(30+ mẫu) phân tích nhân vật Thị Mầu (hay nhất)

Tổng hợp trên 30 phân tích nhân vật Thị Mầu trong vở chèo Thị Mầu lên chùa (Trích chèo Quan Âm Thị Kính) hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

(30+ mẫu) phân tích nhân vật Thị Mầu (hay nhất)

Quảng cáo

Phân tích nhân vật Thị Mầu - mẫu 1

Chèo "Quan Âm Thị Kính" là một trong những tác phẩm tiêu biểu của chèo cổ Việt Nam. Bên cạnh nhân vật Thị Kính - đào thương, Thị Mầu trong vở chèo được xếp vào vai đào lệch bởi bản chất lẳng lơ, phóng khoáng. Tính cách ấy được bộc lộ rõ nét qua đoạn trích "Thị Mầu lên chùa". Lớp chèo đã thể hiện cảnh Thị Mầu đem lòng say mê và tìm cách ve vãn Kính Tâm khi đi lên chùa.

Về xuất thân, Thị Mầu là con gái của phú ông. Nàng tự nhận mình là người con hiếu thảo vì luôn kính trọng đấng sinh thành "thầy mẹ tôi tôn kính một lòng". Sắp sửa đến ngày rằm, Mầu chuẩn bị "tiền cùng gạo lên chùa tiến cúng". Thay vì lên chùa vào ngày mười lăm như bao người, nàng lại lên chùa sớm hẳn hai ngày:

Thế mà Thị Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ

Đò đưa cấm giá tôi lên chùa từ mười ba.

Mười ba,

Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba

Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm

Quảng cáo

Tôi muốn cho một tháng đôi rằm

Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già

Tôi bước vào lễ Phật Thích Ca

Lễ đức Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng.

Trong lời nói của Thị Mầu, người đọc có thể thấy được những nghịch lí, mâu thuẫn. Nàng "muốn cho một tháng đôi rằm/ Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già". Rõ ràng, mục đích của Mầu vào chùa trước là bài lễ sau mới là thăm vãi già. Thế nhưng, nàng lại chỉ tập trung vào việc gặp sư thầy. Con số "mười ba" được lặp đi lặp lại nhiều lần đã nhấn mạnh vào ngày Mầu lên chùa cúng tiến. Những con số "mười ba", "mười bốn", "mười lăm" tương ứng với hành động mỗi ngày lên chùa để nhìn ngắm, gặp gỡ một người của Thị Mầu. Cho nên, nàng mới mong "một tháng đôi rằm" để có nhiều dịp "thăm" sư. Như vậy, qua lời mời gọi, thừa nhận của Thị Mầu, ta phần nào thấy được sự lẳng lơ của nhân vật.

Được tác giả dân gian xây dựng với tính cách nổi loạn, phóng khoáng, Thị Mầu đã cho người đọc thấy sự táo bạo của mình qua việc ghẹo chú tiểu trong chùa. Mọi lời nói, hành động của Thị Mầu đều tập trung để ve vãn Kính Tâm. Ngay khi nhìn thấy chú tiểu, Thị Mầu liền đem lòng si mê. Khi được Kính Tâm hỏi tên tuổi, Mầu liền trả lời:

Quảng cáo

"Tên em ấy à?

Là Thị Mầu con gái phú ông

Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!

Chưa chồng đấy nhá!"

Mầu liên tục nhấn mạnh mình là người con gái đôi mươi chưa chồng. Mục đích là để thể hiện mong muốn giao duyên, kết đôi. Không những thế, nàng ta còn dành nhiều lời khen cho chú tiểu: "Người đâu mà đẹp như sao băng thế nhỉ?", "Người đâu đến ở chùa này/ Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang". Trước lời cảm thán "Ai lại đi khen chú tiểu thế cô Mầu ơi!", Mầu không ngần ngại đáp lại "Đẹp thì người ta khen chứ sao!".

