10+ Phân tích khổ 5 bài Đoàn thuyền đánh cá (điểm cao)

Phân tích khổ 5 bài Đoàn thuyền đánh cá điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Phân tích khổ 5 bài Đoàn thuyền đánh cá (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Phân tích khổ 5 bài Đoàn thuyền đánh cá

1. Mở bài

- Giới thiệu khổ 5 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.

2. Thân bài

- Sự xuất hiện của lời ca gọi cá vào khi đoàn thuyền đánh cá ra khơi:

+ Gợi lên nhịp sống lao động đầy niềm vui.

+ Tâm hồn phóng khoáng yêu lao động.

- Lao động trên biển của người dân làng chài:

+ Không chỉ bằng sức lao động, niềm vui lao động phơi phới.

+ Có thiên nhiên đồng hành.

+ Hình ảnh so sánh “Biển cho ta cá như lòng mẹ”.

- Biển là cội nguồn của sự sống:

+ Gợi lên sự ấm áp bao dung của lòng mẹ.

+ Sự gần gũi, yêu thương con người.

Quảng cáo

3. Kết bài

- Sự xuất hiện của lời ca gọi cá vào không chỉ gợi lên nhịp sống lao động đầy niềm vui mà còn thể hiện sự tương tác, kết nối giữa con người và thiên nhiên trong quá trình lao động trên biển. Hình ảnh “Biển cho ta cá như lòng mẹ” càng thêm động lòng người trước sự gần gũi, yêu thương của thiên nhiên đối với con người.

Phân tích khổ 5 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 1

Khổ thơ 5 trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một bài hát gọi cá của những người ngư dân. Những lời ca ngợi về biển cả và sự giàu có, trù phú mà biển cả ban tặng cho con người được thể hiện một cách cảm động và chân thành.

Trong khổ thơ 5, tác giả tập trung miêu tả hình ảnh của những người đánh cá, những người đang chài kéo lưới trên biển khơi. Họ trông rất gân guốc và khoẻ khoắn, với sự dũng cảm và nỗ lực không ngừng để có thể bắt được những con cá lớn. Hình ảnh ấy làm cho bức tranh cuộc sống trên biển càng thêm sống động và hấp dẫn. Những người đánh cá trong bài hát nhận thức rõ sự quý giá và hào phóng của biển cả, và chính vì vậy, họ luôn biết cảm kích và biết ơn biển cả đã ban tặng cho họ nhiều hải sản và nuôi lớn người dân tự bao đời.

Quảng cáo

Từng tiếng hát của họ là một lời cảm ơn sâu sắc dành cho biển cả và cũng là một cách để họ thể hiện sự yêu mến và tôn trọng đối với mẹ quê hương. Tình cảm đó được thể hiện một cách rõ nét trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, khi tác giả Huy Cận miêu tả bức tranh cuộc sống đẹp đẽ và hài hoà trên biển, và sự trân trọng mà con người dành cho biển cả:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”

Giữa không gian biển đêm lung linh, huyền ảo và cực kỳ đặc biệt ấy, có một hình ảnh vô cùng nổi bật của con người lao động. Việc đánh bắt cá trên biển không hề đơn giản, đó là một công việc hết sức nặng lề vất vả. Tuy nhiên, với con mắt của Huy Cận, tất cả mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lãng mạn và đầy niềm vui. Cảnh tượng đó được diễn ra nhịp nhàng cùng với thiên nhiên, khi người đánh cá làm việc giữa bao la biển trời và bao la tiếng hát.

Quảng cáo

Một lần nữa, tiếng hát vang lên, thể hiện niềm vui và khí thế lao động hăng say của người dân chài. Thiên nhiên như hòa nhập với con người, chung tay thực hiện công việc chinh phục biển cả. Câu thơ “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,” thực sự là một liên tưởng độc đáo, khiến cho ta liên tưởng đến hình ảnh trăng in xuống nước, cùng những con sóng xô bóng trăng như gõ vào mạn thuyền, tạo ra nhịp trăng cao. Toàn bộ cảnh tượng trở nên rực rỡ và đẹp đẽ, gợi lên sự tương tác hoàn hảo giữa con người và thiên nhiên.

Hình ảnh lãng mạn đầy tình cảm và sức quyến rũ đã tô điểm thêm cho bức tranh tuyệt đẹp của người đánh cá, khiến cho nó càng thêm hoàn hảo và sắc nét hơn bao giờ hết. Âm thanh ồn ào của con người cùng với tiếng sóng vỗ trên bãi biển tạo ra một âm thanh hài hòa với thiên nhiên, tạo nên một bầu không khí thật yên bình và thư thái. Từ đó, ta có thể cảm nhận được sự tuyệt vời của bầu không khí biển đang được tận hưởng:

“Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”

Trên một bờ biển xa xôi, với lòng biết ơn biển mẹ quê hương đã hào phóng ban tặng cho người dân nơi đây nhiều hải sản, nuôi lớn người dân tự bao đời. Cảm giác ấm áp như của tình mẹ khiến người ta cảm thấy bình yên và ấm lòng. Biển với cá và hải sản của nó, tượng trưng cho tình mẹ vô tận, đem đến cuộc sống cho mọi người như một món quà vô giá. Chúng ta không thể quên tác động của biển đối với cuộc sống của chúng ta, bởi nó đã nuôi lớn và giữ gìn nghề đánh cá cho người dân nơi đây suốt bao đời.

Như câu ca dao nói: “Biển cho ta cá như lòng mẹ, nuôi lớn đời ta tự buổi nào.” Chúng ta cảm nhận được tình mẹ của biển và những gì nó mang lại cho chúng ta, đó là sự sống và sự phát triển. Với biển, chúng ta không chỉ có thể tận hưởng các món hải sản ngon miệng, mà còn là sự tương tác với thiên nhiên và con người, tạo nên một môi trường sống đẹp đẽ và bình an.

