10+ Phân tích khổ 5 6 bài Ánh trăng (điểm cao)

Phân tích khổ 5 6 bài Ánh trăng điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Phân tích khổ 5 6 bài Ánh trăng (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Phân tích khổ 5 6 bài Ánh trăng

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Duy: Là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến, với phong cách mộc mạc, chân thành, gần gũi.

- Giới thiệu bài thơ “Ánh trăng”: Là bài thơ giàu triết lý nhân sinh, thể hiện thái độ suy ngẫm, trăn trở của con người với quá khứ.

- Dẫn vào khổ thơ 5, 6: Là đoạn kết bài thơ – nơi cảm xúc lắng đọng và tư tưởng thấm sâu nhất, chứa đựng sự thức tỉnh đầy xúc động của nhà thơ.

II. Thân bài

1. Khái quát về nội dung 4 khổ thơ trước

- Khổ 1–2: Kể lại quãng thời gian gắn bó với thiên nhiên, với trăng thời thơ ấu, chiến tranh.

- Khổ 3–4: Cuộc sống thay đổi, nhà thơ sống trong thời bình, đầy đủ ánh điện – “vầng trăng đi qua ngoài cửa sổ” như biểu tượng cho quá khứ bị lãng quên.

2. Phân tích khổ 5

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

Có cái gì rưng rưng

Như là đồng là bể

Như là sông là rừng”

Quảng cáo

- Hành động “ngửa mặt lên nhìn mặt”: Đối diện trực tiếp với trăng, là hành động đối diện với quá khứ, với chính mình.

- “Rưng rưng”: Từ láy gợi xúc cảm bồi hồi, xúc động, như muốn khóc – thể hiện sự hối hận, nghẹn ngào khi nhận ra mình đã lãng quên những điều xưa cũ.

- Hình ảnh “đồng, bể, sông, rừng”: Là thiên nhiên từng gắn bó sâu nặng với con người trong chiến tranh, là biểu tượng cho những kỷ niệm nghĩa tình.

- Gợi không gian bao la, mênh mang của quá khứ.

- Cũng là hình ảnh ẩn dụ cho tình nghĩa thủy chung mà con người từng có với thiên nhiên, với trăng, với đồng đội.

=> Đoạn thơ là sự thức tỉnh của lương tri, là tiếng lòng ăn năn, xót xa.

3. Phân tích khổ 6

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

Quảng cáo

- “Trăng cứ tròn vành vạnh”: Dù con người thay đổi, trăng – biểu tượng của quá khứ, của nghĩa tình – vẫn thủy chung, trọn vẹn.

- Gợi sự đối lập giữa thiên nhiên thủy chung và con người vô tình.

- “Kể chi người vô tình”: Trăng không trách móc, không oán hờn, vẫn lặng lẽ soi sáng.

- Mang ý nghĩa nhân văn: quá khứ dù bị quên lãng vẫn luôn hiện diện và bao dung.

- “Im phăng phắc”: Gợi sự tĩnh lặng tuyệt đối, nhưng chính sự im lặng ấy lại là lời nhắc nhở thấm thía.

- “Giật mình”: Cao trào cảm xúc, là sự tự vấn, thức tỉnh sâu sắc trước thái độ vô ơn với quá khứ.

=> Khổ thơ khép lại bài thơ bằng một triết lý: quá khứ là điều thiêng liêng, cần được trân trọng và không bao giờ nên lãng quên.

III. Kết bài

- Khẳng định giá trị nội dung: Khổ 5, 6 mang tính chất triết lý nhân sinh sâu sắc, đánh thức lương tri và mối quan hệ giữa con người với quá khứ.

- Khẳng định giá trị nghệ thuật: Ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh biểu tượng sâu xa, nhịp thơ lắng đọng tạo chiều sâu cảm xúc.

- Liên hệ: Bài học về sự thủy chung, biết ơn, và trân trọng những giá trị xưa cũ trong cuộc sống hôm nay.

Quảng cáo

Phân tích khổ 5 6 bài Ánh trăng - mẫu 1

Bao trùm cả bài thơ “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy là một nỗi day dứt, ăn năn cứ kéo dài triền miên khôn nguôi. Ở ngay cái tên bài thơ cũng đủ để ta thấy được chủ đề của cả bài thơ. Bởi lẽ, khác với "vầng trăng” là hình ảnh cụ thể thì "ánh trăng” là những tia sáng. Tia sáng ấy đã soi rọi vào góc tối của con người, đánh thức lương tâm của con người, làm sáng bừng lên cả một quá khứ đầy ắp những kỉ niệm đẹp đẽ, thân thương.

Khổ thơ thứ năm là hình tượng vầng trăng và cảm xúc, suy ngẫm của nhà thơ. Còn đến khổ thơ thứ sáu là những suy ngẫm và triết lí nhân sinh của nhà thơ qua hình tượng trăng:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng là bể

như là sông là rừng”

Từ “mặt” trong khổ thơ được dùng với nghĩa gốc và nghĩa chuyển – mặt trăng, mặt người – trăng và người cùng đối diện đàm tâm. Với tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” người đọc cảm nhận sự lặng im, thành kính và trong phút chốc cảm xúc dâng trào khi gặp lại vầng trăng: “có cái gì rưng rưng”. Rưng rưng của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên lạnh nhạt với người bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u mê mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ của chính mình trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái “rưng rưng”, cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính.

Và trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng - biểu tượng đẹp đẽ của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về chiếm trọn tâm tư. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng, “như là đồng là bể, như là sông là rừng”. Đồng, bể, sông, rừng, những hình ảnh gắn bó nơi khoảng trời kỉ niệm.

Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập cùng biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như “có cái gì rưng rưng”,đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc.

Nhà thơ lặng lẽ đối diện với trăng trong tư thế lặng im có phần thành kính: “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Từ “mặt” cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa dạng nghĩa của ý thơ. Nhà thơ đối diện với mặt trăng, người bạn tri kỉ mình đã lãng quên, vầng trăng đối diện với con người hay nói cách khác quá khứ đối diện với hiện tại, thủy chung tình nghĩa đối diện với bạc bẽo vô tình và lãng quên để tự thú về sự bội bạc của mình.

Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện. Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình. Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sông” và có “bể”.

Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.

Những suy ngẫm và triết lí nhân sinh của nhà thơ được thể qua hình tượng trăng ở khổ thơ cuối:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”

Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu. Rồi đến hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người.

Trong cuộc gặp lại không lời này trăng và người như có sự đối lập. Trăng đã trở thành biểu tượng cho sự bất biến, vĩnh hằng không đổi thay. “Trăng cứ tròn vành vạnh” biểu tượng cho sự tròn đầy thủy chung, trọn vẹn của thiên nhiên, quá khứ dù cho con người đổi thay “vô tình”.

Ánh trăng còn được nhân hóa “im phăng phắc” không một lời trách cứ, gợi liên tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc, bao dung, độ lượng của người bạn thủy chung, tình nghĩa, nhắc nhở nhà thơ và mỗi chúng ta: con người có thể vô tình quên nhưng thiên nhiên nghĩa tình quá khứ luôn tròn đầy bất diệt.

Tình cảm của trăng, tấm lòng của trăng chính là tình cảm của những người đồng chí, đồng đội, đồng bào, nhân dân. Sự im lặng ấy làm nhà thơ “giật mình” thức tỉnh, cái “giật mình” của lương tâm nhà thơ thật đáng trân trọng, nó thể hiện sự suy nghĩ, trăn trở tự đấu tranh với chính mình để sống tốt hơn. Giật mình để không chìm vào lãng quên. Giật mình để không đánh mất quá khứ. Con người giật mình trước ánh sáng lặng lẽ là sự thức tỉnh của nhân dân cách trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Dòng thơ cuối dồn nén biết bao tâm sự, lời sám hối ăn năn dù không cất lên nhưng chính vì thế càng trở nên ám ảnh, day dứt. Qua đó Nguyễn Duy muốn gửi đến mọi người lời nhắc nhở về lẽ sống, đạo đức lí ân nghĩa thủy chung.

Trong cuộc gặp lại không lời này, trăng va người như có sự đối lập. Trăng – hình ảnh của thiên nhiên, trong cảm nhận của con người, giờ đây theo quy luật tuần hoàn của nó, vẫn chiếu sáng, vẫn “tròn vành vạnh” dẫu cho “người vô tình”. Suốt bài thơ, vầng trăng luôn được miêu tả gắn với các định ngữ (“tình nghĩa”, “tròn”), đến khổ cuối kết tinh trong hình ảnh “tròn vành vạnh”, đó là ân nghĩa thủy chung, là những giá trị tốt đẹp của quá khứ mãi vẹn nguyên. Cái im lặng của trăng, cái ánh sáng dịu mát của trăng không phải là một sự bất động mà lại làm cho con người suy ngẫm về mình.

Con người như có sự ân hận, xót xa vì đã “vô tình”, vô tình với trăng cũng là vô tình với cuộc sống, với con người và cả với những gì thân thuộc, với quá khứ, với hiện tại. Cái “im phăng phắc”, sự im lặng đầy tình nghĩa, không một lời trách cứ mà có phần nghiêm khắc của trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng lặng lẽ là sự bừng tỉnh của nhân cách, trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó là một nỗi ăn năn nhân bản, thức tỉnh tâm linh, làm đẹp con người. Cái “giật mình” chứa đựng cả tin yêu, hi vọng. Sự xao động trong lặng yên này như một mạch nước ngầm vọt trào lên sẽ xua đi bao lỗi lầm để vững vàng tạo một cuộc sống đẹp đẽ.

Giọng thơ từ thiết tha đến trầm lắng trong cảm xúc và suy tư lặng lẽ. Không phải ngẫu nhiên mà trong bài tác giả nhiều lần nhắc đến “vầng trăng tròn”, còn đến đây lại nhắc đến Ánh trăng và tên tập thơ cũng là Ánh trăng. “Vầng trăng tròn” để nói về quá khứ thủy chung, tình nghĩa, vẹn nguyên, còn “ánh trăng” để nói đến vầng hào quang của quá khứ, ánh sáng của lương tâm, của đạo đức, cái ánh sáng rọi soi, thức tỉnh, để xua đi khuất tối trong tâm hồn.

Hình ảnh thơ đến đây gợi ra chiều sâu tư tưởng triết lí: vầng trăng không chỉ là hiện thân cho vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, hơn thế, trăng còn là vẻ đẹp bình dị mà vĩnh hằng của đời sống. Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ kể chi người “vô tình” là biểu tượng cho sự bao dung, độ lượng, cho nghĩa tình thủy chung, trọn vẹn, trong sáng, vô tư, không đòi hỏi sự đền đáp. Đó chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thơ từ thời chiến tranh chống Mĩ.

Vầng trăng cứ tròn vành vạnh tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên, chẳng thể mờ phai. “Ánh trăng im phăng phắc” chính là người bạn, nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc đang nhắc nhở nhà thơ (và cả trong mỗi chúng ta). Con người có thể vô tình, lãng quên, nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Ánh trăng vì thế không chỉ là chuyện của một người, một thế hệ – thế hệ từng sống hào hùng suốt một thời đánh giặc, mà có ý nghĩa với nhiều người, với mọi thời. Nó có ý nghĩa cảnh tỉnh, gợi cho mọi người sống ý nghĩa, sống đẹp, xứng đáng với, những người đã khuất, xứng đáng với chính mình, trân trọng quá khứ để vững bước trên đường tới tương lai.

Bài thơ nói chuyện trăng mà lại là chuyện đời, khơi đúng cái mạch nguồn đạo lí truyền thống của dân tộc: thủy chung, nghĩa tình, uống nước nhớ nguồn, lời thơ thấm thía, xúc động, bởi trước hết nó là lời tự nhắc nhở với giọng trầm tĩnh mà lắng sâu.

