15+ Em đọc sách báo trang 14 (về trẻ em, hoặt động bảo vệ, chăm sóc trẻ em) lớp 5 (học sinh giỏi)
Tổng hợp các bài văn Em đọc sách báo trang 14 (về trẻ em, hoặt động bảo vệ, chăm sóc trẻ em) hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
15+ Em đọc sách báo trang 14 (về trẻ em, hoặt động bảo vệ, chăm sóc trẻ em) lớp 5 (học sinh giỏi)
Em đọc sách báo trang 14 (về trẻ em, hoặt động bảo vệ, chăm sóc trẻ em) - mẫu 1
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
TCCS - Nhận thức sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của trẻ em đối với gia đình và xã hội - “người chủ tương lai của nước nhà”(1) - Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tạo môi trường sống an toàn, lành mạnh để trẻ em phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức, góp phần bổ sung nguồn nhân lực có chất lượng cho đất nước.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Chứng kiến và nhận thức rõ những bất công của chế độ thực dân ở Việt Nam, trong đó có việc chúng lợi dụng, bóc lột sức lao động, tước đi quyền được học tập, quyền được phát triển trí tuệ của trẻ em, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án chế độ thực dân: “Những khổ đau của các nhân dân thuộc địa bị áp bức bắt đầu từ khi họ ra đời. Trẻ em cũng chịu đau khổ vì sự bất công xã hội chẳng khác gì người lớn”(2). Cho nên, trong hành trình bôn ba khắp năm châu bốn biển, người thanh niên Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc không chỉ quan tâm tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc mà còn chú ý tìm hiểu về quyền con người nói chung và quyền của trẻ em nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho các cháu thiếu niên, nhi đồng tình thương yêu và quan tâm đặc biệt. Với Người, trẻ em là những mầm non, cần được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục về mọi mặt, sức khỏe, học tập, vui chơi, giải trí. Đây chính là sứ mệnh vẻ vang “vì tương lai của con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các cháu bé cho tốt”(3), góp phần quan trọng vào công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, tạo động lực cho sự phát triển, đưa đất nước tiến tới dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nhằm tạo môi trường thuận lợi cho trẻ em phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò to lớn của giáo dục mầm non, xem đây là nền tảng cho việc học tập và thành công sau này của trẻ, Người chỉ rõ: “Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế thì trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ, chịu khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy trẻ cũng như trồng cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu thành người tốt”(4). Về nội dung giáo dục, Người cũng nhắc nhở nhiều lần: “Cần chú trọng hơn nữa về mặt đức dục. Dạy cho các cháu đạo đức cách mạng, biết yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu khoa học, yêu lao động và người lao động, thật thà, dũng cảm, sẵn sàng tham gia lao động và bảo vệ Tổ quốc”(5). Về phương pháp giáo dục, Người nêu rõ dạy trẻ em học “phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn”(6). Đặc biệt, “khi giáo dục phải thiết thực không được làm cho các cháu thành những “con vẹt”, làm sao cho các cháu khi chơi là được học, mà trong khi học vui vẻ như được chơi”(7). Đây là “việc CHUNG của gia đình, trường học và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách; trước hết là phải làm gương mẫu cho các em trước mọi việc”(8). Vì gia đình, nhà trường là nơi có ảnh hưởng trực tiếp tới sự định hình, phát triển nhân cách của con người; xã hội là nơi thử thách, đánh giá sự trưởng thành của nhân cách đó. Cho nên, mỗi trẻ em nếu có được sự quan tâm đúng mức từ ba môi trường này, nhất là từ gia đình thì tất yếu sẽ có điều kiện phát triển lành mạnh để hình thành, phát triển nhân cách tốt cho trẻ.