Phân tích khổ 5 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 2

Sau cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận đã trở nên khác hẳn so với những tác phẩm trước đó, khi ông không chỉ mơ mộng và buồn bã mà còn tràn đầy niềm yêu cuộc sống và khát khao sống. Tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá của ông là một ví dụ điển hình cho điều đó. Bài thơ này được viết dựa trên trải nghiệm thực tế của tác giả khi đi tới vùng biển Quảng Ninh, nơi ông chứng kiến vẻ đẹp huy hoàng và kỳ vĩ của thiên nhiên, cùng với sức mạnh và sự kiên cường của những người lao động.

Bức tranh cuộc sống được vẽ lên trong bài thơ của Huy Cận là một bức tranh hài hoà và đẹp đẽ, khiến người đọc cảm thấy như đang được đắm mình trong không gian yên bình và thanh tịnh của vùng biển. Khổ thơ thứ 5 là những câu thơ sáng tạo ra bức tranh đó một cách rõ ràng và sống động. Trong đó, những lời ca ngợi về sự kiên cường, sức mạnh và tình yêu đến cuộc sống của người lao động biển đã được tác giả thể hiện một cách tuyệt vời.

Đoạn thơ được sử dụng để diễn tả sự cảm kích của tác giả đối với biển, là nguồn sống nuôi dưỡng người dân nơi đây. Những từ ngữ tinh tế của Huy Cận đã giúp đưa người đọc đến với cảm xúc tràn đầy yêu thương và biết ơn đối với biển và những người lao động biển, đồng thời cũng là sự ghi nhận cho công lao và đóng góp vô giá của họ trong suốt bao đời qua:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”

Câu hát vang lên cùng những tiếng đàn guitar và nốt nhạc nhẹ nhàng là những giọng ca nức tiếng của những người lao động nơi biển cá. Dù cho cuộc sống của họ đầy mệt mỏi và vất vả, nhưng những lời ca vẫn đầy văn vinh, mang đến nguồn năng lượng tích cực giúp cho họ có thể tiếp tục làm việc. Câu hát đầy ân tình và thiết tha, mời gọi tôm cá đến với con người nghe, giúp cho cuộc sống trở nên tươi vui và đầy sáng tạo.

Với bầu trời rực rỡ sao trăng chiếu sáng, nước biển xanh mát lắng đọng, mạn thuyền trôi nhẹ nhàng, tiếng sóng vỗ nhè nhẹ, tạo nên một bầu không khí yên bình và dễ chịu. Những nốt nhạc và giai điệu nhẹ nhàng của câu hát kết hợp cùng với tiếng vỗ sóng, tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống nơi biển cả. Những giọng ca rực rỡ, hòa quyện cùng với tiếng đàn guitar tạo ra một bầu không khí cực kỳ tuyệt vời, giúp cho con người có thể thư giãn và thỏa sức cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên.

Những lời thơ nhẹ nhàng, phóng khoáng của nhà thơ thể hiện sự tự do, kiêu hãnh và đầy khát khao của người lao động nơi biển cả. Họ luôn có sự cảm nhận sâu sắc về cuộc sống, tạo ra những bài hát tình cảm, ý nghĩa với niềm đam mê và tình yêu đối với biển cả. Câu hát đầy cảm xúc, truyền tải thông điệp yêu thương và biết ơn tới mẹ biển, người đã ban tặng cho họ cuộc sống đầy ý nghĩa và những niềm vui đầy tình người.

Chất lãng mạn vẫn lan tỏa khắp bức tranh lao động, từ đoàn thuyền đánh cá cho đến những khúc ca về tình yêu cuộc sống và sự giàu có của biển cả. Những người dân chài tươi cười hát lên chuyện làm thuyền, đánh cá, thể hiện niềm đam mê sâu sắc đối với công việc của mình và biến những khó khăn thành niềm vui. Lời ca gọi cá vào được thể hiện bằng những giai điệu độc đáo, khiến bức tranh sơn mài thêm phần mộng mơ và đẹp đẽ.

Khổ thơ 5-6, tâm điểm của bức tranh, là nơi tập trung những hình ảnh cảm động về những người dân chài kéo lưới trên biển khơi mênh mông với sự gân guốc và khoẻ khoắn. Tuy nhiên, điểm nhấn đặc biệt của khổ thơ này là hình ảnh trăng cao in bóng trên mặt nước và gợi nhịp gõ của sóng vỗ vào mạn thuyền. Tất cả tạo nên một bức tranh đầy sáng tạo, giàu chất thơ và lãng mạn.

Tác giả, thông qua bức tranh sơn mài, truyền tải tình yêu lao động và khát khao chinh phục thiên nhiên của con người. Bức tranh thể hiện sự tươi tắn và lạc quan của tác giả, khát khao làm giàu và làm đẹp cho đời của những con người lao động mới. Bức tranh này không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà còn là một lời ca ngợi sự mạnh mẽ, dũng cảm và tình yêu của con người đối với đại dương.

Phân tích khổ 5 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 3

Huy Cận là một trong những cây bút có sức sáng tạo dồi dào trong phong trào Thơ mới ở Việt Nam. Thơ ông có sự vận động, thay đổi qua từng chặng đường, nếu trước cách mạng tháng Tám thơ Huy Cận chất chứa một nỗi sầu bi khôn xiết mà theo nhận định của nhà phê bình Hoài Thanh thì đó là “một mạch sầu ngàn năm ngấm ngầm trong cõi đất này”.

Sau Cách mạng, thơ Huy Cận có sự thay đổi lớn cả về tư tưởng và tình cảm, ông hướng ngòi bút khám phá cuộc sống lao động mới qua những vần thơ tươi vui, chứa đựng những niềm tin mãnh liệt về tương lai tươi sáng.

Tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tác của Huy Cận sau cách mạng là bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Viết về cuộc sống lao động trên biển của những người ngư dân, đặc biệt trong ba khổ thơ cuối của bài, nhà thơ đã tập trung khắc họa cảnh đánh bắt cá trên biển và vẻ đẹp hài hòa của con người lao động trong không gian hùng vĩ, mênh mông của biển cả.

Nếu trong những khổ thơ đầu, nhà thơ Huy Cận đã mở ra trước mắt người đọc khung cảnh ra khơi đầy hứng khởi, tươi vui khi hoàng hôn buông xuống thì khổ thơ thứ 5 lại là khúc hát gọi cá đầy mê say của người dân chài lưới khi thu hoạch cá. Công việc lao động trên biển vốn mệt nhọc lại tiềm ẩn những hiểm nguy thế nhưng đọc những câu thơ của Huy Cận, ấn tượng đọng lại trong tâm trí người đọc không phải những căng thẳng, mệt nhọc mà lại là khung cảnh lao động hài hòa, tươi vui:

"Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào"

Trong đêm tối, tiếng hát gọi cá của những người ngư dân đã xua tan hết những mỏi mệt của công việc, gợi mở ra không khí say mê, lãng mạn trong chính công việc lao động. Tiếng hát ngân vang cùng tiếng gõ thuyền cùng hòa âm để tạo nên một bản nhạc du dương đầy sức cuốn hút, gọi mời. Những người ngư dân tựa người nghệ sĩ trên biển cả: say mê, nhiệt huyết và tràn đầy sức sống. Công việc đánh bắt vất vả dưới ngòi bút tài hoa và cảm hứng lãng mạn của Huy Cận trở nên thơ mộng, đẹp đẽ hơn bao giờ hết.

Trong nhận thức và thế giới tình cảm của những người ngư dân, biển cả không chỉ là đối tượng chinh phục mà vĩ đại tựa lòng mẹ khi mang đến nguồn sống cho con người:

Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Biển cả rộng lớn, mênh mông nhưng chan chứa nghĩa tình, biển mang đến cá tôm, ban tặng những mẻ cá bội thu, nuôi sống con người bao thế hệ “Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Phép so sánh cùng sự liên tưởng độc đáo đã thể hiện được lòng biết ơn, sự trân trọng của những người ngư dân với tấm lòng rộng lượng, bao la của biển cả. Bằng giọng điệu thiết tha, chân thành kết hợp với ngôn ngữ bình dị nhưng giàu cảm xúc, nhà thơ Huy Cận đã gợi ra mối quan hệ gắn bó, hòa hợp, tôn trọng của con người và thiên nhiên.

Qua việc sử dụng những từ ngữ giàu sức gợi kết hợp với những thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa và cảm quan lãng mạn, nhà thơ Huy Cận đã mang đến cho người đọc những cảm nhận chân thực về khung cảnh lao động trên biển, về vẻ đẹp của con người lao động trong công việc bình dị nhưng đầy ý nghĩa.

Phân tích khổ 5 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 4

Năm 1958, trong không khí phấn khởi thi đua của toàn miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà thơ Huy Cận trong một dịp đi thực tế ở vùng biển Quảng Ninh đã sáng tác bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Với âm hưởng vừa khỏe khoắn, vừa sôi nổi lại vừa phơi phới bay bổng, bài thơ đã ca ngợi sự giàu đẹp của vùng biển quê hương và tinh thần lao động hăng say, phấn khởi của người lao động được giải phóng hăng hái làm việc cho đất nước.

Với đôi mắt quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ ra một khung cảnh lao động tuyệt đẹp trong khổ thơ thứ 5. Với chất lãng mạn, bay bổng, người dân chài cất lời hát tả lại công việc lao động với niềm tự tin và yêu đời mãnh liệt:

Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Bài hát căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi, bài hát lại vang lên trong công việc, biến lao động cực nhọc thành niềm vui. Lời ca gọi cá vào lưới nâng cao thêm chất thơ mộng của bức tranh. Người dân chài gõ thuyền xua cá vào lưới, ng đây không phải là con người mà ánh trăng: trăng in xuống dòng nước, sóng vỗ vào mạn thuyền thành hình ảnh “nhịp trăng” gõ thuyền. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển cả và con người là cái nhìn tươi tắn, lạc quan, ông như hòa nhập vào công việc, vào con người, vào biển cả.

Từ đó, cảm xúc dâng trào, không thể không cất lên tiếng hát ca ngợi biển:

Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự thuở nào”

Biển ta giàu đẹp. Biển ta bao dung. Biển đem hạnh phúc đến cho con người. Biển hào phóng cho con người nhiều tôm cá, muối, hải sản… Biển như lòng mẹ đã nuôi sống dân chài từ bao đời nay. Giọng thơ tự nhiên, tha thiết, chân thành có âm hưởng ca dao. Hình ảnh so sánh “như lòng mẹ” quen thuộc, có sức truyền cảm mãnh liệt, thể hiện tình yêu biển, yêu đời chan chứa của những con người gắn bó với biển từ bao đời, bao thế hệ.

Đoàn thuyền đánh cá thể hiện nguồn cảm hứng lãng mạn ngợi ca biển cả lớn lao, giàu đẹp, ngợi ca nhiệt tình lao động vì đất nước giàu đẹp của những người lao động mới. Khổ thơ thứ 5 khắc hoạ thành công hình ảnh đẹp đẽ, tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và người lao động, đồng thời bộc lộ niềm tự hào của tác giả trước sự hồi sinh của đất nước và cuộc sống con người.