Biết nhà mất bò, nàng cũng mặc kệ "nhà tao còn ối trâu". Dường như, Mầu không quan tâm đến việc gì khác mà chỉ chú ý ve vãn sư thầy. Càng ngày, mức độ tán tỉnh của Mầu càng tăng lên:

"Thầy như táo rụng sân đình

Em như gái rở, đi rình của chua"

Quảng cáo

Đây là một phép so sánh độc đáo khi đã bộc lộ được niềm khát khao yêu đương cháy bỏng của Mầu. Sau mùa xuân, táo ở sân đình chín rụng. Vì không được chăm sóc, lại già cỗi nên táo thường có vị chua và chát. Còn gái rở chính là người đàn bà có mang, thích ăn của chua và những thứ lạ. Bởi vậy, người ta mới có câu "gái rở thèm của chua". Mầu ví mình như gái rở còn thầy tiểu như táo rụng ngoài đình nhấn mạnh khao khát trái với luân thường đạo lí.

Tác giả dân gian đã thêm vào những tiếng đến như là lời phê phán Thị Mầu: "Mầu ơi nhà mày có mấy chị em? Có ai như mày không?". Tuy nhiên trước những lời nói ấy, Thị Mầu vẫn một mực khăng khăng khẳng định "Nhà tao có chín chị em, chỉ có mình tao là chín chắn nhất đấy!".

Dù đã dùng bao lời ngon ngọt nhưng Thị Mầu vẫn không khiến cho chú tiểu đáp lại. Nàng quyết định dùng đến những lời hát ghẹo:

"Ấy mấy thầy tiểu ơi!

Song đứng trước cửa chùa

Tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn

[...] Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!"

Đoạn hát ghẹo tiểu của Thị Mầu đã cho thấy quan niệm về tình yêu tự do, thoải mái, vượt lên trên những rào cản, định kiến của xã hội. Câu "Ấy mấy thầy tiểu ơi!" được lặp đi lặp lại nhiều lần vừa nhấn mạnh vào đối tượng tiếp nhận mà Thị Mầu hướng đến vừa là câu mở đầu cho những lời giãi bày, mong muốn của nàng. Thị Mầu quan niệm về hạnh phúc khá đơn giản. Với nàng, ý kiến của họ hàng không quan trọng bằng cảm nhận bản thân. Nàng không hề bận tâm điều gì, có duyên là đến. Trong đoạn hát ghẹo, Thị Mầu bày tỏ mong muốn được kết duyên với Kính Tâm bằng cách sử dụng một số từ ngữ "đôi ta", "quyết đợi chờ lấy nhau", "có thiếp có chàng". Thị Mầu sẽ không thể xinh đẹp nếu như không có người sánh đôi "Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!". Đó là ước vọng cháy bỏng, mãnh liệt của người phụ nữ phóng khoáng, tự do.

Càng về sau, Mầu càng đi quá giới hạn, trở nên sỗ sàng, bỗ bã: "Bỏ mô Phật đi!". Ở chốn chùa trang nghiêm, nàng không giữ gìn khuôn phép, có những lời nói "báng bổ" đến nhà Phật. Lúc này, Mầu hoàn toàn không để ý đến việc cúng tiến mà chỉ chăm chăm tán tỉnh sư thầy:

"Mong cho chú tiểu quét sân

Xích lại cho gần, cầm chổi quét thay

Lá tình không gió mà bay!"

Hay:

"Muốn rằng cây cải cho xanh

Thài lài rau dệu tám thành bờ tre"

Vì chú tiểu không thấu hiểu được nỗi lòng nên Thị Mầu mới đem lòng nhớ thương "Để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng!".

Không chỉ có lời nói mà hành động cũng góp phần thể hiện tính cách, đặc điểm của nhân vật. Thị Mầu vừa hát vừa nói để bày tỏ tình cảm với Kinh Tâm. Đặc biệt, Thị Mầu còn có cử chỉ vô cùng táo bạo đó là xông ra nắm tay, nhận quét chùa thay Tiểu Kính. Hành động của Thị Mầu trong thời đại phong kiến là không thể chấp nhận bởi "nam nữ thụ thụ bất thân". Vả lại, Kính Tâm còn là người theo đạo nên điều này càng vượt ra khỏi chuẩn mực, khuôn phép.