Người yêu cầu đối với trẻ em là phải giáo dục thế nào cho các cháu “biết đoàn kết, ham học, ham làm, nhưng phải làm sao cho các cháu giữ được tính chất của trẻ con. Phải làm sao cho trẻ em có kỷ luật nhưng vẫn vui vẻ, hoạt bát chứ không phải là khúm núm, đặt đâu ngồi đấy”(9). Giáo dục các em trở thành những người biết: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu quý của công. Chúng ta phải khéo nuôi dạy, giúp cho nhi đồng phát triển sức khoẻ và trí óc, thành những trẻ em có “4 tính tốt”: hoạt bát, mạnh dạn, chất phác, thật thà”(10). Ngoài việc học, Người cũng yêu cầu: “cần hướng dẫn các em chơi vui một cách tập thể và có văn hóa như hát, múa, làm kịch, cắm trại... Và khuyến khích các em tham gia việc tăng gia sản xuất, thăm viếng thương binh, giúp đỡ gia đình liệt sĩ...”(11), đào tạo trẻ em thành những công dân có ích cho xã hội trên tinh thần “tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình”(12).
Quan điểm nhất quán về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được thể chế hóa thành quyền trẻ em trong đạo luật cơ bản đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được quy định rõ trong Hiến pháp năm 1946: “Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp”(13). Đây là những quy định mang tính pháp lý cao nhất lúc bấy giờ, khẳng định quyền được học tập, quyền được vui chơi, quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam. Bên cạnh việc khẳng định quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em, những lợi ích mà trẻ em được hưởng thụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm của trẻ em. Trong thư gửi thiếu niên, nhi đồng toàn quốc nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Đội Thiếu niên Tiền phong, ngày 15-5-1961, Người nêu rõ 5 điều: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào/ Học tập tốt, lao động tốt/ Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt/ Giữ gìn vệ sinh/ Thật thà, dũng cảm”(14).
Việc gắn liền quyền với trách nhiệm của trẻ em, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cần phải từng bước nâng cao ý thức tự giác của trẻ em để phát huy mọi khả năng của các em, để trau dồi kiến thức, phẩm chất đạo đức của mình phục vụ cho Tổ quốc. Theo Người: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”(15). Đây chính là kỳ vọng, mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thế hệ tương lai của Việt Nam, trở thành động lực thôi thúc các em phấn đấu, rèn luyện, trau dồi kiến thức, kỹ năng góp phần vào công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Như vậy, quan điểm về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước ta hoàn thiện cơ sở pháp lý và hiện thực hóa quyền của trẻ em. Hiện nay, về cơ bản, nước ta có một hệ thống pháp luật về quyền trẻ em tương đối đầy đủ, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hài hòa với pháp luật quốc tế và ứng phó kịp thời với những mối quan hệ xã hội mới, tạo hành lang pháp lý toàn diện nhằm bảo vệ và thực hiện quyền trẻ em ở mức cao nhất.
Hành động vì trẻ em
Nhận thức sâu sắc về vai trò của trẻ em đối với tương lai, vận mệnh của đất nước: “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy, chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ”(16), nên Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất để trẻ em được phát triển toàn diện, có môi trường sống an toàn, lành mạnh.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, cùng với nhiều chính sách kinh tế, xã hội được ban hành, Nhà nước ta đã phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, ngày 20-2-1990. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước này. Điều đó đã làm thay đổi khá nhanh nhận thức và hành động đối công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở Việt Nam, theo đó: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình, xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”(17). Trên tinh thần ấy, quyền được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và các quyền khác của trẻ em tiếp tục được thể chế hóa trong các văn bản luật và các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương(18) phù hợp với công ước quốc tế và truyền thống văn hoá của dân tộc, đặc biệt là đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay và phát huy đầy đủ quyền của trẻ em.
