Top 30 Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử

Tổng hợp các Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Top 30 Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử

Quảng cáo

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 1

Khi Trần Quốc Tuấn còn nhỏ, thân phụ ông với vua Trần Thái Tông, vốn là hai anh em trở nên bất hòa. Năm 1251, trước khi qua đời, Trần Liễu trăng trối với con trai rằng: "Con hãy vì cha mà lấy thiên hạ. Nếu không, nơi chín suối, cha không thể nhắm mắt!". Trần Quốc Tuấn tuy gật đầu, nhưng ông không cho đó là điều phải mà luôn tìm mọi cách xóa bỏ mọi hiềm khích trong hoàng tộc.

Cuối năm 1284, giặc Nguyên - Mông sắp kéo đại binh sang xâm lược nước ta, Trần Quốc Tuấn được vua Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh. Từ Vạn Kiếp, Vương kéo quân mã về Thăng Long để cùng Triều đình bàn kế chống giặc.

Một hôm, Trần Quốc Tuấn mời Thái sư Thượng tướng quân Trần Quang Khải xuống chiếc thuyền đóng tại Đông Bộ Đầu để đàm đạo. Trần Quốc Tuấn đã dùng nước thơm tắm cho Trần Quang Khải. Vừa dội nước thơm lên người Thái sư, vị Tiết chế Quốc công nói:

Quảng cáo

- Thật hạnh ngộ, tôi được tắm hầu Thái sư.

- Diễm phúc biết bao, tôi được Quốc công tắm cho.

Từ đó, mối tị hiềm giữa hai người được xóa bỏ hẳn.

Lúc bấy giờ thế giặc mạnh lắm, ta nên "đánh" hay nên "hòa"? Trần Quốc Tuấn đã xin Thái Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông mời các bô lão cao tuổi nhất, danh vọng nhất về Thăng Long để bàn kế giữ nước. Tại điện Diên Hồng tiếng hô "Quyết chiến! Quyết chiến!" của các bô lão rung chuyển Kinh thành.

Trần Quốc Tuấn viết "Hịch tướng sĩ" và "Binh thư yếu lược". Tướng sĩ hăm hở luyện tập cung tên, giáo mác, chiến mã. Hàng vạn hùng binh thích vào cánh tay hai chữ "Sát Thát". Mùa hè năm 1285, 50 vạn quân xâm lược Nguyên - Mông bị đánh tơi tả. Toa Đô bị quân ta chém đầu. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng tránh mũi tên tẩm thuốc độc mới thoát chết!

Dàn ý Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử

Quảng cáo

1.1 Mở bài

- Giới thiệu một sự việc có thật hoặc một nhân vật lịch sử quan trọng mà bài viết sẽ tập trung.

- Trình bày hoàn cảnh hoặc lý do tại sao tác giả chọn đề cập đến nhân vật hoặc sự kiện này.

1.2 Thân bài

a. Bối cảnh và dấu tích

- Mô tả không gian và thời gian xảy ra sự kiện hoặc cuộc sống của nhân vật.

- Đặc điểm và dấu vết liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện, giúp độc giả hình dung được ngữ cảnh.

b. Nội dung và diễn biến

- Trình bày diễn biến của sự việc hoặc cuộc đời của nhân vật, bắt đầu từ sự kiện ban đầu, diễn biến qua thời gian, và kết thúc.

- Sử dụng bằng chứng cụ thể như tư liệu, trích dẫn, hoặc chứng cứ để minh họa và củng cố câu chuyện.

- Kết hợp việc kể chuyện và miêu tả để làm cho câu chuyện sống động.

c. Vai trò và ý nghĩa

- Trình bày vai trò quan trọng của sự việc hoặc nhân vật trong ngữ cảnh lịch sử hoặc xã hội.

- Đề cập đến tầm ảnh hưởng và ý nghĩa của sự việc hoặc nhân vật đối với đời sống, văn hóa, hoặc nhận thức của con người.

1.3 Kết bài

- Tóm tắt và khẳng định lại ý nghĩa của sự việc hoặc nhân vật lịch sử.

- Nêu lên cảm nhận cá nhân hoặc quan điểm của người viết về sự việc hoặc nhân vật này.

Quảng cáo

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 2

Dân tộc Việt Nam trong quá khứ và hiện tại luôn rất anh hùng, dũng cảm, kiên trung xây dựng và bảo vệ đất nước. Có rất nhiều những tấm gương người anh hùng đã không tiếc máu xương để bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc. Anh Kim Đồng là một người như vậy.

Kim Đồng là một người dân tộc Tày. Cha mất sớm, anh sống cùng mẹ - một người phụ nữ đảm đang nhưng ốm yếu. Từ nhỏ, Kim Đồng đã dũng cảm, quyết đoán, mạnh mẽ, có tinh thần yêu nước, căm thù giặc.Tuy tuổi còn nhỏ nhưng anh rất hăng hái làm nhiệm vụ giao liên, đưa đón Việt Minh và chuyển thư từ. Anh được bầu làm đại đội trưởng đầu tiên của Đội Nhi đồng cứu quốc. Anh không ngại khó khăn, thử thách, nguy hiểm trên đường làm nhiệm vụ. Trong một lần làm nhiệm vụ, anh bị giặc Pháp bắn và hi sinh. Khi ấy, anh mới chỉ 14 tuổi. Đã có rất nhiều bài thơ, bài hát được sáng tác để ghi nhớ công ơn của anh.

Hình ảnh anh Kim Đồng sẽ luôn sáng mãi, là tấm gương cho thanh thiếu niên Việt Nam về tinh thần yêu nước sâu sắc, sự thông minh, gan dạ. 