Phân tích khổ 5 6 bài Ánh trăng - mẫu 2

Trăng là một đề tài quen thuộc trong thơ ca. Trăng như một biểu tượng thơ mộng gắn với tâm hồn thi sĩ. Nhưng có một nhà thơ cũng viết về trăng, không chỉ tìm thấy ở đấy cái thơ mộng, mà còn gửi gắm những nỗi niềm tâm sự mang tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là trường hợp bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy.

Vầng trăng đã từng gắn bó với tuổi thơ, với cuộc đời người lính, đã trở thành người bạn tri kỉ, ngỡ không bao giờ quên. nhưng hoàn cảnh sống đổi thay, con người cũng thay đổi, có lúc cũng trở nên vô tình. Sau chiến thắng trở về thành phố, quen ánh điện cửa gương, khiến cho vầng trăng tình nghĩa vô tình bị lãng quên. nhưng một tình huống đời thường xảy ra làm cho con người phải giật mình tỉnh ngộ, phải đối mặt với vầng trăng mà sám hối:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

Có cái gì rưng rưng

Như là đồng là bể

Như là sông là rừng.”

Rưng rưng là biểu hiện xúc động, nước mắt đang ứa ra, sắp khóc. Giọt nước mắt làm cho lòng người thanh thản lại, trong sáng lại. Bao kỉ niệm đẹp ùa về, tâm hồn gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với đồng với bể,với sông với rừng. Cấu trúc câu thơ song hành với các biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ cho thấy ngòi bút Nguyễn Duy thật tài hoa. Đoạn thơ hay ở chất thơ bộc bạch chân thành, ở tính biểu cảm, ngôn từ và hình ảnh thơ đi vào lòng người, khắc sâu một cách nhẹ nhàng mà thấm thía những gì nhà thơ muốn tâm sự với chúng ta. Khổ thơ cuối mang hàm ý độc đáo và sâu sắc:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình.”

Tròn vành vạnh là trăng rằm, một vẻ đẹp viên mãn. Trăng vẫn thuỷ chung mặc cho ai thay đổi, vô tình với trăng. Ánh trăng im phăng phắc, không một lời trách cứ. Trăng bao dung và độ lượng biết bao. Tấm lòng bao dung độ lượng ấy khiến cho ta phải giật mình. Sự giật mình để tự lột xác, để trở về. Trở về với chính mình tốt đẹp xưa kia. Đó là cái giật mình để tự hoàn thiện.

Tóm lại, với giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng, đoạn thơ trên đã gây nhiều xúc động cho người đọc. Nó như là lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc chân thành. Qua đoạn thơ, tác giả muốn nói rằng: phải thuỷ chung, trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt son với nhân dân, với đất nước, và ngay với chính bản thân mình.

Phân tích khổ 5 6 bài Ánh trăng - mẫu 3

  “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” – đó là truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống ấy đã được nhắc đến rất nhiều trong các tác phẩm văn học từ bao đời nay. Chỉ bàn đến các tác phẩm văn học hiện đại lớp 9, hẳn chúng ta đều biết đến các tác phẩm thuộc chủ đề này: “Bếp lửa” của Bằng Việt, “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Qua các bài thơ, các tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm về một lẽ sống ân nghĩa thủy chung cao quý trong cuộc đời của mỗi con người.

Bằng hình tượng “Ánh trăng” thấm đượm ý nghĩa nhân văn và tư tưởng triết luận, Nguyễn Duy đã thẳng thắn và quả cảm gửi tới chúng ta một bức thông điệp tha thiết, đẹp đẽ: “Hãy lắng lại một phút cái chen lấn, bận bịu của cuộc sống để nhìn lại bản thân mình!” – để trở về với cội nguồn đạo lý “nhớ nguồn” của dân tộc thông qua việc xây dựng nhân vật trữ tình biết tự soi rọi, tự ý thức về những lầm lỗi của mình, để hướng thiện.

Lời nhắn nhủ của nhà thơ giống như một câu chuyện nhỏ với giọng điệu tâm tình. Đây là câu chuyện của chính nhà thơ. Lời thơ mở đầu như đưa người đọc trở về với quá khứ tuổi thơ của tác giả với một giọng kể nhỏ nhẹ. Đó là một tuổi thơ gắn bó thân thiết với thiên nhiên. Tuổi thơ được cảm nhận những điều kì thú của thiên nhiên. Đến khi trở thành người lính, sống ở trong rừng vầng trăng lại thành tri kỉ. Người chiến sĩ có thể nằm ngủ dưới trăng, đứng gác dưới trăng, trăng cùng chia sẻ những gian lao của cuộc đời người lính. Trăng cũng đã cùng vui niềm vui thắng trận của người chiến sĩ. Rõ ràng tình cảm của người chiến sĩ và trăng là tình cảm keo sơn gắn bó, tưởng như tình cảm đó gắn bó mãi mãi. Nhưng câu chuyện chuyển biến về hiện tại, điều “ngỡ không bao giờ quên” bây giờ đã quên. Giọng thơ như trầm lắng lại với nét trầm ngâm, suy tư khi kể tới. Cảnh phồn hoa nơi đô thị tấp nập, đời sống của con người cũng bắt đầu thay đổi. Ánh sáng của điện đã thay cho ánh sáng của trăng. Bởi thế mà lòng người lúc này cũng thay đổi. Vẫn là vầng trăng xưa, bây giờ vầng trăng ấy lại đi qua ngõ. Thế nhưng người bạn ấy bây giờ đã thành người dưng tức là không hề quen biết. Sự đổi thay này diễn ra trong lòng người lính. Anh đã quên đi người bạn năm xưa, người bạn đã từng chịu chung gian khổ ở rừng, cùng gắn bó với anh tuổi ấu thơ. Giọng thơ thầm thì như lời trò chuyện. Anh đang trò chuyện với chính mình, suy nghĩ về việc mình đã thay đổi tình cảm quên đi vẻ đẹp của thiên nhiên, bình dị. Phải chăng, sự suy ngẫm này như một sự sám hối, tự trách mình. Sống trong hiện tại mà quên đi quá khứ, sống trong hòa bình có đầy đủ vật chất mà quên đi những ngày gian khổ.