Như vậy, tính cách, đặc điểm của nhân vật được khắc họa thông qua lời nói và hành động. Có thể nói, nhân vật Thị Mầu là người phụ nữ nổi loạn, đi ngược lại quan điểm đạo đức phong kiến. Thông qua nhân vật, tác giả dân gian muốn lên án, phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn tiết hạnh, chuẩn mực.

Trong đoạn trích "Thị Mầu lên chùa", Thị Mầu là hiện thân của những người phụ nữ phóng túng, đi ngược lại quan niệm và các chuẩn mực chung ở xã hội phong kiến. Bên cạnh nhân vật Thị Kính, Thị Mầu cũng là yếu tố góp phần làm nên thành công của đoạn trích cũng như vở chèo.

Dàn ý Phân tích nhân vật Thị Mầu

1. Mở bài:

- Giới thiệu vở chèo, đoạn trích, nhân vật.

2. Thân bài:

a. Phân tích nhân vật Thị Mầu:

* Xuất thân: con gái phú ông.

* Sự kiện: chuẩn bị đến ngày rằm nên Thị Mầu lên chùa cúng tiến.

* Tính cách: Thị Mầu là người phụ nữ lẳng lơ, phóng khoáng, thể hiện qua việc ghẹo chú tiểu trong chùa:

- Lời nói:

+ Đò đưa, tán tỉnh.

+ Trêu ghẹo chú tiểu.

+ Sỗ sàng.

- Hành động:

+ Hát, nói để tán tỉnh chú tiểu.

+ Xông ra nắm tay nhằm bày tỏ tình cảm với Kính Tâm.

b. Đánh giá nhân vật:

- Nhân vật Thị Mầu là người phụ nữ nổi loạn, đi ngược lại quan điểm đạo đức phong kiến.

- Thông qua nhân vật, tác giả dân gian muốn lên án, phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn tiết hạnh, chuẩn mực đạo đức.

- Tính cách, đặc điểm của nhân vật được khắc họa thông qua lời nói và hành động.

3. Kết bài:

- Khẳng định ý nghĩa, giá trị của nhân vật đối với đoạn trích và toàn bộ vở chèo.

Phân tích nhân vật Thị Mầu - mẫu 2

Thị Mầu là cô gái cá tính, dám theo đuổi hạnh phúc của bản thân. Cô sẵn sàng vượt qua định kiến, quy chuẩn xã hội thời bấy giờ đặt ra với người phụ nữ để đi tìm tình yêu.

Qua đoạn trích, người đọc có thể thấy một Thị Mầu cá tính đến nhường nào. Là người phụ nữ, cô sẵn sàng vượt quy chuẩn xã hội phong kiến đặt ra. Cô khao khát hạnh phúc, đi tìm tình yêu cho bản thân. Người phụ nữ theo quan điểm xưa, không có tiếng nói thì với sự xuất hiện của Thị Mầu, là một phiên bản mới lạ. Cô không quan tâm đến tiếng xì xào của người đời, miễn là hạnh phúc của mình, cô muốn được theo đến cùng. Tuy nhiên, ngặt nỗi, người cô thương lại là người xuất gia, và đấy thực ra là Thị Kính giả trai.

Phân tích nhân vật Thị Mầu - mẫu 3

Thị Mầu là người con gái có cá tính riêng, dám vượt qua khuôn khổ vốn có của Nho Giáo để bày tỏ và thể hiện mình, Thị Mầu như đại diện cho bao nỗi khát vọng của người phụ nữ xưa. Tuy những hành động của Mầu trong chùa là điều không nên làm nhưng bởi sự hối thúc, khao khát của tình yêu mà lí trí bị lu mờ.

Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Khi lớn lên phải được tự do tìm hiểu, yêu đương và phải lấy người mình yêu. Nhưng đối lập với quyền ấy trong xã hội phong kiến là một lớp sơn đạo đức giả tạo của chế độ hà khắc để trói buộc bao người phụ nữ phải tuân theo “tam tòng” , “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chứ không được lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của riêng mình. Cô ý thức tự do trong tình yêu bộc lộ ở lời nhủ mình và khuyên chị em chớ nghe họ hàng. Thị Mầu là con người của nghệ thuật.

Phân tích nhân vật Thị Mầu - mẫu 4

Thị Mầu là người con gái không giống với những cô gái khác trong xã hội xưa, một người con gái cá tính. Việc làm của Thị Mầu dù đúng hay sai cũng thể hiện khao khát của bao người phụ nữ khác ở xã hội xưa hay ở bất kì thời đại nào.

Nhân vật Thị Mầu đáng thương hơn đáng trách, có khi còn quá xót xa, thông cảm cho nhân vật này. Thị Mầu dám sống, dám yêu và dám làm những việc chống lại xiềng xích của chế độ cũ, không cho phụ nữ được thể hiện mình, chôn vùi cuộc đời họ bằng nhiều hình thức. Thị Mầu là con gái phú ông, là người có nhiều tính xấu những số phận cugx giống như Thị Kính và những người phụ nữ khác, số phận đều bế tắc, không có lối thoát.

Phân tích nhân vật Thị Mầu - mẫu 5

Thị Mầu là người con gái có cá tính riêng, đại diện cho những người phụ nữ dưới thời đó dám vượt qua khuôn khổ để bày tỏ và thể hiện mình, và thể hiện nỗi khát vọng của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên những hành động của Mầu trong chùa là điều không nên làm nhưng bởi sự hối thúc, khao khát của tình yêu mà lí trí bị lu mờ. Nhân vật đã được xây dựng là người con gái lẳng lơ, không phải là người con gái theo quan niệm “tam tòng tứ đức” của thời xưa, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Qua đó, ta càng thấy được thông qua hình ảnh Thị Mầu để nói lên những nỗi lòng của người phụ nữ xưa.

Phân tích nhân vật Thị Mầu - mẫu 6

Thị Mầu là người con gái có cá tính riêng, dám vượt qua khuôn khổ vốn có của Nho Giáo để bày tỏ và thể hiện mình, Thị Mầu như đại diện cho bao nỗi khát vọng của người phụ nữ xưa. Tuy những hành động của Mầu trong chùa là điều không nên làm nhưng bởi sự hối thúc, khao khát của tình yêu mà lí trí bị lu mờ. Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Khi lớn lên phải được tự do tìm hiểu, yêu đương và phải lấy người mình yêu. Nhưng đối lập với quyền ấy trong xã hội phong kiến là một lớp sơn đạo đức giả tạo của chế độ hà khắc để trói buộc bao người phụ nữ phải tuân theo “tam tòng” , “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chứ không được lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của riêng mình. Cô ý thức tự do trong tình yêu bộc lộ ở lời nhủ mình và khuyên chị em chớ nghe họ hàng. Thị Mầu là con người của nghệ thuật.

Phân tích nhân vật Thị Mầu - mẫu 7

Có bao giờ chúng ta tự hỏi, điều gì đã làm nên một cuộc sống đầy màu sắc như ngày hôm nay? Có phải là những giai điệu du dương êm tai giúp ta thư giãn sau ngày dài mệt mỏi. Hay những con chữ nối dài trên cuốn sách mà ta hay đọc…. đã bồi dưỡng nên đời sống tinh thần phong phú của con người. Nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng, được sinh ra là để con người giãi bày tâm tư, nhìn nhận về cuộc đời, từ đó rút ra những bài học chiêm nghiệm cho bản thân. Là một hình thức nghệ thuật độc đáo và lâu đời, Chèo không mấy xa lạ với chúng ta. Chèo bắt buồn từ kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian, lấy âm nhạc làm nền, ngôn từ ví von cùng cách diễn tả trực tiếp, đa dạng mà Chèo được coi là loại hình sân khấu của hội hè đặc sắc. Có một vở chèo kinh điển mà cho đến ngày nay chiều sâu tư tưởng và câu hỏi mà vở chèo đặt ra là vấn đề mà mọi thời đại đều hướng đến. Đó là vở chèo Quan âm thị kính. Đoạn trích Thị mầu lên chùa sẽ cho ta hiểu hơn về xã hội, về con người lúc bấy giờ.