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 3

Trong những thời kỳ đau thương của chiến tranh, nhiều con người dũng cảm của Việt Nam đã hy sinh để bảo vệ và chiến đấu cho sự độc lập của đất nước. Một huyền thoại của vùng Đất Đỏ là Võ Thị Sáu, một nữ anh hùng vĩ đại.

Võ Thị Sáu sinh năm 1933 và ra đi vào năm 1952. Nguyên quán của cô chỉ ghi rõ là huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Từ nhỏ, cô đã chứng tỏ tinh thần yêu nước và tham gia vào cuộc cách mạng cùng với anh trai. Cô gia nhập đội công an xung phong và đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ liên lạc và tiếp tế. Trong thời gian này, Võ Thị Sáu tham gia vào nhiều trận chiến để bảo vệ quê hương. Cô không chỉ tham gia vào những trận đánh quyết liệt, mà còn phát hiện và ngăn chặn những kế hoạch của kẻ thù, giúp đội công an thoát khỏi nguy hiểm và thậm chí tấn công địch.

Một ngày nọ, cô nhận nhiệm vụ quan trọng mang lựu đạn để thực hiện một phục kích nhằm tiêu diệt tên cai Tòng, một kẻ Việt gian bán nước đang hoạt động trong xã của mình. Mặc dù lựu đạn đã nổ, nhưng tên Tòng chỉ bị thương và không chết. Tuy nhiên, vụ tấn công này đã gây ám ảnh cho bọn lính địch và khiến họ không dám truy lùng Việt Minh như trước đây. Vào một lần thực hiện nhiệm vụ khác, Võ Thị Sáu bị bắt. Cô đã trải qua nhiều phiên thẩm vấn và bị giam giữ tại các nhà tù khác nhau, bao gồm Đất Đỏ, Bà Rịa và Chí Hòa. Trong một phiên tòa đầy tranh đấu, dù cô vẫn chưa tròn mười tám tuổi, luật sư biện hộ đã cố gắng cứu chị thoát khỏi án tử hình. Tuy nhiên, tòa án vẫn tuyên án tử hình cho Võ Thị Sáu. Cô và một số tù nhân cách mạng khác đã bị chuyển đến nhà tù Côn Đảo, nơi thực dân Pháp đã tiến hành hành quyết cô một cách lén lút.

Vào năm 1993, Nhà nước đã truy tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho Võ Thị Sáu. Cô trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm và kiên trì, ghi dấu trong lịch sử vĩ đại của đất nước.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 4

Mạc Đĩnh Chi (1272 - 1346), tự gọi là Tiết Phu, xuất thân từ thôn Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, là một nhân vật lịch sử đầy sáng tài và đáng kính trọng.

Tài năng vượt trội của Mạc Đĩnh Chi đã nhanh chóng được nhận biết. Với khả năng viết văn xuất sắc và sự thông minh, ông được vua Trần Ích Tắc của Chiêu Quốc nhận làm môn đồ, đồng thời được học tập và được chu cấp. Vào tháng 3 năm Giáp Thìn (1304), vua Trần Anh Tông đã tổ chức kỳ thi Thái học sinh để tìm kiếm tài năng. Trong kỳ thi này, chỉ có bốn mươi bốn thí sinh đỗ, và Mạc Đĩnh Chi là một trong số họ. Ông đạt danh hiệu Trạng nguyên và được bổ nhiệm làm Nội thư gia. Tuy nhiên, ông bị kỳ thị về ngoại hình vì thân hình thấp bé, nhưng Mạc Đĩnh Chi không để bản thân mình bị đánh bại. Ông đã viết bài phú "Ngọc tỉnh liên phú" để tự mình tôn vinh. Vua Trần Anh Tông đọc và không tiết lời khen ngợi ông.

Mạc Đĩnh Chi sau đó được giao nhiệm vụ đi sứ sang Trung Quốc. Tại đây, nhà Nguyên đã cố tình coi thường ông dựa vào ngoại hình. Tuy nhiên, Mạc Đĩnh Chi đã dùng sự thông minh của mình để xử lý tình huống. Trong một buổi gặp quan Tể tướng, ông nhận lầm một bức tranh thêu treo trên tường là con chim sẻ vàng đậu trên cành trúc. Mạc Đĩnh Chi đã giả vờ nhận lầm và nhảy tới chụp bắt con chim ấy, khiến toàn bộ quan đại thần nhà Nguyên cười đùa và cho rằng ông là người quê mùa. Tuy nhiên, ông đã tự tay kéo bức tranh xuống và xé nát nó. Khi mọi người tò mò hỏi lý do, ông giải thích: "Tôi biết rằng các vị cổ nhân chỉ vẽ tranh về mai - tước, chưa bao giờ vẽ tranh về trúc - tước. Vì trúc là biểu tượng của mẫu người quân tử, trong khi chim sẻ là biểu tượng của bọn tiểu nhân. Bức tranh thêu này lại miêu tả con chim sẻ vàng đậu trên cành trúc, tức là đang đặt tiểu nhân lên trên quân tử. Tôi lo sợ rằng làm như vậy sẽ làm đạo đức của tiểu nhân mạnh mẽ hơn, trong khi đạo đức của quân tử sẽ bị suy yếu. Vì thế, tôi xin phép thánh triều cho phép tôi phá bức tranh này." Lúc này, tất cả đều phải khâm phục tài năng và tư duy của ông.

Một sự kiện khác cho thấy sự tài năng của Mạc Đĩnh Chi là khi ông viết bài thơ minh khi tham gia vào một cuộc chầu đầu năm của triều đình Nguyên. Hoàng đế của triều đình Nguyên đọc bài thơ và đã khen ngợi ông rất cao. Từ đó, danh tiếng của Mạc Đĩnh Chi càng lớn lên, và ông được coi là "Lưỡng quốc trạng nguyên."