Nhưng nhà thơ không dừng lại ở đó mà còn sáng tạo ra một cuộc sống chân thật mà cũng rất quen thuộc xảy ra ở đô thị đó là hệ thống đèn điện tắt cả. Một không gian phòng - đinh tối om. Người chiến sĩ cũng giống như bao người khác vội bật tung cửa sổ, đột ngột thấy vầng trăng. Như vậy trăng xưa lại đến với người vẫn tròn vẫn đẹp và thuỷ chung với mọi người.

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng, là bể

như là sông, là rừng”

Người ngắm trăng và suy ngẫm bâng khuâng “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Hai chữ “mặt” trong một vần thơ, mặt trăng và mặt người đối diện nhau. Đó là nhìn mặt tri kỉ, mặt của tình nghĩa mà bấy lâu nay mình dửng dưng. Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Trăng chẳng nói chẳng trách nhưng tâm trạng của người lính có gì đó rưng rưng. Phải chăng đó là tâm trạng xúc động nghẹn ngào. Nước mắt như chực ứa ra. Bao kỉ niệm đẹp của một đời người đã ùa về trong tâm trí người chiến sĩ. Từ "rưng rưng" gợi tả nỗi xúc động của thi sĩ. Những kỷ niệm ngày nào bấy lâu tưởng bị chôn vùi nay lại ùa về đánh thức tâm hồn người trong cuộc "như là đồng là bể, như là sông là rừng”. Câu trúc của câu thơ sóng đôi kết hợp với phép tu từ so sánh, từ “là" được nhắc lại bốn lần cho ta thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa. Ông đã gợi ta được sự gắn bó chan hòa với thiên nhiên của người chiến sĩ trong quá khứ. Bởi lẽ nhớ tới đồng, tới sông, tới bể là nói tới thời ấu thơ, nói tới rừng là nói tới thời chiến tranh. Hai hình ảnh thơ này được lặp lại ở khổ thơ đầu. Như vậy vầng trăng trong đoạn thơ không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của quá khứ tình nghĩa. Vầng trăng đã đánh thức dậy tất cả, từ những năm tháng hoa niên cho đến khi cầm súng hành quân đuổi giặc dưới những cánh rừng. Hóa ra những ký ức đẹp đẽ ấy đã không mất đi và con người không phải hoàn toàn vô tâm đến thế. Ký ức ấy chỉ tạm lắng xuống, con người trong lúc bận rộn có thể lãng quên đi nhưng chỉ cần một tác động nhỏ nào đó, chúng sẽ sống dậy vẹn nguyên, thậm chí còn đằm sâu hơn, tạo nên vẻ đẹp không gì sánh nổi của tâm hồn con người.

Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm tong suy tư, trong chiêm nghiệm về "vầng trăng tình nghĩa" một thời:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”

Bài thơ dừng ở cảm xúc "rưng rưng" cũng đã rõ chủ đề. Nhưng thêm một đoạn cuối, ý tưởng bài thơ được đẩy cao thêm, rõ hơn và mạnh hơn trong sự bình luận về một thái độ sống. Hình ảnh "vầng trăng” còn được nhà thơ nhìn lại "tròn vành vạnh" thật là đẹp, một cái đẹp viên mãn không hề bị khiếm khuyết dù ai kia thay đổi, vô tình. Ánh trăng sáng tròn đầy hay chính là cái đẹp của tình nghĩa thủy chung, nhân hậu? Ánh trăng vừa nghiêm khắc, lạnh lùng, vừa bao dung độ lượng: “kể chi người vô tình”. Chính ánh trăng vô ngôn, không một lời trách cứ ấy đã khiến cho “người vô tình” thấy rõ cái khiếm khuyết của bản thân mà không khỏi “giật mình“ tỉnh ngộ. Thật khó diễn tả cho hết tâm trạng của con người lúc ấy, biết bao ý nghĩa hàm ẩn trong hai chữ "giật mình". Cái "giật mình" chân thành thay cho một lời sám hối ăn năn. Dù lời sám hối ấy không được cất lên nhưng chính vì thế nó lại làm cho ý thơ trở nên ám ảnh, day dứt hơn. Cả bài thơ là vô nhân xưng, đến đây tác giả mới xưng "ta" để nhận lỗi, để tạ tội. Một cái giật mình tái mặt khi nhận ra chân tướng của chính mình. Đằng sau cái giật mình ấy người đọc cảm nhận được niềm ân hận day dứt của một con người đã nghiêm khắc nhìn thẳng vào mình để nhận ra cái sai của mình. Người xưa hay nói "trong cái rủi có cái may". Một sự cố rất bình thường của nền văn minh hiện đại đã thức tỉnh con người trở về với những giá trị cao đẹp, vĩnh hằng. Đó chính là cái hay và độc đáo của bài thơ có sức cảm hóa lòng người.

Đọc bài thơ người đọc đều cảm nhận thấy đây không chỉ là câu chuyện riêng của nhà thơ mà cũng là chuyện của mình. Từ câu chuyện ấy gợi ra cho người đọc sự suy ngẫm và liên tưởng tới cách sống của chính mình. Nhà thơ tâm sự với bạn đọc những điều sâu kín nơi lòng mình nhưng cũng là để gửi tới người đọc một bức thông điệp về cách sống đẹp trong hoàn cảnh đất nước hòa bình. Qua tâm sự sâu kín của Nguyễn Duy ở bài thơ "Ánh trăng", chúng ta như được thanh lọc lại tâm hồn mình, như lay động miền ký ức mà có lúc vô tình chúng ta đã lãng quên. Mong sao những ai từng ở với sông, với biển, với đồng, với rừng… trong những năm tháng gian lao ấy luôn luôn có được tình cảm này.

Phân tích khổ 5 6 bài Ánh trăng - mẫu 4

Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ. Con người không còn muốn trốn chạy vầng trăng, trốn chạy cả bản thân mình được nữa. Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn. Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỷ ngày nào. Cách viết thật lạ và sâu sắc – dùng những từ không trực tiếp để diễn tả sự xúc động cảm động chợt dâng trào trong lòng anh khi gặp lại vầng trăng.