Lễ chùa cúng vái có lẽ là một nét đẹp trong phong tục của người Việt, là truyền thống mà mọi nhà đều gìn giữ. Và thị mầu cũng lễ chùa để khấn vái. Được biết đến là một cô gái lẳng lơ, hình ảnh Thị Mầu lên gợi cho ta ấn tượng về một cô gái xinh đẹp, lả lướt có phần lẳng lơ, thiếu sự thành tâm, nghiêm túc nơi cửa chùa. Thị Mầu lên chùa khác với lệ thường là: Người ta lên chùa vào mười tư, rằm; còn Thị Mầu lên chùa mười ba.

Bởi vì ngay từ đầu Thị Mầu đã được xây dụng là người con gái lẳng lơ, không phải là người con gái theo quan niệm “tam tòng tứ đức” của thời xưa vậy nên, qua lời đề thì những cái dở, cái xấu của Mầu được bộc lộ rõ ràng hơn. Cái dở đó chỉ duy nhất là sự mù quáng, mà đã yêu đương say đắm và dữ dội đến như thế, thì có mù quáng cũng là dễ hiểu, do đó dễ thông cảm, và hơn nữa, dễ thương mà thôi. Cái mù quáng của Thị Mầu là ở chỗ cô không nhận biết – đối tượng của mình… Thầy Tiểu mà cô mê thực ra là Thị Kính giả trai. Sự mù quáng của Thị Mầu cùng với cơn yêu đương. Hành động của Thị Mầu như là xông ra nắm tay chú tiểu, với những lời nói của người lẳng lơ, thấy chú tiểu đẹp thì mê, mà mê thì ghẹo, mà ghẹo thì ghẹo tới nơi tới chốn. Những ngôn ngữ, hành động của Thị Mầu khi bày tỏ tình cảm với chú tiểu: khi gặp Mầu đã khen “đẹp như sao băng”, đôi mắt sắc như dao bổ cau liếc đi, liếc lại, đôi môi đỏ mọng lúc nào cũng cười nở như hoa và nhất là lời bóng gió, ẩn ý đầy chất dân gian để “đánh” đi những lượng tin cần thiết mà da diết về phía chú tiểu, táo bạo hơn nữa, lời nói chưa đủ làm Tiểu Kính rung động, Thị Mầu tiến tới hành động: đợi cơ hội Tiểu Kính ra và nắm tay Tiểu Kính, đòi quét chùa thay Tiểu Kính, lại còn mời mọc. Ta thấy sự táo bạo, mãnh liệt, quyết tâm; không e thẹn, do dự, ngại ngùng.

Trong lời giới thiệu với chú tiểu, Thị Mầu đặc biệt nhấn mạnh thông tin “chưa chồng”

“Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!

Chưa chồng đây nhá!”

Đi lễ chùa nhưng có lẽ Thị Mầu đã tìm thấy thứ thu hút mình ngay từ cái nhìn đầu tiên, không quan tâm đến việc vào lễ Phật.

Thị mầu ghẹo tiểu được diễn tả bằng chính hai điệu hát “Cấm giá” và “Bình thảo”. “Cấm giá” vì Thị Mầu mới ve vãn nên câu thơ còn e ấp tế nhị:

“Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba

Thấy sư mười bốn vãi già mười lăm

Tôi muốn cho một tháng đôi rằm”

“Bình thảo” khi mà sự ve vãn bên ngoài không có kết quả, khi mà Thị Mầu đã bốc lửa, Thị Mầu muốn đốt cháy với chú tiểu thì lời ca trong điệu hát không còn ngọt ngào:

“Người đâu ở chùa này

Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang

Ấy mấy thầy tiểu ơi”