Có thể khẳng định rằng Mạc Đĩnh Chi là một tài năng vượt trội và đã có những đóng góp lớn cho đất nước trong lịch sử.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 5

Trong hành trình lịch sử của đất nước Việt Nam, chúng ta đã chứng kiến sự nảy sinh của nhiều anh hùng tài năng. Trong số họ, Trần Quốc Toản nổi lên như một biểu tượng đáng ngưỡng mộ và kính phục.

Trần Quốc Toản, hiệu là Hoài Văn hầu, thuộc dòng dõi Trần danh tiếng. Mặc dù không rõ năm sinh và năm mất, nhưng tên tuổi ông đã đi vào lịch sử với những thành tựu đáng tự hào.

Vào năm 1282, vua Trần Nhân Tông đã tổ chức Hội nghị quan trọng tại bến Bình Than, quy tụ các vương hầu và tướng lĩnh để thảo luận về chiến lược đối phó với quân giặc Mông - Nguyên. Do tuổi trẻ, Trần Quốc Toản không được tham dự sự kiện quan trọng này. Tuy nhiên, lòng tự trọng và tinh thần yêu nước không bao giờ rời xa ông. Ông đã biểu tượng hóa tinh thần quyết tâm bằng việc nắm một quả cam và bóp nát nó trong tay.

Không chấp nhận thất bại, Trần Quốc Toản đã huy động hơn nghìn gia nô và những người thân thiết để thu thập vũ khí và xây dựng chiến thuyền. Trên cờ, ông viết sáu chữ vàng: "phá cường địch, báo hoàng ân" (Phá giặc mạnh, đền ơn vua). Những lời kêu gọi và lá cờ của ông đã lan tỏa khắp nơi, truyền đi thông điệp về lòng dũng cảm và lòng yêu nước.

Năm 1285, quân Mông - Nguyên xâm lược nước ta, và lá cờ với sáu chữ vàng của Hoài Văn hầu trở nên phổ biến trên các mặt trận chiến đấu. Trần Quốc Toản đã trực tiếp lãnh đạo quân đội và góp phần quan trọng trong việc đánh bại quân địch tại các trận Hàm Tử, Tây Kết và Chương Dương. Cuối cùng, quân giặc đã phải rút lui khỏi Thăng Long và quay về Kinh Bắc (Bắc Ninh) để tìm đường thoát khỏi nước ta. Mất đi một tài năng quân lãnh, Trần Quốc Toản đã trở thành nguồn động viên lớn lao cho tinh thần chiến đấu của quân đội và nhân dân Việt Nam.

Sau khi hy sinh, vua Trần đã tỏ lòng thương tiếc bằng việc cử hành tang lễ và viết văn tế riêng cho Trần Quốc Toản, trao tặng danh hiệu Hoài Văn Vương.

Trần Quốc Toản không chỉ xuất sắc về tài năng mà còn mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp như dũng cảm, kiên cường và nghị lực. Ông đã trở thành một biểu tượng sáng ngời về ý chí và tình yêu đối với quê hương, để lại di sản cho các thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 6

Một nhân vật lịch sử vĩ đại của dân tộc ta mà em luôn hằng yêu quý và kính trọng là Bác Hồ.

Bác Hồ là một vị lãnh tụ với rất nhiều những phẩm chất tốt đẹp. Những mẩu chuyện nhỏ về cuộc sống đời thường của Bác cũng luôn truyền cảm hứng ý nghĩa cho nhân dân ta. Một sự việc có thật về bác mà em thường nghe kể chính là về một lần Bác trên đường thực hiện công tác. Hôm ấy, Bác cùng các cán bộ ngồi trên xe ô tô để di chuyển đến nơi diễn ra cuộc họp. Giữa đường, xe của Bác dừng lại chờ đèn đỏ khá lâu. Một anh bảo vệ trên xe đã định đi xuống, yêu cầu người gác đèn giao thông chuyển màu xanh để xe Bác được đi. Anh bảo vệ cho rằng, Bác là lãnh tụ của cả nước, hằng ngày có trăm công nghìn việc, nên Bác xứng đáng được ưu tiên trong những tình huống như thế này.

Tuy nhiên, sau khi nghe anh bảo vệ trình bày, thì Bác lắc đầu từ chối. Trong ánh mắt nghi hoặc của anh, Bác từ tốn giải thích. Rằng Bác cho rằng mình trước khi là lãnh tụ, thì cũng là một công dân của nước Việt Nam. Nên việc chấp hành đúng luật an toàn giao thông là điều hết sức hiển nhiên. Hơn nữa, nếu ai cũng lấy lý do là có nhiệm vụ trong người, là bản thân có công với đất nước để đòi quyền ưu tiên thì không được. Nghe Bác nói, anh bảo vệ rất xúc động. Hành động của Bác đã khiến anh càng thêm yêu quý và ngưỡng mộ nhân cách sáng ngời của vị Chủ tịch vĩ đại. Vậy là, anh nghiêm túc ngồi trên xe, cùng Bác chờ đèn xanh.

Câu chuyện trên là một trong rất nhiều những sự kiện liên quan về Bác Hồ mà mọi người vẫn thường kể. Câu chuyện nào cũng thật hay và ý nghĩa, giúp chúng em thêm hiểu để noi theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 7

“Người dân Việt Nam đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh” - đó là câu nói khắc ghi vào tâm khảm của người dân nước ta. Cùng những câu chuyện hào hùng về hành trình cứu nước của Bác, nhân dân ta còn truyền nhau những câu chuyện nhỏ đời thường của vị lãnh tụ vĩ đại này.