Cảm xúc “rưng rưng”: Tâm hồn đang rung động, xao xuyến, gợi nhớ gợi thương. Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao. Sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm ùa dậy ở tâm trí nhà thơ bao kỷ niệm quá khứ tốt đẹp khi cuộc sống còn quá nghèo nàn, gian lao. Lúc ấy con người với thiên nhiên trăng là tri kỷ, tình nghĩa.

Khổ thơ kết lại bài thơ bằng hai vế đối lập mà song song:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

… Đủ cho ta giật mình”

Ở đây có sự đối lập giữa “tròn vành vạnh” và “kẻ vô tình”, giữa cái im lặng của ánh trăng với sự “giật mình” thức tỉnh của con người. Vầng trăng có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Hình ảnh “vầng trăng tròn vành vạnh”, ngoài nghĩa đen là vẻ đẹp tự nó và mãi mãi vĩnh hằng của cuộc sống còn có nghĩa tượng trưng cho vẻ đẹp của nghĩa tình quá khứ, đầy đặn, thuỷ chung, nhân hậu bao dung của thiên nhiên, của cuộc đời, con người, nhân dân, đất nước.

Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” có ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Sự không vui, sự trách móc trong lặng im của vầng trăng là sự tự vấn lương tâm dẫn đến cái “giật mình” ở câu thơ cuối. Cái “giật mình” là cảm giác và phản xạ tâm lý có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình.

Cái “giật mình” của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên. Thiên nhiên thật nghiêm khắc, lạnh lùng nhưng cũng thật ân tình, độ lượng bao dung, vầng trăng và thiên nhiên là trường tồn, bất diệt. Thì ra những bài học sâu sắc về đạo lý làm người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng xa xôi.

Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng.

Phân tích khổ 5 6 bài Ánh trăng - mẫu 5

Bài thơ Ánh trăng là tác phẩm nhà thơ viết vào năm 1978, sau 3 năm nước nhà hoàn toàn độc lập. Tác phẩm được ông viết khi ở TPHCM. Tác phẩm đã phần nào nói lên tâm trạng của người lính giải ngũ, đang nhớ quê nhà, nhớ đồng đội tha thiết.

Tác phẩm Ánh trăng được tin trong tập “Ánh trăng”, là tập thơ nổi tiếng và đạt giải A trong cuộc thi của Hội nhà văn năm 1984. Bài thơ ra đời khi tác giả sống những năm tháng sau hòa bình tại thành phố náo nhiệt Hồ Chí Minh. Toàn bộ tác phẩm là xúc cảm, nỗi lòng của nhà thơ, của người lính cụ Hồ đã từng vào sinh ra tử nơi rừng thiêng nước độc nhưng đầy nghĩa tình. Nhà thơ đã mượn hình ảnh thiên nhiên để diễn tả tâm tư chiêm nghiệm, suy ngẫm về cuộc đời, về con người. Bài thơ đi từ quá khứ đến hiện tại, vẽ lên một trình tự đời người đã trải qua nhiều bão giông.

Bài thơ cũng thể hiện tình yêu với quê hương tha thiết của tác giả, khi trân quý những ngày gian khổ cùng động đội. Đồng thời cũng thể hiện những băn khoăn, trăn trở trước cuộc sống thực tại đang nhiều đổi thay. Trong những khổ thơ đầu, tác trở về quá khứ với ánh trăng thuở nhỏ. Đó là ánh trăng tri kỷ khi sống ở sông, ở bế, trần trụi với thiên nhiên. Đó là ánh trăng nghĩa tình khi ở rừng, ở núi, chiến đấu cùng đồng đội, đồng chí.

Trong những khổ trước, tác giả cũng chợt nhắc tới ánh trăng như người dưng khi sống ở thị thành, trong cuộc sống hiện tại. Bởi nơi ấy, ánh điện và cửa gương, khiến cho người ta quên mất ánh trăng. Và chỉ khi bỗng mất điện, người ta mới nhận ra “đột ngột vầng trăng tròn”. Để rồi khi ngửa mặt nhìn lên, mặt người bắt gặp mặt trăng, thì bỗng lòng thấy rưng rưng ứa lệ. Con người bắt đầu bỗng nhớ về cánh đồng quê hương, nhớ tới dòng sông thân thương gắn với tuổi thơ ngọt ngào. Con người bỗng nhớ tới rừng, núi, nơi đã bao năm nằm gai nếm mật, nơi ấy đã bao lần cùng anh em đứng gác rồi trông trăng.

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng, là bể

như là sông, là rừng”

Đến đây, các bạn có thể liên hệ tới ánh trăng trong một số tác phẩm văn học khá như trong bài Đồng Chí của nhà thơ Chính Hữu.

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”.

Có thể thấy, ánh trăng là bạn, là hình ảnh trữ tình, là ánh trăng tri kỷ nghĩa tình, luôn dõi theo chân của các chiến sĩ nơi chiến trường. Dường như với những ai đã một lần đi lính, thì trong lòng họ luôn có ánh trăng bầu bạn, ánh trăng kỷ niệm. Dù ánh trăng của nhà thơ Nguyễn Duy ở đây không lãng mạn như của nhà thơ Chính Hữu. Nhưng ánh trăng ấy cũng đong đầy cảm xúc. Nó khiến người đọc nhận ra, bao xúc cảm dâng trào đang chiếm trọn tâm hồn của tác giả. Tác giả nhìn mặt trăng như nhận ra một gương bạn quen thuộc ở nơi thị thành xa lạ. Để rồi bao ký ức, bao hoài niệm xưa kia ùa về làm cho trái tim thổn thức, cho sống mũi cay cay và dòng lệ chực tuôn trào.