Phân tích khổ 5 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 5

Nhà thơ Huy Cận sáng tác bài thơ Đoàn thuyền đánh cả vào năm 1958, tại vùng biển tỉnh Quảng Ninh. Bài thơ ra đời trong giai đoạn miền Bắc nước ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển kinh tế văn hóa sôi nổi. Đây được xem là một trong những bài thơ hay viết về đề tài cổ vũ lao động khi nhân dân làm chủ cuộc đời

Bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá gồm bảy đoạn thơ tường thuật lại hành trình đoàn thuyền của ngư dân Quảng Ninh ra khơi đánh bắt cá: Mở đầu là giới thiệu ra khơi lúc hoàng hôn chiều xuống, tiếp đến là cảnh đánh bắt cá trong đêm trăng sáng trên biển vịnh Hạ Long và trở về bến cảng vào lúc rạng đông. Khổ thơ thứ 5 là khúc hát mê say của người lao động kéo lưới lúc mờ sáng với âm hưởng hăng say lao động.

Cảnh đánh cá về đêm giữa biển thật vất vả và cũng lắm hiểm nguy. Và để xua tan đi cái mệt nhọc ấy, những tiếng hát văng vẳng cất lên giữa không gian bao la. Âm thanh tiếng hát không bao giờ dứt giữa biển cả mênh mông. Tiếng hát căng đầy sức sống của người lao động mới:

Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Trăng in xuống nước, sóng xô bóng trăng dưới nước như gõ vào mạn thuyền tạo nên nhịp trăng để xua cá vào lưới. Thiên nhiên và con người cùng một nhịp lao động. Công việc đánh cá vào đêm vốn nặng nhọc, vất vả đã thành bài ca lao động đầy niềm vui nhịp nhàng, cùng thiên nhiên vừa hùng tráng vừa thơ mộng. Tiếng hát lạc quan của những người ngư dân lao động Hòn Gai làm cho công việc vơi đi nỗi mệt nhọc.

Hình ảnh gọi cá vào chính là công việc vất vả của ngư dân. Nhưng dưới ngòi bút của Huy Cận, ông đã biến công việc nặng nhọc này thành niềm vui say mang đầy chất thơ. Lời ca gọi cá vào lưới nâng cao thêm cái chất thơ mộng của bức tranh. Ngư dân gõ thuyền xua cá vào lưới. Nhưng ở đây không phải con người mà là ánh trăng in xuống nước óng ánh, trăng gõ vào mạn thuyền, muôn vàn ánh vàng tan ra theo làn sóng vỗ vào mạn thuyền. Hiện thực được trí tưởng tượng sáng tạo thành hình ảnh lãng mạn giàu chất thơ.

Cái nhìn của tác giả đối với con người là cái nhìn tươi tắn đầy lạc quan. Từ gõ và hát trong câu thơ giúp ta hình dung cảnh đánh cá ngoài khơi thật sinh động và hấp dẫn. Biển hào phóng cho ta nhiều tôm cá, con người chinh phục thiên nhiên cũng đầy lòng biết ơn:

Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Biển như lòng mẹ ấm áp chan chứa nghĩa tình. Nghệ thuật so sánh độc đáo cho ta thấy sự phong phú của tài nguyên biển góp phần nuôi sống con người dưới bàn tay lao động khai thác của những ngư dân. Nếu như mẹ nuôi con bằng dòng sữa ngọt ngào tinh khiết từ thuở ấu thơ đến khi trưởng thành thì biển cả, dù những ngày sóng lặng gió êm hay bão tố cuồng nộ thì lúc nào biển cũng hào phóng ban tặng cho ngư dân nguồn hải sản quý báu. Chính bà mẹ biển cả bao la đó đã nuôi sống con người bao thế hệ.

Giọng thơ tha thiết chân thành. Niềm say sưa hào hứng và những ước mơ cháy bỏng của con người muốn hòa hợp với thiên nhiên và chinh phục thiên nhiên bằng công việc lao động của mình.

Đoạn thơ thứ 5 miêu tả cảnh biển khơi về đêm thật đẹp, thật tráng lệ thể hiện năng lực quan sát và đầu óc bay bổng của nhà thơ. Thiên nhiên đã hào phóng ban tặng cho những ngư dân chăm chỉ lao động thu hoạch được nhiều mẻ cá lớn. Công việc đánh cá về đêm thật vất vả, nặng nhọc nhung đã đem lại cho con người một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Niềm phấn khởi của ngư dân cũng là dấu hiệu của cuộc sống đang chuyển biến lên một tầm cao mới.

Với cách sử dụng màu sắc, cách vận dụng các thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa và thậm xưng, Huy Cận đã sáng tạo được nhiều hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa làm lên vẻ đẹp của vùng biển quê hương, của khung cảnh lao động, là niềm vui của con người đã làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống.

Đoạn thơ còn là bài ca dành cho biển hào phóng, cho những con người cần cù, gan góc đang làm giàu cho đất nước. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng.

Phân tích khổ 5 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 6

Huy Cận là một nhà thơ của tình yêu cuộc sống tha thiết và say đắm, cũng giống như người bạn thơ gần gũi nhất của ông “Không muốn đi, mãi mãi ở bườn trầu – Chân hóa rễ để hút màu dưới đất” (Xuân Diệu). Có khác chăng, một nét thường thấy trong thơ ông là cảm xúc về cuộc sống, về con người luôn gắn bó với cảm xúc về vũ trụ, dường như ông muốn tìm câu trả lời về ý nghĩa, sự tồn sinh của con người trong vũ trụ bao la, huyền bí, khôn cùng.

Trong thơ ông trước Cách mạng tháng Tám, cảm nhận đó thật cô đơn, nhỏ bé, lạc long, bơ vơ qua hình ảnh một cành củi khô, những cánh bèo dập dềnh trôi nổi không biết về đâu giữa một không gian “Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót – Sông dài, trời rộng bến cô liêu” qua hình ảnh “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc – Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa” (“Tràng Giang”).

Chính Cách mạng tháng Tám kỳ diệu và cuộc sống mới sau Cách mạng đã mang tới cho ông một cái nhìn ấm áp, tươi trẻ, tràn đầy niềm tin vào con người, con người trong sự giao cảm với đất trời, vũ trụ. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của ông là một minh chứng về điều đó.