“Thầy như táo rụng sân đình

Em như gái rở, đi rình của chua

Phải nói rằng phép so sánh ở đoạn này thật độc đáo đến lạ, Lối nói ví von so sánh thể hiện khát khao yêu đương của Thị Mầu. “Thầy như táo rụng sân đình / Em như gái rở, đi rình của chua”. Cây táo mọc ở sân đình thường cao, sau mùa xuân chín rụng. Vì ít được chăm sóc lại già cỗi nên táo vừa chua, vừa chát. Còn người phụ nữ nghén, người đời gọi là gái rở, thường thèm của chua, thèm đến xót lòng. Người đàn bà ăn dở mà gặp quả táo, hơn nữa lại là rụng mà rụng ở sân đình thì nỗi khát khao thèm muốn càng tăng thêm gấp bội. Nhặt quả táo lên chắc người con gái ăn dở ấy phải nhai nuốt ngấu nghiến. Việc Thị Mầu ví mình như gái rở, ví tiểu Kính như táo rụng sân đình thì hình ảnh vừa thật vừa rõ nét mà vừa dễ hiểu cho người xem. Những câu hát trong phần này tập trung thể hiện nỗi lòng, khát khao hạnh phúc của Thị Mầu nhưng lại bị chú tiểu ngó lơ.

Những lời đế ấy không chỉ giúp Mầu thể hiện rõ bản thân của mình mà còn khiến giá trị của những yếu tố trong vở chèo dân gian là cách dùng gậy ông lại đập lưng ông mà văn học dân gian rất thiện nghệ để phê phán, hơn nữa, bóc trần cái đạo đức giả của đạo đức phong kiến. Đối diện với những lời mời mọc đầy mật ngọt của Thị Mầu thì Thị kính giữ khoảng cách, tìm cách từ chối, lẩn tránh, lúc nào cũng tụng kinh “Niệm Nam mô A Di Đà Phật!”. Bên cạnh nét giai điệu phóng túng, du dương là nét nhạc trầm lắng cùng với tiếng gõ mõ tụng kinh đều đều. Hai thái cực âm nhạc đối nhau, hai tâm trạng khác nhau, hai nỗi niềm khác nhau tạo nên một màn trò độc đáo.

 

Hai người con gái, hai hoàn cảnh, hai tính cách, hai số phận, hai cách lựa chọn… nhưng đều chịu sự trói buộc của lễ giáo phong kiến… Là một người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng ra Thị Kính phải có một cuộc sống êm ấm, hạnh phúc và vui vẻ, thế nhưng người phụ nữ ấy lại có một số phận đầy đau khổ và bất hạnh. Vì muốn cắt cái râu mọc người cho chồng, Thiện Sĩ tỉnh giấc khi chưa hiểu rõ ngọn ngành đã hét lớn, cho rằng Thị Kính muốn giết mình. Trước sự việc ấy, Sùng bà – mẹ của Thiện Sĩ đã dùng những lời lẽ cay độc, tàn nhẫn để mắng chửi, sỉ nhục và thậm chí còn đẩy ngã Thị Kính. Tuy nhiên, trước những lời nói và hành động của mẹ chồng, Thị Kính vẫn rất hòa nhã, nàng phân bua, hết lần này đến lần khác kêu oan nhưng tất cả đều trở nên vô nghĩa. Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà với nỗi oan khuất không thể lí giải còn cha của nàng thì bị đẩy ngã. Chắc hẳn sẽ chẳng có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của Thị Kính lúc này – hôn nhân, gia đình tan vỡ, mất lòng tin ở chính những người thân trong gia đình và hơn thế nữa đó chính là việc nàng đã phải chứng kiến cảnh cha mình bị làm nhục. Tận cùng của nỗi đau và sự bất lực và có lẽ cũng không còn sự lựa chọn nào khác, Thị Kính quyết định ra đi. Trước khi từ giã tổ ấm của mình, nàng vẫn không quên ngoái đầu nhìn lại thúng khâu, chiếc kỉ, thúng sách… – những kỉ vật của một thời hạnh phúc, ấm êm nhưng nó lại cũng chính là nhân chứng cho nỗi oan ức của nàng. Ngoái nhìn lại tất cả với một nỗi đau đớn, xót xa và cả sự luyến tiếc. Rời khỏi nhà, nàng quyết định nương nhờ nơi cửa chùa. Sự lựa chọn ấy của Thị Kính như một lẽ tất yếu, bởi lẽ nàng đã bị đuổi khỏi nhà chồng, càng không thể trở về nhà cha mẹ đẻ bởi đó là điều lễ giáo phong kiến không cho phép. Nàng giả trai đi tu, nương nhờ cửa Phật với mong mỏi sẽ có được cuộc sống yên bình và nơi thanh tịnh ấy sẽ chứng minh cho sự trong sạch của nàng. Nhưng đồng thời, sự lựa chọn ấy của nàng cũng cho thấy sự sự bế tắc của nàng nói riêng, của người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung bởi đấy là sự lựa chọn thụ động trước sự nghiệt ngã, xô đẩy của hoàn cảnh.

