu quả, gợi nên một không khí thành kính, xúc động. Không quá đau thương, nhưng vẫn khiến người đọc nghẹn ngào. Không cần lời hùng biện, nhưng vẫn thấm thía đến tận đáy lòng.

Viếng lăng Bác nói chung và khổ thơ cuối nói riêng không chỉ là tiếng lòng của một nhà thơ, mà còn là bản hòa ca chung của hàng triệu trái tim Việt Nam – những con người luôn hướng về Bác bằng tất cả tình yêu thương, lòng biết ơn và sự gắn bó thủy chung.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học