Bài thơ ra đời năm 1958 trong nguồn mạch cảm xúc biết bao thương yêu, về cuộc sống “mỗi ngày lại sáng”. Đó vừa là một bực tranh đẹp đẽ, vừa là một khúc ca hào hùng về những người đánh cá trên biển cả bao la của Tổ quốc, những người thật hào hứng, phấn khởi say mê với công việc của mình trong tư thế thực sự làm chủ biển trời, làm chủ cuộc đời mới. Khổ thơ thứ 5 là khúc hát của người ngư dân khi kéo lưới với âm hưởng say sưa vào hào hứng vô cùng.

Cùng với câu hát ở khổ thơ đầu, một lần nữa tiếng hát của họ lại cất lên giữa bao la trời nước:

Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào

Có biết bao âu yếm và thân thiết với biển khơi, với vũ trụ mệnh mông, huyền diệu trong tiếng hát ấy. Tiếng hát còn biểu hiện niềm vui trong lao động tập thể của họ, biểu hiện niềm mong muốn của họ sẽ đánh bắt được thật nhiều cá để làm giàu cho Tổ quốc. Cảm xúc của họ thật phóng khoáng, bay bổng, chan chứa niềm yêu đời: họ lao động khẩn trương, luôn tay gõ nhịp dồn cá vào lưới mà vẫn không quên vẻ đẹp của biển cả, trăng gió, trời mây.

Vầng trăng trên trời cao là được nhân hóa trở nên gần gũi, thân thiết; trăng như đồng cảm với tâm trạng của con người, trăng gõ nhịp cho tiếng hát của họ. Đó thật sự là một bài ca lao động vừa hào hùng vừa giàu chất thơ. Và bài ca say đắm nhất là bài ca về sự giao hòa xiết bao thân thiết, ưu ái giữa con người và biển cả. “Biển cho ta cá như lòng mẹ” – một so sánh thật đẹp: lòng biển bao la như lòng mẹ, nguồn tình cảm yêu thương vô hạn đã nuôi dưỡng mỗi con người.

Biển không chỉ đẹp đẽ giàu có mà còn rất ân tình; biển không chỉ nuôi dưỡng con người hôm nay và mai sau; mà biển đã “Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”, từ khi con người mới xuất hiện trên trái đất Biển và ta thêm một lần nữa, tầm vóc những người đánh cá vụt lớn cao hơn, và càng gắn bó với biển cả yêu thương.

Có thể nói, chính niềm tin yêu nồng nhiệt với cuộc sống mới, với những người lao động mới, chính khả năng suy tưởng sâu sắc trong cảm quan vũ trụ đã dẫn tới thành công của Đoàn thuyền đánh cá. Đây là một trong số không nhiều bài thơ hay về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Phân tích khổ 5 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 7

Huy Cận là một đại biểu xuất sắc của phong trào thơ mới và là một nhà thơ lớn của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông có nhiều tác phẩm như lửa thiêng, vũ trụ ca, hạt lại gieo… trong đó có bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc về thiên nhiên, vũ trụ với cảm xúc của người lao động.

Chính không khí say sưa xây dựng đất nước của những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế là cơ sở hiện thực của những hình ảnh lãng mạn trong khổ thơ thứ 5 Đoàn thuyền đánh cá. Bởi thế, bài thơ như một khúc tráng ca mà Huy Cận sáng tác để ca ngợi những con người lao động mới hay chính những con người lao động tự cất lên, tự viết lời cho khúc ca lao động của mình:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Những hình ảnh giản dị lần lượt hiện lên qua khổ thơ. Tiếng hát một lần nữa lại được tác giả nhắc lại, phải chăng đó chính là tiếng hò dô của con người khi kéo được mẻ cá nặng. Tiếng hát, cùng với tiếng nhịp thuyền gõ vào mạn thuyền để gọi cá, vừa có lời bài hát, vừa có tiết tấu. Một hình ảnh đẹp hiện ra trước mắt ta như một đoàn hợp xướng chuyên nghiệp trên sân sấu.

Đó là những hình ảnh rất đẹp, rất giản dị mà lại rất gần gũi. Tác giả so sánh biển như lòng mẹ, lòng mẹ thì có bao giờ lại độc với con cái của mình, người mẹ bao giờ cũng mang đến cho người con những gì là của con nhất, mang đến cho người con những gì mà người con cần nhất. Vì mẹ là mẹ, mẹ là người phụ nữ hy sinh cho con rất nhiều. Mẹ đã nuôi lớn ta từ khi ta còn trong lòng mẹ, cũng giống như biển cả cho con người lao động những mẻ cá để nuôi lớn con người, rồi cứ thế hệ này tới thế hệ khác.

Với bút pháp nghệ thuật kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, tác giả đã khái quát hóa hình ảnh người lao động qua những vần thơ sinh động và giàu ý nghĩa trong khổ thơ thứ 5. Hình ảnh đẹp mà giản dị, giọng văn tinh tế mà lôi cuốn, đoạn thơ đã tạo chất nhạc, đã tạo nên khí thế cho người lao động thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nhà thơ đưa ta từ những hình ảnh này đến những hình ảnh khác vừa đẹp mà lại phong phú và hấp dẫn. Không khí lao động hang say cùng với cảnh đẹp của thiên nhiên đất trời mang lại một nguồn sống mới cho con người trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa. Bài thơ là động lực giúp cho người lao đọng vươn lên chính mình, vươn lên trong cuộc sống, xây dựng cuốc sống tốt đẹp, hạnh phú và gặt hái được nhiều thành công.