Có một câu chuyện kể về chuyến đi công tác của Bác. Trên đường di chuyển đến nơi tổ chức cuộc họp, xe của Bác phải dừng lại chờ đèn đỏ khá lâu. Anh chiến sĩ đi cùng trên xe định bước xuống để bảo anh công an giao thông ưu tiên cho xe Bác đi qua, thì bị Bác cản lại. Bác ôn tồn giải thích rằng, mình cũng là một công dân của nước Việt Nam, nên cũng cần tuân thủ luật pháp đã được đặt ra. Nếu ai cũng dùng quyền ưu tiên thì còn gì là luật lệ nữa chứ. Hơn nữa, anh công an giao thông kia đang làm rất tốt nhiệm vụ của mình, không có gì để trách phạt anh ấy cả. Nói rồi, Bác bình tĩnh ngồi trong xe chờ hết đèn đỏ, thì ra hiệu lái xe tiếp tục di chuyển. Hành động nhỏ bé ấy của Chủ tịch nước vĩ đại đã giúp anh chiến sĩ có một bài học đáng quý,

Chỉ qua một mẩu chuyện nhỏ như vậy, em đã hiểu thêm về phẩm chất tốt đẹp và cao quý của Bác Hồ. Thật may mắn cho dân tộc Việt Nam ta khi có một vị lãnh tụ tuyệt vời như Bác.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 8

Ngô Quyền là người anh hùng lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta. Ông là người mở ra thời kì độc lập, tự do của đất nước ta sau suốt cả ngàn năm bị giặc phương Bắc đô hộ.

Năm đó, Ngô Quyền là một tướng quân tài giỏi lại đức độ dưới trướng Dương Đình Nghệ. Khi ông cai quản vùng Châu Ái đã được nhân dân ở đó hết sức yêu mến và tin tưởng. Bởi ông đã đưa ra những chính sách, đường lối phù hợp cho sự phát triển của vùng đất, lại cai trị bằng tình yêu thương và bao dung. Những phẩm chất của một nhà lãnh đạo đại tài đã được Ngô Quyền thể hiện từ lúc ấy.

Tuy nhiên, những ngày tháng bình yên như thế lại không thể kéo dài. Một tên phản bội hèn hạ là Kiều Công Tiễn đã lén ám sát Dương Đình Nghệ và cầu cứu nhà Nam Hán, khiến chúng có lý do để sang xâm chiếm nước ta lần nữa.

Trước tình thế nguy cấp, Ngô Quyền lập tức đem quân về thành Đại La, giết tên phản bội Kiều Công Tiễn để ổn định lòng dân. Sau đó, ông bình tĩnh suy tính sách lược, đem đại quân di chuyển về sông Bạch Đằng - nơi quân Nam Hán sẽ đi qua để tiến vào nước ta. Tại đây, Ngô Quyền nghĩ ra một kế sách vô cùng sáng suốt, đến tận ngàn năm sau con cháu vẫn nhắc đến với lòng khâm phục. Lợi dụng mực nước khi thủy triều lên xuống ở sông Bạch Đằng, ông đã cho quân vót nhọn, bọc sắt ở những cây cọc lớn, cắm xuống lòng sông. Sao cho khi nước lên, cọc sẽ nằm hoàn toàn dưới mặt nước. Còn khi nước xuống thì cọ nhọn sẽ nhô lên cả, như một cái bẫy khổng lồ. Sau đó, Ngô Quyền chờ khi nước lên, cho quân ra dụ địch, giả vờ thua trận và bỏ chạy để dẫn chúng chạy theo vào trận địa cọc. Đúng lúc giặc chạy vào bẫy, là khi nước thủy triều hạ xuống, những chiếc tàu lớn của quân Nam Hán bị kẹt lại, bị cọc đâm vỡ, tổn thất nặng nề. Nhiều quân lính đã hi sinh trên bãi cọc. Số còn lại thì bị quân ta dùng thuyền nhỏ len qua cọc tấn công nên tử thương càng tăng thêm. Trận chiến ấy đã nhuộm đỏ sông Bạch Đằng bằng máu của bọn xâm lược, khiến chúng sợ hãi, bỏ chạy về nước.

Sau trận chiến ấy, cả nước ta vui sướng vô cùng và nhân dân càng thêm tin tưởng Ngô Quyền. Vì vậy, ông chính thức lên ngôi vua, lãnh đạo nước ta bước vào một kỉ nguyên mới.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 9

Lý Thường Kiệt là một vị tướng tài và có công lớn trong việc bảo vệ bờ cõi nước ta vào thời Lý. Cho đến nay, những trang sử về cuộc đời ông vẫn là những trang sử vàng chói lọi được con cháu kính trọng và tự hào.

Lý Thường Kiệt là một vị danh tướng vừa dũng mãnh, lại thông minh, tài trí. Ông được vua Lý Thánh Tông hết sức tin tưởng, nên giao cho quyền nắm giữ đại quân để bảo vệ đất nước. Năm 1069, quân Chăm Pa quấy phá, cướp bóc và làm loạn ở biên giới phía Nam nước ta. Biết tin, Lý Thường Kiệt liền được vua phong làm Đại Tướng, tiến về phía Chăm Pa để bảo vệ bờ cõi. Không phụ lòng tin của nhà vua và nhân dân, Lý Thường Kiệt dũng mãnh đánh thẳng vào kinh thành Chăm Pa, bắt vua Chăm Pa đưa về Thăng Long. Quá sợ hãi, vua Chăm Pa xin dâng đất để chuộc tội, và xin hứa không bao giờ dám làm loạn nữa. Sau lần ấy, Lý Thường Kiệt được giữ chức Thái Úy, đứng đầu toàn quân đội.