Nếu như khổ thơ trên, tác giả giải bày nỗi lòng của bản thân trong những giây phút đầu tiên “gặp trăng” thì đến khổ cuối cùng, tác giả đã có thời gian nghiền ngẫm và suy tư hơn. Có lẽ là sau một thời gian ngắm trăng, nhà thơ nhận ra, ánh trăng vẫn cứ trong vành vạnh như thế, trăng vẫn đẹp vẫn tri kỷ như thế mặc cho người có vô tình ra sao. Ánh trăng chẳng bao giờ biện minh, chẳng bao giờ chia sẻ. Trăng cứ im phăng phắc như vậy nhưng cũng đủ khiến cho con người giật mình nhận ra sự vô tâm, vô tình của bản thân.

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”

Khổ thơ như là châm biếm đầy sâu cay của nhà thơ dành cho mình cũng như bao người khác cùng cảnh ngộ. Đó cũng là lời than trách cho những con người giờ đang sống hưởng lạc mà đang dần quên đi những điều tốt đẹp khi khốn khó. Ánh trăng cũng như những hồi ức, kỷ niệm giữa người với người nhưng giờ đây, con người sống trong nhung lụa giàu sang thì trở nên vô tình với nhau. Để rồi, dù không lên tiếng nhưng khi đối diện với ký ức, với ánh trăng nghĩa tình ấy, con người ta bỗng giật mình nhận ra chính mình đang bị cuốn vào vòng xoáy đổi thay của thời gian. Khổ thơ cũng thể hiện sự trường tồn vĩnh cửu của thiên nhiên, nhưng con người thì vẫn luôn đổi thay.

Những cụ từ láy như “vành vạnh”, “phăng phắc”, như càng nhấn mạnh hơn sự thâm thúy của tác giả. Ánh trăng vẫn thấy hết đấy, vẫn biết hết sự vô tình của con người với nhau đấy, chỉ là không nói mà thôi.

Có thể nói, hai khổ thơ cuối của bài Ánh trăng là những dòng tâm sự đầy chua xót của tác giả trước cuộc sống thực tại với những gì đã có trong quá khứ. Tác giả đã mượn hình ảnh ánh trăng để nói lên nỗi lòng của mình khi sống nơi thành phố hoa lệ. Hai khổ thơ cuối là thực tại cuộc sống vô tình mà tác giả đang trải qua. Tác giả ngẫm thấy dường như trong cảnh thiếu thốn, trong hiểm nguy, con người cũng giống như ánh trăng kia sẽ giàu tình nghĩa, sẽ biết yêu thương, san sẻ đùm bọc lẫn nhau. Nhưng trong cuộc sống đủ đầy, no ấm, ánh trăng hay chính con người bỗng trở nên vô tình, vô tâm. Người với người lướt qua nhau như người dưng nước lã. Thật đáng buồn, thật chua xót làm sao.

Phân tích khổ 5 6 bài Ánh trăng - mẫu 6

Nguyễn Duy – nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ – luôn mang trong mình những nỗi niềm trăn trở về quá khứ, về con người, về sự thủy chung và lòng biết ơn. “Ánh trăng”, một trong những tác phẩm nổi bật của ông, là tiếng lòng của một con người từng trải, đầy chiêm nghiệm. Đặc biệt, hai khổ thơ cuối là đỉnh cao của cảm xúc và tư tưởng, thể hiện một sự thức tỉnh sâu sắc từ lương tri, khiến người đọc không khỏi bồi hồi.

Khổ thơ thứ năm mở đầu bằng hình ảnh “Ngửa mặt lên nhìn mặt” – một tư thế lạ mà rất đời. Đó không chỉ là cái nhìn trực diện giữa con người với thiên nhiên, mà còn là cái nhìn của người với chính mình, đối diện với ký ức, với lỗi lầm, với quá khứ. “Có cái gì rưng rưng” – câu thơ không cụ thể, không định danh cảm xúc nhưng lại gợi nên một rung động sâu sắc. Đó là nỗi ân hận, là sự bâng khuâng khi nhận ra mình đã vô tình, đã lãng quên những điều từng là máu thịt, là bầu bạn.

Hình ảnh “như là đồng là bể / như là sông là rừng” là những biểu tượng mở rộng từ vầng trăng, gợi lại cả không gian bao la của thiên nhiên, đất trời mà nhân vật trữ tình đã từng gắn bó thuở ấu thơ, thời chiến tranh. Những hình ảnh ấy không chỉ là nơi chốn, mà còn là biểu tượng của ký ức, của tuổi trẻ, của những ân tình không lời. Trăng không còn là vật thể, mà là chứng nhân của một thời đã qua – giản dị mà không thể thay thế.

Khổ thơ thứ sáu là đỉnh điểm của cảm xúc. “Trăng cứ tròn vành vạnh” – một câu thơ giản dị mà đầy ám ảnh. Trăng vẫn thế, thủy chung và trọn vẹn như chính thiên nhiên, như tấm lòng bao dung không đổi thay. Trong khi con người có thể vô tình, trăng vẫn “im phăng phắc” – không trách móc, không giận dữ. Sự im lặng ấy không lạnh lùng, mà ngược lại là một tiếng nói mạnh mẽ, đủ để “ta giật mình”. Cái giật mình ấy là của sự tự vấn, của thức tỉnh lương tâm sau những năm tháng quên lãng.

Qua hai khổ thơ cuối, Nguyễn Duy đã sử dụng một lối thơ mộc mạc, không cầu kỳ, để nói lên những điều lớn lao. Thiên nhiên, biểu tượng là vầng trăng, mang trong mình thông điệp nhân văn sâu sắc: hãy sống có tình, có nghĩa, đừng quên đi quá khứ và những điều đã từng nâng đỡ ta trong cuộc đời. Trong cái “im lặng” của trăng, ta nghe thấy tiếng nói của lương tâm, của sự tự kiểm và khát vọng được sống tốt hơn.

“Ánh trăng” không chỉ là bài thơ viết về một vầng trăng, mà là một bài học làm người sâu sắc. Nó nhắc nhở mỗi chúng ta: Dù cuộc sống có thay đổi, dù ta có thể vô tình, nhưng quá khứ vẫn ở đó, thủy chung và bao dung như vầng trăng tròn vành vạnh. Và đôi khi, một khoảnh khắc “giật mình” lại đủ để khiến con người tìm về những giá trị cốt lõi, nhân văn nhất.