Hệ thống bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cấp quốc gia được thành lập từ rất sớm, với nhiều hoạt động ý nghĩa và thiết thực, điển hình như Quỹ Bảo trợ trẻ em, là quỹ duy nhất của Nhà nước được thành lập từ ngày 4-5-1992 theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (nay sửa đổi là Luật Trẻ em 2016), có chức năng vận động sự đóng góp tự nguyện của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở trong nước và nước ngoài, viện trợ quốc tế và hỗ trợ của ngân sách nhà nước trong trường hợp cần thiết để thực hiện các mục tiêu về trẻ em được Nhà nước ưu tiên. Quỹ hoạt động theo phương châm “tận tâm - minh bạch - kịp thời - cùng tham gia”. Sau 30 năm hoạt động, hệ thống Quỹ Bảo trợ trẻ em đã vận động gần 7.610 tỷ đồng, hỗ trợ hơn 34 triệu lượt trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn(19). Nhiều chương trình hoạt động của quỹ đã thể hiện sức sáng tạo, tận tâm, tiên phong vì cộng đồng, vì cuộc sống tốt đẹp cho trẻ em. Tiêu biểu như chương trình “Mùa xuân cho em”, “Phẫu thuật nụ cười”, “Cùng em đến trường”, “Vì trái tim trẻ thơ”… đã hỗ trợ nhiều mặt cho các em từ thể chất lẫn tinh thần, giúp các em tiếp cận với các điều kiện để phát triển toàn diện. Hoạt động của Quỹ trải dài trên khắp mọi miền Tổ quốc, đặc biệt ưu tiên cho những trẻ em còn thiệt thòi, khó khăn, thiếu thốn về nhiều mặt trong cuộc sống. Hay, Tổng đài Quốc gia bảo vệ trẻ em có đường dây nóng là 111 (do Cục trẻ em thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý). Sau 19 năm hoạt động (từ năm 2004 - 2023) đã tiếp nhận 5.398.105 cuộc gọi đến, trong đó, đã tư vấn 469.408 cuộc gọi và hỗ trợ, can thiệp cho 9.601 ca trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực, bị mua bán, bị bóc lột, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và vi phạm quyền trẻ em(20). Tổng đài còn tư vấn tâm lý, pháp luật, chính sách cho trẻ em, cha mẹ, thành viên gia đình, người chăm sóc trẻ em. Lưu trữ, phân tích, tổng hợp thông tin để cung cấp, thông tin, thông báo, tố giác khi có yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đối với vụ việc xâm hại trẻ em và các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em.
Ngoài ra, các hoạt động truyền thông vận động xã hội nhằm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện, tạo sự chuyển biến tích cực về cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; đồng thời, chất lượng phúc lợi xã hội dành cho trẻ em được nâng cao. Nhiều mô hình hỗ trợ can thiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em tại cộng đồng đã thu hút các tổ chức kinh tế, xã hội, nhà chuyên môn, cá nhân trong và ngoài nước tham gia. Sự tham gia rộng rãi đó đã hình thành nên nhiều phong trào có ý nghĩa thiết thực, như: phong trào “Người lớn gương mẫu, trẻ em chăm ngoan”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, “Tháng hành động vì trẻ em”, “Toàn dân đưa trẻ đến trường”, “Toàn xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”, “Đỡ đầu trẻ em mồ côi không nơi nương tựa”, “Lớp học tình thương”, “Nhà mái ấm”, “Lớp dạy nghề”, “Học bổng cho trẻ em nghèo hiếu học”, “Quỹ xe đạp chở ước mơ”, “Sóng và máy tính cho em”… Thông qua các phong trào, trách nhiệm, nghĩa vụ của gia đình, nhà trường và xã hội đối với trẻ em được thể hiện rõ nét và đạt kết quả thiết thực. Để huy động nguồn lực trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án, dự án trợ giúp, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong những năm qua, Việt Nam đã tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, như WHO, ILO, UNICEF, World Vision, Plan, Save the Children, ChildFund..., đồng thời cũng tích cực trong việc thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến trẻ em.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em còn một số hạn chế, bất cập, đó là: Một số địa phương và cơ quan chức năng chưa nhận thức đầy đủ, chưa thực sự quan tâm đến trẻ em; nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chậm được đổi mới, chưa phù hợp với một số nhóm đối tượng, đặc điểm địa bàn dân cư, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý các hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em chưa được tiến hành thường xuyên, kịp thời; nguồn nhân lực làm công tác trẻ em còn thiếu về số lượng, kiêm nhiệm nhiều việc và thường xuyên thay đổi, một bộ phận còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác; việc phối hợp giữa chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức và gia đình về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong nhiều trường hợp vẫn còn bị động…
Em đọc sách báo trang 14 (về trẻ em, hoặt động bảo vệ, chăm sóc trẻ em) - mẫu 2
Hãy chung tay hành động, cùng bảo vệ trẻ em để trẻ được phát triển trong môi trường lành mạnh và an toàn nhất
(hocmon.gov.vn) Bảo vệ trẻ em là trách nhiệm của gia đình, cộng đồng, xã hội và nhà nước trong việc phòng ngừa, ngăn chặn, hỗ trợ và phục hồi cho trẻ em để bảo đảm mọi trẻ em được sống trong môi trường an toàn, không có các hành vi xâm hại, bóc lột và sao nhãng.