Ít lâu sau, nhà Tống ở phương Bắc lại lăm le xâm chiếm nước ta. Chúng lén lút đưa quân vào từ đường thủy, nhưng điều đó không thể qua mắt được quân đội ta. Lý Thường Kiệt đem quân trấn giữ ở bờ sông Như Nguyệt và có nhiều trận đánh lớn với giặc. Sự dũng mãnh và thiện chiến của quân đội dưới tay ông khiến kẻ địch phải khiếp sợ. Đặc biệt, Lý Thường Kiệt còn sáng tác bài thơ Nam Quốc Sơn Hà, sai người giả bị thần nhập, đọc lên bài thơ đó bên bờ sông, khiến quân địch nghe thấy mà khiếp vía. Khi kẻ địch hoang mang, sợ hãi, Lý Thường Kiệt chủ động đến gặp, đề nghị thương thảo với điều kiện quân Tống rút khỏi nước ta. Cuối cùng, quân Tống đành rút lui về nước khi chưa thể đánh chiếm một huyện thành nào của nước ta. Có được điều đó chính nhờ sự đa mưu túc trí của Lý Thường Kiệt.

Đến ngày nay, những trận đánh của Lý Thường Kiệt vẫn khiến người người phải kính nể. Cả cuộc đời ông đều dành cho việc bảo vệ bờ cõi nước Nam. Vì vậy, ông xứng đáng là một trong những vĩ nhân lịch sử đáng kính trọng nhất của nước ta.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 10

Một trong những nhân vật lịch sử mà em rất yêu quý và kính trọng là anh Kim Đồng. Bởi khác với các nhân vật khác, ngay từ khi còn nhỏ, anh ấy đã bộc lộ rõ nét sự thông minh, dũng cảm của mình khi hoạt động cách mạng.

Trong những năm tháng hoạt động cách mạng, anh Kim Đồng có nhiều câu chuyện để kể, nhưng em ấn tượng nhất là chuyện một lần anh ấy nhận nhiệm vụ canh gác cho cuộc họp Thanh niên cứu quốc bí mật. Lần đó, anh Kim Đồng nhận nhiệm vụ cùng với một đồng chí khác là Thanh Thủy. Anh đã chủ động phân công Thanh Thủy ra bờ sông đào giun cạnh thác nước để giật mõ báo hiệu khi cần. Còn mình thì chạy đi xin một con cá, cho vào giỏ, rồi mới cắm hờ cần câu vào cạnh gốc vối. Xong xuôi, anh trèo lên cành cây nằm vắt vẻo, giả vờ như đang câu cá, nhưng thực ra là đang hết sức tập trung chú ý động tĩnh ngoài bìa rừng.

Khi không khí đang hết sức bình yên, thì từ đằng ngoài khu rừng có tiếng lá khô xào xạc vang lên mạnh mẽ. Đàn chim làm tổ ở phía đó cũng bay vụt cả lên. Thấy vậy, anh Kim Đồng biết ngay là có người tới. Khi nghe thấy âm thanh ngày càng gần, anh giả vờ reo to lên “A, cá cắn câu rồi! To quá đi!”. Âm thanh đó, đã thu hút bọn lính chạy lại chỗ của anh. Đối mặt với những tên lính cao to, anh không hề sợ hãi, mà vẫn tiếp tục giả vờ để giữ chân chúng lại. Một tên lính hỏi anh Kim Đồng: “Đâu, cá đâu? Mày câu được nhiều cá chưa?”. “Dạ chưa, cháu mới câu được mỗi con này”. Nói rồi, anh Kim Đồng đưa cho bọn lính xem con cá nhỏ nằm im trong giỏ, vốn được xin từ lúc nãy. Điều đó đã khiến bọn lính tin là thật và không hề nghi ngờ chút nào. Thấy có con cá nhỏ, chúng tặc lưỡi bỏ qua, rồi lại tiếp tục lên đường tìm kiếm. Còn anh Kim Đồng thì lại trèo lên cành cây, giả vờ tiếp tục nằm câu cá. Nãy giờ, nhờ có anh Kim Đồng thông minh, nhanh trí sắp xếp mọi việc, mà Thanh Thủy có đủ thời gian giật mõ báo tin cho cuộc họp ở trong rừng. Vậy nên, bọn lính khi đi đến thì chẳng còn ai ở đó nữa rồi.

Chỉ qua một mẩu chuyện ấy, cũng đủ để lột tả sự thông minh, nhanh trí và dũng cảm của anh Kim Đồng. Anh ấy chính là một tấm gương sáng ngời cho các bạn thiếu niên noi theo.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 11

Đinh Bộ Lĩnh là một vị vua tài giỏi nổi tiếng của nước ta ở thời kì phong kiến. Ông còn được biết đến với danh xưng “Ông vua cờ lau”.

Đinh Bộ Lĩnh sinh ra khi nước ta đang trong tình trạng chia cắt thành mười hai cát cứ. Từ khi còn nhỏ, ông đã thể hiện được tài năng lãnh đạo và mưu lược của mình, nên được đám trẻ trong làng tôn sùng. Mỗi khi chơi trò đánh trận, Đinh Bộ Lĩnh luôn đành được chiến thắng và được đám trẻ làm kiệu rước đi.

Khi trưởng thành, Đinh Bộ Lĩnh tham gia đạo binh thuộc sứ quân của Trần Lâm. Với sự dũng cảm và mưu lược tài tình của mình, ông nhanh chóng được thăng chức làm Bộ Lĩnh. Sau khi Trần Lâm qua đời, Đinh Bộ Lĩnh thống lĩnh sứ quân dời về Hoa Lư. Rồi bắt đầu chiêu mộ hào kiệt, rèn luyện lực lượng để chuẩn bị cho mục tiêu lớn.

Khi thời cơ đã chín muồi, lực lượng đã lớn mạnh, Đinh Bộ Lĩnh lãnh đạo sứ quân của mình bắt đầu chinh chiến. Chỉ trong vòng một năm, ông đã dẹp loạn mười hai sứ quân, thống nhất đất nước. Nhân dân cả nước vô cùng kính phục ông, nên tôn ông làm Vạn Thắng Vương. Hai năm sau, Đinh Bộ Lĩnh chính thức lên ngôi hoàng đế, đặt tên nước ta là Đại Cồ Việt. Lên ngôi vua, Đinh Bộ Lĩnh đưa ra nhiều chính sách mới giúp đất nước phát triển mạnh mẽ, cuộc sống nhân dân càng thêm ấm no. Vì vậy, ông được muôn dân kính yêu, ca ngợi hết lời.