Phân tích khổ 5 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 8

Huy Cận là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam, đặc biệt là trong phong trào Thơ mới. Thơ của ông luôn có một phong cách rất riêng với những nhà thơ khác. Tiêu biểu cho các tác phẩm của ông trong thời kì mới là bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Bài thơ là lời ca ngợi thiên nhiên và con người lao động Việt Nam thời kì đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đoàn thuyền đánh cá có những hình ảnh thơ vô cùng đẹp đẽ, đặc biệt là khổ thơ khổ thơ thứ 5 để lại nhiều ấn tượng đối với người đọc.

Những câu hát của người dân làng chài đã vang lên như một bản nhạc từ những câu thơ đầu tiên, và giờ đây nó lại tiếp tục vang lên thêm lần nữa:

“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự thuở nào”

Nếu như những câu hát đầu tiên ở những khổ thơ đầu là những câu hát để căng lên tấm buồm lớn lướt thật nhanh ra khỏi thì ở đây, những câu hát này lại là những câu hát “gọi cá vào”. Những lời ca vang lên thật rõ trong không trung tĩnh lặng của màn đêm và biển cả. Cùng với tiếng nhịp phách gõ vào mạn thuyền, đó là bài ca gọi cá đến hay chính là những thanh âm mà người dân chài dùng để dồn cá vào lưới?

Hòa quyện trong câu hát ấy là ánh trăng trên cao vời vợi, ánh trăng soi tỏ từng hành động của con người, ánh trăng như gõ nhịp cho con người, cổ vũ họ trong cuộc chiến với thiên nhiên. Từng nhịp cá vang lên dồn dập, càng cho thấy mẻ cá vào lưới càng nặng tay – một mùa cá bội thu. Con thuyền bồng bềnh trôi trên sóng nước với ánh trăng vàng làm bạn, với lời ca vang như tiếp thêm sức mạnh để những người ngư dân thêm sức mạnh để kéo những mẻ lưới đầy.

Nhìn từng mẻ lưới nặng tay của họ, Huy Cận chợt có những suy ngẫm thật lặng về biển cả:

Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự thuở nào”

Biển ở đây được Huy Cận ví như một người mẹ. Một người mẹ luôn bao dung, che chở cho những đứa con của mình, một người mẹ sẽ luôn dành cho những đứa con những gì tốt đẹp nhất, và luôn luôn là vậy, như câu thơ “nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, chẳng bao giờ vơi cạn. Thật vậy, “biển cho ta cá”, luôn hào phóng với chúng ta, không bao giờ giữa lại gì cho riêng mình. Đây là một hình ảnh so sánh thật tài tình, mang đầy lòng biết ơn, kính trọng của Huy Cận với mẹ biển cả, với sự hào phóng của thiên nhiên.

Biển đã cho ta, nuôi ta lớn khôn từ những ngày ta còn thơ bé, nuôi lớn chúng ta qua bao thế hệ con người. Phải, chúng ta thực lòng phải cảm tạ biển cả mênh mông đã cho ta của cải, nuôi lớn ta, giúp ta làm giàu cho quê hương đất nước. Lời thơ vang lên như lời tâm tình, như lời thủ thỉ của con người dành cho mẹ biển bao la. Đó là lời cảm ơn, lời biết ơn sâu sắc gửi tới biển, bởi biển hào phóng quá, yêu thương trìu mến quá!

Khép lại khổ thơ, chúng ta cảm nhận được sự miệt mài của những người dân chài lưới trước công việc của mình. Đồng thời, chúng ta cũng cảm nhận được sự kính yêu của họ đối với biển cả, sự biết ơn, yêu thương trìu mến của họ dành cho biển. Với họ, biển là mẹ, là một phần máu thịt gần gũi thân thương đối với họ.

Khổ thơ thứ 5 là hình ảnh của thiên nhiên và con người trong công cuộc đánh bắt cá. Nó vừa đẹp lãng mạn lại vừa mang một màu sắc hiện thực thật rõ ràng. Có thể nói, Huy Cận đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên và những người dân chài thật đầy màu sắc. Cùng với đó, nghệ thuật mà Huy Cận sử dụng trong đoạn thơ trên như so sánh, nhân hóa cũng góp phần tạo nên đặc sắc cũng như thành công cho cả bài thơ.

Phân tích khổ 5 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 9

Huy Cận tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở Hà Tĩnh là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ Mới. Sau cách mạng, ông tiếp tục sáng tác và trở thành nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh. 5 khổ đầu trong bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi vẻ đẹp khỏe khoắn của con người lao động trong sự hài hòa với vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên kỳ vĩ.

Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn trên biển vừa diễm lệ, huyền ảo, lộng lẫy, rực rỡ nhưng cũng không kém phần huy hoàng, hùng vĩ, tràn đầy sức sống:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”

Câu thơ mở đầu với biện pháp nghệ thuật so sánh gợi ra cảnh mặt trời xuống biển thật ngoạn mục, rực rỡ, tráng lệ, khác hẳn cái thê lương thường thấy trong thơ cổ: “Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn”. Khi mặt trời nhập vào lòng biển thì cũng là lúc bóng đêm bao phủ khắp nơi. Vũ trụ bao la rộng lớn như ngôi nhà khổng lồ mà màn đêm là cánh cửa sập xuống, mỗi lượn sóng như những chiếc then cài. Biện pháp nghệ thuật nhân hóa khiến thiên nhiên trở nên gần gũi với con người.

Khi thiên nhiên vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu một ngày lao động mới:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Đến đây ta nhận thấy có sự đối lập giữa hoạt động của thiên nhiên và con người, Điều đó tạo nên tư thế làm chủ cuộc sống của người dân chài. Hình ảnh “Đoàn thuyền” gợi ra không khí đông vui tấp nập đầy khí thế của cảnh ra khơi. Từ “lại” cho thấy đây là công việc hằng ngày. Nổi bật trong khổ thơ là hình ảnh ẩn dụ: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” thật thơ mộng, khỏe khoắn và lãng mạn.