Bảo vệ trẻ em là một trong bốn nhóm quyền cơ bản được Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (CRC) năm 1989 ghi nhận. Việt Nam là nước đầu tiên của châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn CRC. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác trẻ em để bảo đảm thực hiện tốt nhất các quyền của trẻ em, tạo cơ hội cho trẻ em được phát triển toàn diện, bình đẳng về thể chất, trí tuệ và tinh thần, để trẻ em trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước.
Hóc Môn đang trên đà đô thị hóa cao, tỉ lệ dân nhập cư đông, kéo theo đó số trẻ em nhập cư lên ở cùng với cha mẹ chiếm tỉ lệ tương đối lớn trong tổng số trẻ em trên địa bàn. Đa phần trẻ em nhập cư sống ở các khu nhà trọ hoặc các khu có tình hình an ninh trật tự phức tạp. Do đó, môi trường sống luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ thiếu an toàn, thiếu lành mạnh đối với trẻ em, làm gia tăng hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em. Nhiều cha mẹ, người chăm sóc trẻ em chưa nhận thức đầy đủ được trách nhiệm bảo vệ con em, thiếu kiến thức, kỹ năng về bảo vệ trẻ em. Nhiều gia đình sao nhãng việc chăm sóc con hoặc lúng túng trong xử trí, không kịp thời hoặc không tố cáo, tố giác hành vi xâm hại trẻ em đến các cơ quan chức năng. Sự xuống cấp đạo đức, tha hóa, biến chất về lối sống của một bộ phận xã hội làm gia tăng tội phạm bạo lực, xâm hại trẻ em. Các vụ án cố ý gây thương tích cho trẻ em có xu hướng tăng...Chính vì vậy, bảo đảm quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em là một việc hết sức cần thiết và cấp bách trên địa bàn huyện trong giai đoạn hiện nay.
Cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự phối kết hợp tổ chức thực hiện của các ngành, đoàn thể huyện, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã đạt được một số kết quả nhất định. Đại đa số các tầng lớp Nhân dân đã nâng cao nhận thức, trách nhiệm về vị trí vai trò của trẻ em trong phát triển kinh tế - xã hội và tạo ra phong trào toàn dân bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Tuy nhiên, thời gian qua trên địa bàn huyện đã xảy ra một số vụ việc liên quan đến bạo hành trẻ em, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Thực tế là vẫn còn tình trạng trẻ em bị xâm hại, ngược đãi, bạo lực và trẻ em vẫn chưa được phòng ngừa và ngăn chặn một cách có hiệu quả.