Tuy nhiên, Đinh Bộ Lĩnh tại vị được mười hai năm thì qua đời khi còn nhiều dự định còn dang dở. Cả cuộc đời của ông đã cống hiến cho sự thống nhất và phát triển của đất nước. Vì vậy, Đinh Bộ Lĩnh xứng đáng là một trong những trang vàng chói lọi nhất của lịch sử nước nhà.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 12

“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” - đây là câu nói bất hủ của Bác Hồ, và nó vẫn luôn đúng không chỉ ở hiện tại, mà còn đúng với lịch sử suốt ngàn năm qua của dân tộc ta. Khi nhắc đến những nữ anh hùng oai phong, thì không thể không nhắc đến Hai Bà Trưng.

Hai Bà Trưng là cách gọi chung của hai nữ vương Trưng Trắc và Trưng Nhị. Lúc bấy giờ, nước ta nằm dưới ách đô hộ của giặc phương Bắc, lúc nào cũng phải chịu sự đàn áp, bóc lột nặng nề. Để đề phòng dân ta vùng dậy, hễ có người tài xuất chúng nào nổi lên là giặc tìm cách tiêu diệt cho bằng được. Chính vì vậy, khi thấy chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị có tài thao lược lại được lòng dân chúng thì giặc phương Bắc vô cùng e dè. Chúng quyết định ủ mưu giết chết chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách để đe dọa, làm thấp đi ý chí của bà. Ngờ đâu, hành động đó lại thổi bùng lên ngọn lửa căm hận trong Trưng Trắc. Vậy là để trả thù nước và cũng để trả nợ nhà, bà đã lãnh đạo nhân dân đứng lên đánh đuổi lũ giặc phương Bắc. Nghĩa quân của bà lớn mạnh nhanh chóng, đi đến đâu cũng được nhân dân ủng hộ, góp sức, góp của. Nhờ vậy, đội quân của Hai Bà Trưng nhanh chóng đánh đuổi được quân giặc, dành lại độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, chỉ hơn hai tháng sau, quân phía Bắc đã cử một binh đoàn mạnh mẽ và tinh nhuệ sang để đàn áp hai bà, chấm dứt thời gian độc lập ngắn ngủi ấy.

Dù vậy, chiến công của Hai Bà Trưng vẫn vô cùng ý nghĩa đối với đất nước ta. Nó đã trở thành mồi lửa đầu tiên trong đống than hồng âm ỉ tình yêu nước và khát vọng độc lập. Để bắt đầu cho chuỗi những khởi nghĩa ngày càng lớn mạnh hơn của dân tộc ta sau này,

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 13

Thánh Gióng là một nhân vật anh hùng mà người dân Việt Nam ai ai cũng biết. Không chỉ vì truyền thuyết về Thánh Gióng vô cùng phổ biến trong dân gian, mà còn bởi đến ngày nay vẫn có nhiều chứng tích và hoạt động lễ hội tưởng nhớ.

Thánh Gióng được biết đến bởi quá trình sinh ra và lớn lên lạ kì. Theo truyền thuyết kể lại, mẹ của Thánh Gióng vì ướm chân lên một vết chân to mà mang thai và sinh ra cậu. Tuy nhiên, suốt ba năm đầu đời, Gióng chỉ nằm im một chỗ, không nói cũng chẳng cười, tựa như một em bé búp bê vậy. Cuộc sống cứ thế lẳng lặng trôi qua, cho đến một ngày điều khó khăn ập đến. Giặc Ân từ nơi xa kéo đến nước ta, tổ chức cuộc xâm lăng man rợ. Đất nước lâm nguy, nhà vua cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp nước. Khi sứ giả đi ngang qua nhà Thánh Gióng, đọc khẩu dụ của nhà vua thì Gióng bỗng trở nên khác lạ. Cậu cử động thân mình, cất tiếng gọi mẹ và nhờ bà gọi sứ giả vào gặp mình. Đó là lần đầu trong suốt bao nhiêu năm cuộc đời Gióng cất tiếng nói, và cũng là để cứu nước. Chi tiết ấy đã cho thấy sứ mệnh vĩ đại của Thánh Gióng khi đến với thế giới này, chính là bảo vệ độc lập của đất nước ta.

Ngay khi gặp sứ giả, Thánh Gióng đã yêu cầu một con ngựa sắt, một bộ giáp sắt và một cây gậy sắt với kích thước to lớn. Hiểu được mình đã gặp được một người anh hùng phi phàm, sứ giả đồng ý ngay và vội vàng về tâu với nhà vua cho sản xuất các món đồ đó. Còn Thánh Gióng, sau khi sứ giả rời đi, thì bỗng nhiên ăn nhiều hơn hẳn. Cậu ăn mãi mà chẳng thấy no, cơ thể cũng theo đó mà cao lớn nhanh chóng. Áo mẹ vừa mặc cho đã sứt chỉ rồi. Thế là, dân làng đã chủ động sang nhà góp gạo, nấu cơm cho Gióng ăn. Cả làng cùng đồng sức đồng lòng để nuôi lớn người anh hùng.