Đó là tiếng hát chan chứa niềm vui, niềm lạc quan của người dân chài khi được làm chủ thiên nhiên đất nước, làm chủ công việc mà họ yêu thích, gắn bó. Đoàn thuyền ra khơi với khí thế khẩn trương, hăm hở và niềm vui phơi phới hứa hẹn vào những thành quả tốt đẹp.

Không chỉ hát để đưa con thuyền ra khơi mà ngư dân còn hát để đưa cá vào lưới:

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”Câu hát là lời cầu mong biển lặng sóng yên để đoàn thuyền ra khơi được an toàn. Câu hát còn là lời cầu mong cho ngư dân bắt được nhiều cá. Giọng thơ ngọt ngào, ngân dài, vang xa ẩn chứa tấm lòng đôn hậu của người dân chài.

Bốn khổ thơ tiếp theo tả cảnh đánh cá trên biển vào đêm trăng. Trên cái nền hùng vĩ, mĩ lệ, đoàn thuyền hiện lên thật đẹp:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”

Câu thơ tả thực đậm chất lãng mạn, biển cả bao la hiền hòa, con thuyền có gió làm bánh lái, có trăng làm cánh buồm đang lướt đi như bay lên giữa trời cao biển rộng. Vẫn con người lao động ấy nhưng cảm hứng lãng mạn và bút pháp phóng đại đã đưa hình ảnh quen thuộc đến kì vĩ, lớn lao.

Cả vũ trụ như quây quần bên đoàn thuyền, không còn cảm giác nhỏ bé, lẻ loi của con người như trước cách mạng, mà ở đây con người lao động được tôn vinh mang tầm vóc và sức mạnh phi thường sánh ngang cùng vũ trụ. Đoàn thuyền bước vào trận đánh hừng hực khí thế và niềm tin:

Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Nhịp thở dồn dập, hối hả, lôi cuốn, con người chủ động dò bụng biển tiến vào khơi xa và thiên nhiên biển cả cũng góp sức với con người trên con đường lao động khám phá.

Khổ bốn là lời bài hát của người lao động ca ngợi sự phong phú giàu có của biển cả:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long

Biện pháp nghệ thuật liệt kê và miêu tả đã làm rõ vẻ đẹp muôn màu của biển cả lúc về đêm. Biển cả như một bức tranh sơn mài rực rỡ sắc màu với ánh sáng của trăng, của sao, của đuôi cá quẫy lấp lánh. Câu thơ cuối gợi về nhịp sống của vũ trụ trong màn đêm huyền ảo. Nhà thơ dường như đang mở rộng lòng mình để đón nhận những điều kì diệu của cuộc sống.

Tiếng hát khỏe khoắn, cường tráng lại vang lên giữa bao la trời đất:

Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”

Người dân chài vừa làm việc vừa hát bài ca gọi cá vào lưới. Tiếng hát đã làm khuấy động bầu trời đêm, vừa ngợi ca vẻ đẹp của người lao động vừa như mời gọi thiên nhiên tham gia vào buổi lao động. Một lần nữa, Huy Cận sử dụng yếu tố lãng mạn. Trăng lên cao như sà xuống, muôn vàn ánh trăng tan theo làn sóng vỗ vào mạn thuyền, như gõ nhịp cho lời bài ca.

Chất lãng mạn bao trùm bức tranh lao động khiến công việc trở nên nhẹ nhàng, đẹp và nên thơ. Biện pháp nghệ thuật so sánh: “Biển cho ta cá như lòng mẹ. Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” nhấn mạnh vẻ đẹp đẽ, giàu có, phong phú và biết bao ân tình, nhân hậu của biển cả quê hương. Ẩn chứa trong từng dòng thơ là tấm lòng biết ơn của người dân chài với biển mẹ bao dung.

5 khổ thơ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá có sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, hình ảnh thơ tươi sáng, đẹp đẽ, cảm xúc mãnh liệt. Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng linh hoạt tạo cho hình ảnh thơ nhiều ý nghĩa. Bài thơ là một bức tranh đẹp, một bản hùng ca hoành tráng và phấn khởi về thiên nhiên và con người. Phải có tình yêu sâu nặng, sự gắn bó bền chặt giữa con người với thiên nhiên, Huy Cận mới có thể biểu hiện được một cách sảng khoái đến thế.

Phân tích khổ 5 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 10

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu của nhà thơ Huy Cận trong giai đoạn sau cách mạng tháng tám thành công.

Có thể nhận xét rằng nếu như Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là bài ca về tinh thần quả cảm, về ý chí và trái tim thiết tha đối với miền Nam của những người lính chiến trên tiểu đội xe không kính, thì Đoàn thuyền đánh cá lại là khúc ca hùng tráng về công cuộc lao động của con người trong quá trình xây dựng và đổi mới đất nước ở miền Bắc trong những năm đầu sau giải phóng.

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác vào tháng 10/1958 sau khi nhà thơ có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng biển Hạ Long, Quảng Ninh. Tác phẩm về sau được in trong tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng (1858). Nhịp bài thơ là hành trình của đoàn thuyền đánh cá theo nhịp tuần hoàn của vũ trũ từ lúc hoàng hôn cho đến lúc bình minh. Trong bài thơ, hình ảnh đẹp và ấn tượng nhất đó là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng được khắc qua qua các khổ thơ 3, 4 và 5.

Nếu ở hai khổ thơ đầu bài là tình cảm náo nức say mê của con người trước cảnh đoàn thuyền giăng buồm biển ra khơi thì ở bốn khổ thơ tiếp theo tác giả Huy Cận tập trung thể hiện khúc ca đánh cá trên biển thật lãng mạn, vừa thi vị vừa hào hùng, mạnh mẽ với hình ảnh đoàn thuyền đánh cá ngập ánh trăng vàng soi.