Để bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em trên địa bàn huyện trong thời gian tới, thiết nghĩ cùng với việc củng cố, hoàn thiện chính sách, pháp luật về trẻ em thì cần phải chú trọng nâng chất hiệu quả tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật một cách thường xuyên, sâu rộng và liên tục nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em của mọi người dân. Đồng thời đa dạng các hình thức tuyên truyền, cần chú ý những nội dung trọng tâm cần được tuyên truyền như: quy định của pháp luật, chính sách liên quan đến công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em; Cập nhật kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách liên quan đến công tác bảo vệ trẻ em, giáo dục kiến thức, phương pháp, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc trẻ em cho cha mẹ, thầy cô giáo, người chăm sóc trẻ, đặc biệt kỹ năng phòng ngừa, phát hiện sớm trẻ em bị xâm hại, bạo lực. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em nhằm giúp các em ý thức được trách nhiệm của mình đối với bản thân, gia đình, cộng đồng, có tình cảm gắn bó với gia đình, cộng đồng; có kỹ năng tự bảo vệ mình, bảo vệ bạn bè trước các nguy cơ bị xâm hại, bạo lực, phát hiện, lên án những hành vi vi phạm quyền trẻ em; phản ánh kịp thời việc xử lý các đối tượng có hành vi vi phạm quyền trẻ em để giáo dục răn đe và phòng ngừa chung. Song song đó cần duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động của ban chỉ đạo, ban điều hành, nhóm công tác liên ngành về bảo vệ trẻ em từ huyện xuống các xã - thị trấn, Ban Nhân dân ấp, tổ dân phố nhằm quản lý, phân loại đối tượng trẻ em, xác định kịp thời các yếu tố nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em, các đối tượng trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt…Cần xử lý nghiêm đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân, kể cả cha mẹ, người chăm sóc trẻ em khi có hành vi vi phạm pháp luật về quyền trẻ em, nhất là các hành vi xâm hại trẻ em với phương châm “đúng người, đúng việc, đúng thẩm quyền, đúng trách nhiệm”; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các quy định của pháp luật về trẻ em.
Bảo vệ trẻ em là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, gia đình, xã hội, mọi công dân và chính trẻ em trong việc bảo đảm cho mọi trẻ em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh và trong điều kiện tốt nhất có thể.
Mỗi người hãy chung tay hành động, cùng bảo vệ trẻ em để trẻ được phát triển trong môi trường lành mạnh và an toàn nhất.
Em đọc sách báo trang 14 (về trẻ em, hoặt động bảo vệ, chăm sóc trẻ em) - mẫu 3
Vai trò của gia đình trong công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em
Từ trước đến nay, gia đình luôn giữ vai trò hàng đầu, là yếu tố quyết định đối với việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Trẻ em là thành phần quan trọng cấu thành gia đình. Quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng chính là hai trong ba mối quan hệ cơ bản tạo nên gia đình. Cha mẹ và các thành viên trong gia đình là những người gần gũi mật thiết thường xuyên ở bên cạnh trẻ em, việc chăm sóc con trẻ không chỉ là trách nhiệm mà còn là “bản năng” của họ. Trong gia đình, việc bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em cần được thực hiện một cách khoa học với những kiến thức, kỹ năng phù hợp. Chăm sóc phải gắn liền với bảo vệ. Phải xác định gia đình chính là nơi an toàn nhất cho trẻ em.
Bảo vệ trẻ em trước hết là đảm bảo cho trẻ em được thực hiện các quyền của mình đồng thời phòng ngừa không để trẻ em bị thiệt thòi, không bị xâm hại đến các quyền đã được pháp luật thừa nhận (Nhà nước ta đã tham gia ký kết công ước Quốc tế về quyền trẻ em, đã ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học, Luật Hôn nhân gia đình, các văn bản dưới Luật đảm bảo thực hiện quyền của phụ nữ và trẻ em…). Bảo vệ chăm sóc trẻ em còn là ngăn ngừa không để các cháu rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như: bị mồ côi cha mẹ, khuyết tật, bị xâm hại tình dục, trở thành tội phạm vị thành niên, nghiện ma tuý, tệ nạn xã hội…
Khi thực hiện chức năng chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em, gia đình không thể tách rời khỏi những thiết chế khác là nhà trường và cộng đồng xã hội. Không chỉ quan tâm tới những vấn đề của trẻ em khi sinh hoạt với gia đình mà còn phải biết được những hoạt động của các cháu tại trường học tại những nơi sinh hoạt cộng đồng để kịp thời ngăn chặn những tiêu cực có thể xảy ra.