Khi giặc Ân đã chạy đến chân núi, cũng là lúc sứ giả mang các món đồ bằng sắt đến. Ngay lập tức, sóng chạy ra giữa sân, vươn vai một cái rồi biến thành tráng sĩ cao lớn, vạm vỡ. Tráng sĩ mặc giáp sắt vào, tay cầm gậy sắt, tay còn lại vỗ vào mông ngựa, khiến nó sống dậy, phun ra từng ngọn lửa lớn. Xong xuôi, Gióng cưỡi lên lưng ngựa, lao ra chiến trường. Quân giặc đông đúc bị một mình Thánh Gióng đánh cho trở tay không kịp. Chúng nằm xuống như ngả rạ, thương vong nặng nề. Số còn lại thì quá sợ hãi, vứt bỏ vũ khí tìm đường tháo chạy. Tất cả bị Thánh Gióng truy đuổi đến tận biên giới, để đảm bảo cả nước ta không còn hình bóng của một kẻ thù nào. Trên đường đi, gậy sắt bị gãy, Thánh Gióng liền nhổ bụi tre ven đường để thay thế.

Kết thúc trận chiến, nước ta trở lại bình yên. Thánh Gióng đã hoàn thành sứ mệnh của mình bèn cởi áo giáp sắt để lại, rồi cưỡi ngựa bay về trời. Đó là sự việc về người anh hùng lịch sử Thánh Gióng.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 14

Có thể khẳng định rằng, Hai Bà Trưng được biết đến là những vị nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Vào đầu thế kỉ I, nước ta bị nhà Hán đô hộ. Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định nổi tiếng tham lam, tàn bạo. Hai chị em là Trưng Trắc, Trưng Nhị sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, nên sớm có lòng căm thù giặc. Bấy giờ, Trưng Trắc cùng chồng của mình là Thi Sách đã liên kết với các thủ lĩnh khác để chuẩn bị cho cùng nổi dậy. Ngay lúc này, Thi Sách lại bị Tô Định bắt và giết hại. Hai Bà Trưng quyết tâm khởi nghĩa để đền nợ nước, trả thù nhà.

Diễn biến cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng gồm có hai giai đoạn. Lần một vào năm 40, cuộc khởi nghĩa thu hút được hào kiệt khắp nơi về gia nhập. Nghĩa quân đã nhanh chóng đánh bại được quân nhà Hán, làm chủ Mê Linh, rồi tiến về Cổ Loa và Lụy Châu. Quan thái thú Tô Định bỏ thành, chạy trốn về Nam Hải (Quảng Đông, Trung Quốc). Quân Hán ở các quận huyện khác cũng gặp thất bại. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi hoàn toàn.

Đến năm 42, nhà Hán tiếp tục trở lại xâm lược, cử Mã Viện chỉ đạo cánh quân xâm lược này gồm có hai vạn quân tinh nhuệ, hai nghìn xe thuyền và nhiều dân phu. Chúng tấn công quân ta ở Hợp Phố, nhân dân ở Hợp Phố đã anh dũng chống trả nhưng vẫn gặp thất bại. Sau khi chiếm được Hợp Phố, Mã Viện đã chia quân thành hai đạo thủy bộ tiến Lục Đầu và gặp nhau tại Lẵng Bạc. Sau khi nhận được tin tức, Hai Bà Trưng kéo quân từ Mê Linh về nghênh chiến với địch tại Lãng Bạc. Quân ta giữ vững được Cổ Loa và Mê Linh nhưng Mã Viện tiếp tục đuổi theo buộc quân ta phải lùi về Cẩm Khê. Tháng 3 năm 43, Hai Bà Trưng hy sinh ở Cẩm Khê. Cuộc kháng chiến vẫn kéo dài đến tháng 11 năm 43 sau đó mới bị dập tắt. Dù thất bại, nhưng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vẫn có ý nghĩa to lớn.

Có thể khẳng định rằng, Hai Bà Trưng chính là tấm gương về sự dũng cảm, tấm lòng yêu nước để thế hệ sau noi theo.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 15

Từ xưa đến nay, dân tộc Việt Nam vốn tự hào với truyền thống yêu nước của dân tộc. Trong bất cứ thời đại nào, đất nước cũng có những bậc anh hùng đứng lên lãnh đạo nhân dân đánh bại kẻ thù xâm lược, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Một trong số đó phải kể đến Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn.

Trần Quốc Tuấn (1231? - 1300), tước Hưng Đạo Đại Vương. Ông là con trai của thân vương An Sinh Vương - Trần Liễu. Ông sinh ra trong một thời kì “hỗn loạn” của nhà Trần. Năm 1285 và năm 1287, quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta, lần nào ông cũng được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, cả hai lần đều thắng lợi vẻ vang. Vào đời vua Trần Anh Tông, ông về trí sĩ ở Vạn Kiếp (nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) rồi mất ở đấy. Nhân dân tôn thờ ông là Đức thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều trên đất nước.

Trần Quốc Tuấn được biết đến là một người thông minh, văn võ song toàn. Ông chính là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc thời Trần, góp công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên của dân tộc. Không chỉ vậy, ông cũng có nhiều tác phẩm hay, chủ yếu liên quan đến binh pháp. Các tác phẩm của ông gồm Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ), Binh gia diệu lý yếu lược (Binh thư yếu lược), Vạn Kiếp tông bí truyền thư (Sách bí truyền của tông phái Vạn Kiếp, đã bị thất lạc).

Có rất nhiều tích truyện kể về Trần Quốc Tuấn. Trong đó, chúng ta có thể kể đến việc Trần Quốc Tuấn viết “Hịch tướng sĩ”. Bài hịch được viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai (1285). Mục đích của Trần Quốc Tuấn nhằm khích lệ tướng sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược (Sách tóm tắt những điều cốt yếu về binh pháp) cũng do chính ông soạn.