Thuyền ta lái gió với buồm trăng,
Lướt giữa mây cao với biến bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”

Cảm hứng của nhà thơ đã men theo hình ảnh đoàn thuyền đánh cá để bộc lộ vì vậy nó rất chân thực, Huy Cận đã nhập thân vào những người lao động đánh cá để cùng bày tỏ nỗi niềm suy nghĩ và nội tâm của mình. Cách nói “Thuyền ta” bao hàm cả niềm tự hào của nhà thơ về sự gắn bó thân thiết với con thuyền, về cảm giác được làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống. Con thuyền mà nhà thơ miêu tả có những nét hết sức kỳ vĩ, lớn lao, thơ mộng và thi vị, đó là con thuyền được lái bằng sức gió, lấy ánh trăng làm buồm.

Cứ tưởng tượng rằng đoàn thuyền ra khơi vào một đêm trăng sáng, trên trời có ánh trăng sáng tỏ phủ xuống đoàn thuyền một cái màu nhàn nhạt tươi mát như dát vàng, lấp lánh trên cánh buồm, khiến nhà thơ có cảm nhận cánh buồm của đoàn thuyền được dệt nên từ ánh trăng. Gió vừa là động lực để khiến buồm căng đẩy thuyền ra khơi xa vừa đóng vai trò là người cầm lái cho con thuyền.

Dường như con thuyền ấy không còn lướt trên mặt biển mà đang lướt giữa “mây cao với biển bằng”, động từ “lướt” khiến ta liên tưởng đến tốc độ đi của con thuyền, cái nhịp đi ấy là một nhịp đi khá thanh thản, nhẹ nhàng và nhanh chóng. Vốn dĩ khi ra trước biển khơi mênh mông con thuyền sẽ trở nên mong manh nhỏ bé nhưng chỉ bằng vài dòng thơ Huy Cận đã đưa con thuyền lên tầm vóc mới, là con thuyền nổi bật giữa thiên nhiên, mượn sức thiên nhiên mà tiến về khơi xa trong phong thái hiên ngang, hùng dũng.

Đoàn thuyền ra giữa biển khơi “dò bụng biển” cho thấy con người đang tìm kiếm khai thác nguồn tài nguyên vô tận của thiên nhiên, đoàn thuyền và con người đang được làm chủ thiên nhiên hùng vĩ, đang nắm nó trong lòng bàn tay mà định đoạt. Biển cả lúc này đây không còn mênh mông, bao la, đáng sợ nữa mà trở thành nơi để con người lao động, là nơi cung cấp nguồn sống cho con người.

Trong đêm trăng thơ mộng ấy, đoàn thuyền đánh cá “Dàn dan thế trạn lưới vây giăng” trong đôi mắt nhìn của Huy Cận, thì công cuộc lao động không đơn giản chỉ là những công việc tay chân bình thường mà nó là cả một cuộc chiến, đòi hỏi cân sức cân tài, thi triển binh pháp, chiến đấu với thiên nhiên để thu được những thành quả tốt đẹp nhất.

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”

Tác giả dùng thủ pháp liệt kê tên các loài cá nhằm khơi gợi cho ta liên tưởng về sự giàu có, phì nhiêu nơi biển cả, cùng với đó là vẻ đẹp của thiên nhiên biển khơi đầy màu sắc rực rỡ. Câu “Cá đuôi em quẫy trăng vàng chóe” là một thủ pháp nghệ thuật nhân hóa để qua đó làm nổi bật vẻ đẹp lấp lánh ánh trăng đang phát ra từ đuôi của những con cá đang quẫy, một mặt lời thơ gợi được cái ánh trăng lấp lánh, mặt khác lại gợi được vẻ đẹp của những con cá.

Trong dòng thơ cuối “Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long”, màn đêm vẫn tĩnh tại, vô hình bỗng trở nên có sức sống có linh hồn qua cái hơi thở của con người cũng hồi hộp, cũng bồi hồi, vì vậy cảnh thơ càng trở nên thi vị và lãng mạn biết mấy. Hóa ra những con người lao động trên biển cả mênh mông ấy không chỉ biết vùi mình vào công việc mà họ cũng tinh tế để cảm nhận được cái vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng như hơi thở của thiên nhiên vào buổi đêm trăng sáng.

“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”

Việc sử dụng liên tục đại từ nhân xưng “ta” cho thấy Huy Cận đã thực sự nhập mình vào những người ngư dân, trở thành một phần không thể thiếu được của đoàn người đang hối hả say mê lao động trên biển cả.

Dường như cảnh lao động ấy giống như một bài ca đầy đắm say, nhịp nhàng, ngay cả thiên nhiên cũng như đang hòa nhịp ngân vang, thế nên nhà thơ mới viết câu “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao” tưởng tượng như ánh trắng chiếu xuống mặt biển dập dềnh sóng nước, sóng lại vỗ vào mạn thuyền như cánh trăng đang gõ vào mạn thuyền để xua cá vào lưới, đây là hình ảnh giàu chất thơ, chất thi vị và cũng giàu nhạc tính.

Hai câu thơ tiếp theo “Biển cho ta cá như lòng mẹ/Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”, thể hiện sự biết ơn sâu sắc đối với nguồn tài nguyên mà biển cả đã ban tặng cho con người, ông ví biển cả như lòng mẹ bao la yêu thương con người như những đứa con, chắt chiu từng chút tinh hoa quý giá để nuôi nấng con người.

Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trong đêm trăng được miêu tả qua các khổ thơ 3, 4 và 5 là một hình ảnh duy mỹ và thi vị mà thông qua đôi mắt nhìn lãng mạn, lạc quan đầy vui tươi của Huy Cận, ta đã thấy một khung cảnh lao động hùng tráng của con người. Con người lao động mạnh mẽ dường như đã hòa chung một nhịp với thiên nhiên tươi đẹp và được thiên nhiên chở che, bao dung như tình cảm của người mẹ đối với những đứa con bé bỏng.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học