Phân tích khổ 5 6 bài Ánh trăng - mẫu 7

Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, hiếm có bài thơ nào dung dị mà lại chạm đến trái tim người đọc sâu sắc như “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Với giọng điệu chân thành, bài thơ là lời tự sự đầy xúc động của một con người từng sống, từng gắn bó với thiên nhiên, rồi trong cuộc sống hiện đại, vô tình quên lãng những ký ức ấy. Hai khổ thơ cuối chính là điểm sáng về tư tưởng, tình cảm, khép lại bài thơ bằng một thông điệp nhân sinh sâu sắc: lời nhắn gửi về lòng thủy chung và sự bao dung.

“Ngửa mặt lên nhìn mặt” là một hình ảnh thơ đặc biệt – như thể con người đang đối diện với chính mình. Đó không chỉ là nhìn lên trăng, mà là nhìn vào tâm hồn, vào quá khứ đã bị lãng quên. Sự “rưng rưng” không rõ ràng nhưng vô cùng chân thật, diễn tả nỗi xúc động trào dâng, pha lẫn ăn năn và xót xa. Trong khoảnh khắc tối om vì mất điện ấy, ánh trăng hiện lên như một hình ảnh gợi nhớ, khơi dậy cả một trời kỷ niệm.

Những hình ảnh “như là đồng là bể / như là sông là rừng” không đơn thuần là miêu tả không gian thiên nhiên, mà còn là biểu tượng của những năm tháng gắn bó máu thịt với đất nước, với tuổi thơ và chiến tranh. Tất cả ùa về trong một khoảnh khắc, khiến người lính năm xưa không thể kìm nén cảm xúc. Trăng trở thành biểu tượng cho quá khứ, cho những gì giản dị mà thiêng liêng, từng là chốn nương tựa tinh thần cho con người giữa gian khổ.

Khổ thơ cuối là điểm nhấn mạnh mẽ về tư tưởng. “Trăng cứ tròn vành vạnh” – vẻ đẹp viên mãn, trọn vẹn và không đổi của trăng chính là hình ảnh ẩn dụ cho sự thủy chung, bền vững. Trăng không trách con người quên lãng, trăng chỉ “im phăng phắc”, nhưng chính sự im lặng ấy lại khiến con người “giật mình”. Giật mình không phải vì bị phán xét, mà vì nhận ra chính mình đã từng quay lưng với những điều thân thuộc, từng vô tình với những ký ức thiêng liêng.

Với giọng điệu thủ thỉ, nhẹ nhàng, Nguyễn Duy đã khéo léo lồng ghép bài học đạo đức vào từng câu thơ. Ông không rao giảng, không lên án, chỉ lặng lẽ kể lại một câu chuyện đời – để rồi để người đọc tự chiêm nghiệm. Trong “giật mình” là sự tỉnh thức của tâm hồn, là lời nhắn nhủ rằng đừng quên những gì từng gắn bó, đừng vô tâm với quá khứ – vì quá khứ chính là cội nguồn tạo nên bản thể mỗi con người.

Hai khổ thơ cuối của “Ánh trăng” như một bài học nhẹ nhàng mà sâu sắc về lòng thủy chung và sự bao dung. Trăng – biểu tượng của quá khứ – không hề biến mất khi bị quên lãng, mà vẫn âm thầm hiện diện, dịu dàng nhắc nhở. Và trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, con người như bừng tỉnh, nhận ra giá trị của những điều tưởng chừng đã bị bỏ quên.

Phân tích khổ 5 6 bài Ánh trăng - mẫu 8

Nguyễn Duy – một người lính từng trải qua khói lửa chiến tranh, khi trở về cuộc sống hòa bình, vẫn luôn đau đáu với những giá trị xưa cũ của dân tộc. “Ánh trăng” là bài thơ tiêu biểu thể hiện rõ nhất hành trình nội tâm ấy. Trong đó, hai khổ thơ cuối không chỉ là cao trào cảm xúc mà còn là sự trở về đầy day dứt với đạo lý truyền thống – đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của con người Việt Nam.

“Ngửa mặt lên nhìn mặt” – câu thơ ngắn gọn nhưng chất chứa một tầng nghĩa sâu xa. Hành động “ngửa mặt” như một cử chỉ đối diện, nhìn lên vầng trăng – người bạn cũ, đồng thời cũng là soi rọi lại tâm can của chính mình. Trăng hiện ra không phải chỉ là ánh sáng vật lý, mà là biểu tượng thiêng liêng của quá khứ, của nghĩa tình, của những năm tháng gian khó nhưng đầy chất thơ.

“Có cái gì rưng rưng” – cảm xúc này không rõ ràng nhưng lại gợi lên một nỗi niềm không thể gọi tên. Là xao xuyến? Là hối hận? Là bồi hồi? Có lẽ là tất cả. Cái “rưng rưng” ấy chính là sự khơi gợi cảm xúc của con người khi đứng trước tấm gương quá khứ. Và quá khứ ấy không hề xa lạ, nó là “đồng”, là “bể”, là “sông”, là “rừng” – tất cả đều là hình ảnh quen thuộc của thiên nhiên và đất nước, những nơi đã từng gắn bó máu thịt với người lính năm xưa.

Tác giả không viết: “Trăng tròn như thuở trước”, mà lại nói: “Trăng cứ tròn vành vạnh”. Sự “cứ” ấy khẳng định một vòng đời tròn đầy không đổi, nhấn mạnh sự thủy chung, son sắt. Trăng không thay đổi, không rạn nứt, không trách móc – trăng “im phăng phắc”. Chính sự im lặng ấy trở nên đáng sợ, vì nó khiến con người phải tự soi rọi bản thân mình. Trong không gian tĩnh lặng ấy, “đủ cho ta giật mình”.