Nội dung chính của “Hịch tướng sĩ” phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Điều đó được thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược. đưa ra những tấm gương thể hiện sự trung thành của các vị tướng thời trước. Sau đó ông nêu lên tội ác của quân giặc, bộc lộ nỗi lòng của mình trước hoàn cảnh của đất nước. Ông chỉ ra sự sai trái trong hành động, suy nghĩ của các tướng sĩ. Cuối cùng là lời kêu gọi tướng sĩ học tập theo “Binh thư yếu lược”.

Có thể thấy rằng, Trần Quốc Tuấn không chỉ là một người tài ba anh dũng còn là một vị tướng hết lòng vì vận mệnh đất nước. Ông là một vị anh hùng kiệt xuất, được thế giới tôn vinh là một trong những vị tướng vĩ đại nhất mọi thời đại.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 16

Dân tộc Việt Nam đã trải qua những năm tháng chiến tranh. Rất nhiều vị anh hùng đã góp phần làm nên lịch sử của dân tộc. Một trong số đó phải kể đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh là Võ Giáp, bí danh là Văn. Ông sinh năm 1911, mất năm 2013. Quê tại làng An Xá, nay là xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước, nên từ nhỏ đã được giáo dục về lòng căm thù giặc và tình yêu quê hương, đất nước.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Võ Nguyên Giáp được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng, giao cho nắm giữ trọng trách quan trọng. Chuyện kể rằng cuối năm 1954, Ban Thường vụ T.Ư quyết định thành lập Bộ Chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận Điện Biên Phủ do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận. Trước khi ra mặt trận, Bác Hồ có hỏi: “Chú đi xa như vậy, chỉ đạo chiến trường có gì trở ngại?”. Đại tướng trả lời: “Thưa Bác, chỉ trở ngại là ở xa, khi có vấn đề gì quan trọng, khó xin ý kiến của Bác và Bộ Chính trị!”. Bác bảo: “Tướng quân tại ngoại, trao cho chú toàn quyền quyết định rồi báo cáo sau”. Khi chia tay, Bác căn dặn: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh!”.

Nhờ có sự tin tưởng tuyệt đối của Bác Hồ đã củng cố quyết tâm thực hiện phương châm tác chiến phải “đánh chắc, tiến chắc” của Đại tướng. Kết quả là chiến dịch Điện Biên Phủ đã giành thắng lợi vẻ vang.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp được coi là người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông đã trở thành tấm gương sáng ngời để thế hệ sau noi theo.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời của Người đã cống hiến cho đất nước và nhân dân. Có rất nhiều sự việc liên quan đến Bác đã được kể lại.

Sự việc dưới đây xảy ra trước khi Bác Hồ quyết định ra đi tim đường cứu nước. Hồi ấy, ở Sài Gòn, Bác Hồ có một người bạn tên là Lê. Một hôm, Bác Hồ hỏi bác Lê:

- Anh có yêu nước không?

Bác Lê trả lời:

- Có chứ!

- Anh có thể giữ bí mật không?

- Có!

- Tôi muốn đi ra nước ngoài xem Pháp và các nước khác họ làm như thế nào. Sau đó, trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng đi một mình cũng mạo hiểm. Anh có muốn đi với tôi không?

Bác Lê sửng sốt:

- Nhưng chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?

- Đây, tiền đây!

Vừa nói. Bác Hồ vừa giơ hai tay ra và tiếp:

- Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Anh đi với tôi chứ?

Và sau đó, vào ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, chỉ có người thanh niên tên Nguyễn Tất Thành (sau đổi thành Văn Ba ) lên đường sang Pháp. Bác đã xin làm nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville.

Chủ tịch Hồ Chí Minh làm tấm gương của sự dám nghĩ, dám làm. Bác đã ấp ủ ý định và quyết tâm thực hiện, điều đó cũng xuất phát từ chính tấm lòng yêu nước, thương dân sâu nặng.

Như vậy, Bác chính là tấm gương sáng người để mỗi người học tập theo. Mỗi câu chuyện về Bác đều ý nghĩa và đáng trân trọng.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 18

Một trong những vị anh hùng dân tộc đáng ngưỡng mộ phải kể đến là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông được coi là người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh là Võ Giáp, bí danh là Văn. Ông sinh năm 1911, mất năm 2013. Quê tại làng An Xá, nay là xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

Có rất nhiều mẩu chuyện kể về vị tướng huyền thoại của nhân dân. Truyện kể rằng, cụ Võ Quang Nghiêm, thân sinh của Đại tướng là liệt sĩ. Sau khi tìm được mộ cụ và đưa từ Huế về (1977), hài cốt cụ được đưa vào nghĩa trang liệt sĩ huyện. Khi thiết kế nghĩa trang, huyện đã chừa hai ô ở khu các anh hùng, có ý sẽ an táng song thân Đại tướng ở đó. Nhưng lúc biết chuyện, Đại tướng nói:

- Cảm ơn thiện ý của lãnh đạo huyện, nhưng ông thân tôi là liệt sĩ bình thường nên không thể đặt ở khu vực dành cho các anh hùng. Còn thân mẫu tôi là người dân, không thể đặt vào nghĩa trang liệt sĩ

Vì vậy, theo lời Đại tướng, cụ thân sinh được đặt ở cạnh khu vực các anh hùng liệt sĩ, còn thân mẫu được an táng phía ngoài nghĩa trang, cách khuôn viên vài chục mét.

Từ câu chuyện nhỏ này, có thể thấy rằng Đại tướng đã nghiêm túc thực hiện lời dạy của Bác Hồ: Người cách mạng phải “dĩ công vi thượng”! Quả là người học trò gương mẫu của Bác.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng. Không chỉ vậy, ông còn là tấm gương về một nhân cách lớn cho thế hệ sau noi theo.

Xem thêm các bài văn mẫu 7 Kết nối tri thức hay khác:

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, KHÓA HỌC DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 7

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống (NXB Giáo dục). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 7 Kết nối tri thức khác
Tài liệu giáo viên