Tiếng gọi “thầy tiểu ơi” lặp đi lặp lại nhiều lần đã bộc lộ nỗi lòng say mê, yêu thương tha thiết của Thị Mầu. Mầu khao khát được yêu, được đáp lại tình yêu chân thành, Mầu dám phơi bày ruột gan tình cảm của mình ra trước mặt mọi người, dám thổ lộ, dám tấn công. Em ấn tượng nhất vời tỏ tình của Thị Mầu là:

“Một cành tre, năm bảy cành tre

Phải duyên thời lấy, chớ nghe họ hàng

Ấy mấy thầy tiểu ơi!…

Mẫu đơn giồng cạnh nhà thờ

Đôi ta chỉ quyết đợi chờ lấy nhau”

Bởi lời tỏ tình ấy da diết làm sao, nó chứa chan mong ước về tự do yêu đương, tự do lựa chọn hôn nhân. Dám yêu, dám lên tiếng vì tình yêu – giữa xã hội phong kiến chỉ duy nhất một Thị Mầu. Một thì Mầu khác biệt với Thị Kính . Thị kính nhẫn nhịn, thị Kính chịu đựng bao nhiêu thì thị Mầu lại bùng nổ bấy nhiều. Thị Mầu dám cất lên tiếng nói nữ quyền để lật đổ thành trì lễ giáo cũ kĩ đã trở thành giáo điều, đạp đổ những lệ làng, những đạo đức giả, những quan niệm cổ hủ chà đạp lên thân phận và tước đoạt hạnh phúc con người. Trong dòng nghĩ suy qua lời hát ghẹo của Thị Mầu đã ẩn chứa khát khao chung tình – khao khát chính đáng trong tình yêu. Nếu trong ca dao Việt Nam:

“Trúc xinh trúc mọc đầu đinh

Em xinh em đứng một mình cũng xinh.”

So sánh hình dáng cây trúc với người phụ nữ Việt Nam trẻ trung, mong manh và xinh đẹp cho dù đứng ở đâu, dù ở góc độ nào vẫn xinh. Trong vở chèo Thị Mầu lên chùa

“Trúc xinh trúc mọc sân đình

Em xinh em đứng một mình chẳng xinh.”

Ở trong câu ca dao người phụ nữ đứng một mình, dù đứng ở đâu, góc độ nào vẫn xinh; còn trong vở chèo Thị Mầu thì nó được biến tấu đi, nhằm ghẹo chú tiểu, ẩn ý người phụ nữ xinh đẹp cần phải có đôi có cặp mới xinh, còn đứng một mình sẽ không xinh.

Quen thói trăng hoa, Thị Mầu bèn tư thông với một người đầy tớ trong nhà, không ngờ thị mang thai và bị làng phạt vạ. Thị Mầu bèn vu vạ cho Kính Tâm ăn nằm với thị. Vì thế Kính Tâm bị làng đòi đến tra khảo, không biết biện bạch ra sao để gỡ mối oan này.