“Giật mình” là thức tỉnh. Là khi con người tự nhận ra mình đã từng quên lãng, từng sống vô tình. Là lúc lương tri lên tiếng, nhắc nhở ta về những điều thiêng liêng từng bị bỏ quên giữa nhịp sống hiện đại. Đó không phải sự tự trách mang tính tiêu cực, mà là sự thức tỉnh tích cực, giúp con người sống sâu sắc và tử tế hơn.

Qua hai khổ thơ cuối, Nguyễn Duy không viết về ánh trăng bằng ngôn từ lãng mạn, mà viết bằng cảm xúc đời thường, sâu lắng và chân thành. Trăng là người bạn – là nhân chứng sống cho một thời hào hùng. Trăng cũng là tấm gương phản chiếu đạo lý: sống không thể vô ơn. Và bài thơ là lời nhắn gửi sâu xa: đừng bao giờ để quá khứ trở thành cái bóng mà ta lãng quên, vì chính nó đã góp phần làm nên ta của hôm nay.

Phân tích khổ 5 6 bài Ánh trăng - mẫu 9

Trong cuộc đời con người, có những khoảnh khắc tưởng chừng như rất nhỏ bé nhưng lại làm thay đổi cả nội tâm. Nguyễn Duy đã chạm đến khoảnh khắc đó một cách đầy nhân văn trong “Ánh trăng”. Hai khổ thơ cuối của bài thơ là hồi chuông cảnh tỉnh từ một khoảng lặng bất ngờ, đưa con người trở về với những giá trị xưa cũ mà bấy lâu nay họ lãng quên.

“Ngửa mặt lên nhìn mặt” – một hình ảnh có thể hiểu như một cuộc đối diện giữa hai con người, nhưng sâu xa hơn là đối diện giữa con người với chính quá khứ của mình. Vầng trăng không chỉ là ánh sáng, mà là biểu tượng cho một người bạn, một chứng nhân đã theo ta suốt chặng đường gian khó.

“Có cái gì rưng rưng” – cảm xúc ấy chạm đến đáy tâm hồn người đọc. Nó gợi nhớ đến giây phút mà mỗi người trong ta từng trải qua: giây phút bồi hồi khi gặp lại điều gì đó thân quen sau bao năm xa cách. Những hình ảnh “đồng”, “bể”, “sông”, “rừng” không chỉ tái hiện không gian tự nhiên, mà còn là biểu tượng cho quê hương, cho tuổi thơ, cho chiến tranh – cho những gì thiêng liêng nhất từng tồn tại trong đời.

Khổ thơ thứ sáu như một sự khép lại tròn đầy về tư tưởng. “Trăng cứ tròn vành vạnh” – trăng không thay đổi. Chính sự thủy chung, bao dung ấy làm nổi bật sự vô tâm, vô tình của con người. Trăng “im phăng phắc”, không nói, nhưng sự im lặng ấy lại khiến con người phải “giật mình”. Giật mình vì những năm tháng lãng quên, giật mình vì một sự thật đã hiện hữu nhưng bị chính ta cố ý lãng tránh.

Giọng thơ trầm lắng, nhẹ nhàng, không hề gay gắt, không lên án. Nguyễn Duy chọn cách “thức tỉnh nhẹ nhàng” như ánh trăng soi vào góc khuất trong tâm hồn mỗi người. Bài thơ là một cuộc trở về. Không ồn ào, không dữ dội, nhưng bền bỉ và sâu lắng.

Thông điệp mà hai khổ thơ gửi gắm chính là lời kêu gọi con người hãy sống có tình, có nghĩa. Hãy biết quay về với cội nguồn, với những giá trị vĩnh hằng đã từng nâng đỡ mình vượt qua bão tố. Bởi lẽ, trăng vẫn ở đó, vẫn sáng, vẫn “tròn vành vạnh”, dù lòng người có đổi thay.

Phân tích khổ 5 6 bài Ánh trăng - mẫu 10

Giữa cuộc sống đô thị hiện đại, con người dễ dàng quên đi quá khứ, quên đi những gì từng nâng đỡ, che chở mình. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là một bài thơ khiến người đọc giật mình tự vấn. Đặc biệt hai khổ thơ cuối – khổ 5 và 6 – là sự tổng hòa giữa cảm xúc và triết lý nhân sinh, giữa ký ức và lương tri.

“Ngửa mặt lên nhìn mặt” – sự trùng điệp của từ “mặt” mang ý nghĩa biểu cảm sâu sắc. Không đơn thuần là cái nhìn vật lý, mà là cái nhìn nội tâm. Con người ngẩng lên nhìn trăng, cũng là lúc nhìn vào trái tim mình. Và trong khoảnh khắc ấy, “có cái gì rưng rưng” – xúc cảm trào dâng khi đứng trước một người bạn cũ mà chính mình đã từng lãng quên.

Những hình ảnh quen thuộc “đồng”, “bể”, “sông”, “rừng” không còn chỉ là cảnh vật, mà là một miền ký ức. Chúng nhắc nhở người đọc về những ngày gian khổ mà vẫn tràn đầy nghĩa tình. Trăng chính là nhân vật chứng kiến tất cả, là biểu tượng vĩnh hằng của sự đồng hành, thủy chung, trong sáng.

“Trăng cứ tròn vành vạnh” – câu thơ như một lời khẳng định: trăng không thay đổi, dù con người có thể đổi thay. Và chính ánh trăng ấy, trong sự “im phăng phắc”, đã khiến con người “giật mình”. Giật mình vì một vầng trăng quá đỗi bao dung. Giật mình vì đã quên đi một phần của đời mình.

Nguyễn Duy không cần dùng những ngôn từ to tát. Chỉ bằng những câu thơ lặng lẽ, ông đã gửi gắm một thông điệp sâu sắc: hãy sống có tình, có nghĩa. Đừng quên quá khứ, bởi nó chính là nguồn cội của hiện tại và tương lai. Và ánh trăng – biểu tượng của lương tri – vẫn sẽ luôn ở đó, âm thầm soi rọi và chờ ta thức tỉnh.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học