Chăm sóc trẻ em được tiến hành trên cả 2 mặt: Vật chất và tinh thần. Gia đình với khả năng cao nhất của mình cung cấp cho trẻ em những điều kiện tốt nhất để phát triển về thể chất. Trong điều kiện hiện nay, kinh tế gia đình về cơ bản đã được nâng lên với mức ổn định khá giả vì vậy các bậc cha mẹ cần dành cho trẻ không chỉ về điều kiện vật chất mà cần chú trọng chăm sóc về mặt trí tuệ. Trẻ em không phân biệt trai, hay gái được tạo điều kiện học tập phát triển theo khả năng của mình.
Để tạo môi trường chăm sóc thuận lợi, cha mẹ cần tạo một bầu không khí yêu thương, đoàn kết, gắn bó quan tâm giữa các thành viên gia đình, cho dù cuộc sống còn nhiều vất vả, nhưng khi có trẻ em trong gia đình thì các thành viên phải cố gắng bỏ qua những mâu thuẫn, xích mích để cho trẻ em luôn luôn có cảm tưởng rằng ngôi nhà của mình chính là tổ ấm. Với những trẻ em có thiên hướng xuất hiện một số năng khiếu, cha mẹ phải biết phát hiện, khuyến khích tạo mọi điều kiện để ươm mầm tài năng. Việc chăm sóc phát triển trí tuệ cho trẻ em có quan hệ chặt chẽ với việc giáo dục, xã hội hoá trẻ em. Quan điểm giáo dục hiện nay coi gia đình là một trong ba môi trường giáo dục trẻ em. Tuy nhiên gia đình vẫn là trường học đầu tiên và suốt đời của mỗi con người. Đó là bởi vì gia đình có trách nhiệm, là tình cảm và cũng là quyền uy (ông bà, cha mẹ, anh, chị). Gia đình thực hiện chức năng giáo dục thông qua 3 giai đoạn phát triển của trẻ em: từ 1-3 tuổi, từ 3-6 tuổi và từ 6-18 tuổi. Cả ba giai đoạn trên, trẻ em được giáo dục, dạy dỗ của gia đình lớn lên chịu ảnh hưởng các chuẩn mực trong gia đình và dần dần tiếp cận các chuẩn mực ngoài xã hội.
Để thực hiện tốt chức năng giáo dục, mỗi thành viên trong gia đình tuỳ thuộc vị trí của mình (ông, bà, cha, mẹ, anh, chị) phải trở thành những tấm gương sáng cho con trẻ học tập, làm theo. Hiện nay, phong trào: ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền đang thực sự phát huy hiệu quả, tác động quan trọng trong giáo dục của gia đình. Những hành vi mà trẻ tiếp nhận, học tập trong gia đình không chỉ là những kinh nghiệm của người lớn mà bằng cả những tình cảm của những người thân yêu nhất. Gia đình thông qua thái độ, tình cảm, tâm lý, mối liên hệ thường xuyên bền vững với trẻ em, khéo léo truyền thụ cho chúng những hành vi ứng xử trong nhà và ngoài xã hội. Không thể có sự hình thành và phát triển nhân cách đầy đủ và hoàn thiện nếu không có một môi trường giáo dục gia đình thuận lợi. Gia đình là thể chế đầu tiên, quan trọng nhất hình thành nhân cách ở tuổi thơ. Những mối liên hệ của trẻ em với các thành viên của gia đình, nhất là cha mẹ đã quyết định cách thức ứng xử đặc biệt là tình cảm của chúng sau này với chính những người thân trong gia đình và ngoài xã hội. Nếu như trước đây, việc giáo dục trẻ em có cả ông, bà và những thành viên khác trong gia đình, thậm chí trong dòng tộc, thì nay chức năng giáo dục trẻ em trong gia đình chủ yếu là cha mẹ vì gia đình hạt nhân hiện nay đang chiếm tỷ lệ cao và có xu thế phát triển. Ông bà không cùng sống chung với trẻ em trong gia đình, do vậy không thể nắm bắt được thường xuyên sự phát triển tính cách, suy nghĩ, sở thích của con cháu để có thể uốn nắn dậy dỗ. Hiện tại, sách báo, ti vi, internet nhiều khi cuốn hút con trẻ hơn là tìm đến ông bà. Khoảng cách thế hệ với những sự khác biệt của quan điểm sống, cách ứng xử , thói quen sở thích … cùng với những khoảng cách về thời gian, không gian đã khiến những thế hệ này khó tìm được tiếng nói chung. Tuy nhiên mẫu hình gia đình chỉ có hai thế hệ (vợ chồng, con cái) không phải lúc nào cũng tạo được thuận lợi cho các thành viên. Xã hội hiện đại cùng với nhịp sống hiện đại, năng động đã kéo mọi cá nhân theo dòng chảy công việc. Thời gian cha mẹ đi làm, cũng là thời gian con đi học, cha mẹ về con lại đi học thêm kể cả ngày nghỉ… Bữa cơm tối nhiều khi không đủ các thành viên, thời gian dành cho việc trò chuyện, chia sẻ với con trẻ không phải lúc nào cũng đáp ứng kịp thời. Trong khi đó việc giáo dục con em giống như “mài sắt thành kim” cần thời gian, cần sự kiên trì, đầu tư công việc... Sự lơi lỏng, chủ quan tham công tiếc việc của một số cha mẹ đã dẫn đến những hậu quả thật đáng tiếc: trẻ em hư hỏng, lang thang bị cuốn vào vòng xoáy các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật..v..v.
Hãy dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em! Đó là thông điệp chung mà nhân loại tiến bộ đã kỳ vọng, trông đợi và tin tưởng vào thế hệ tương lai. Quan tâm, chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em là trách nhiệm không chỉ của mỗi gia đình mà còn là của toàn xã hội. Để thế hệ trẻ hôm nay thực sự là những chủ nhân tương lai của đất nước, trách nhiệm đầu tiên là của mọi gia đình, gia đình phải thực sự là tổ ấm, là nơi nuôi dưỡng, hình thành nhân cách con trẻ, là thành trì an toàn, phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình và trẻ em.
Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 5 hay khác:
- Tả người
- Trao đổi: bạn nam, bạn nữ
- Trao đổi: em đọc sách báo trang 30 (sự bình đẳng giữa nam và nữ hoặc về một bạn thiếu nhi được nhiều người quý mến)
- Trao đổi: Học và hành
- Trao đổi: em đọc sách báo trang 45 (về học và hành)
Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 5 hay khác:
- Giải sgk Tiếng Việt lớp 5 Cánh diều
- Giải Vở bài tập Tiếng Việt lớp 5 Cánh diều
- Giải lớp 5 Cánh diều (các môn học)
- Giải lớp 5 Kết nối tri thức (các môn học)
- Giải lớp 5 Chân trời sáng tạo (các môn học)
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Giải Tiếng Việt lớp 5 của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sgk Tiếng Việt lớp 5 Tập 1 và Tập 2 Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm).
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải sgk Tiếng Việt lớp 5 - Cánh diều
- Giải Vở bài tập Tiếng Việt lớp 5 - Cánh diều
- Giải sgk Toán lớp 5 - Cánh diều
- Giải Vở bài tập Toán lớp 5 - Cánh diều
- Giải Tiếng Anh lớp 5 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh lớp 5 Smart Start
- Giải sgk Tiếng Anh lớp 5 Family and Friends
- Giải sgk Đạo đức lớp 5 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học lớp 5 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử và Địa Lí lớp 5 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm lớp 5 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học lớp 5 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ lớp 5 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc lớp 5 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật lớp 5 - Cánh diều