Thị Mầu sanh con trai, đem đứa bé bỏ trước cổng chùa. Động lòng từ bi, Kính Tâm ra ẵm lấy đứa bé và chăm lo nuôi nấng hết lòng. Ngày ngày, Kính Tâm phải bế đứa bé đi xin sữa khắp đầu làng cuối xóm trong sự cười chê của thế gian. Ba năm sau, Kính Tâm yếu hẳn đi, trước khi mất, viết một lá thư dặn đứa bé giao lại cho cha mẹ mình. Đứa bé vội lên chùa trên báo cho sư cụ. Lúc đó, mới hay Kính Tâm là đàn bà. Khi lá thư của nàng về đến quê thì mọi người biết nàng không phải là gái giết chồng. Nỗi oan tình của Thị Kính từ đó được tỏ, nhưng vẫn còn đọng lại một điều gì đó quá nặng nề với người đời. Cần phải nhận thấy rằng, việc Kính Tâm nhận cái thai của Thị Mầu cũng có nhiều nguyên nhân ẩn sâu bên trong. Là một người phụ nữ, Kính Tâm nhận thấy được cuộc sống và tình cảm của Thị Mầu có những uẩn khúc riêng. Việc “không chồng mà chửa” của Thị Mầu (người phụ nữ) đối với đạo đức nghiệt ngã của xã hội thời bấy giờ là một tội trạng quá cỡ. Hình phạt có thể là gọt tóc bôi vôi rồi thả bè trôi sông. Vì vậy chúng ta có thể hiểu thêm, việc Thị Mầu đổ tội cho Kính Tâm không đơn thuần chỉ là hành động vu oan giá họa cho kẻ tu hành mà đó thực sự là kêu cứu lòng từ bi cứu khổ cứu nạn của phật. Và đây là điều cao cả chỉ có ở Kính Tâm – một người xuất gia, lại là nữ giới, sự kết tinh của từ bi, trí tuệ và tư chất hai ấy chính là lí do để Kính Tâm chịu oan để Thị Mầu bớt khổ.

Như thể “nhẫn vô sanh nhẫn” ở đây hoàn toàn đâu phải là thái độ phản kháng tiêu cực và thụ động. Nhẫn ở đây là nhẫn nhục hiền hòa, là nhẫn điều khó nhẫn, là hy sinh chính mình, chịu oan chịu khổ thay người khi cuộc đời đang còn tràn đầy bất công nghiệt ngã.

Đối lập hoàn toàn với Thị Kính là Thị Mầu, Thị Mầu lẳng lơ, sàm sỡ, táo bạo. Thị Mầu đáng giận, đáng trách. Vì Thị Mầu mà Thị Kính bị oan, phải nuôi con trong chốn thiền môn. Từ chuyện tích này, dân gian có thành ngữ “oan Thị Kính” để so sánh với những nỗi oan khuất cùng cực mà không sao giãi bày được. Từ thành ngữ nói trên, đã hình thành một thành ngữ phái sinh là “oan Thị Mầu” để nói đến việc đã rõ ràng mười mươi là do mình gây ra nhưng vẫn cứ kêu oan, như Thị Màu bị dân làng bắt vạ vì không chồng mà chửa mà vẫn cho rằng mình… oan! Thực ra, Thị Mầu đáng thương hơn đáng trách, đáng giận, có khi còn quá xót xa, thông cảm cho nhân vật này. Bởi vì người phụ nữ có quyền yêu nhưng không được yêu, có quyền được làm mẹ nhưng lạ không thể làm mẹ. Thị Mầu yêu say đắm Kính Tâm nhưng không được đáp trả, nàng vốn có tính lẵng lơ nên đã tư thông với tên người hầu để phải chửa. Nàng chửa, rồi đổ vạ cho Kính Tâm khiến cho Kính Tâm phải chịu oan. Nhưng rồi tới khi sinh con cũng không được cha cho nuôi, bắt đem đứa con ấy đến chùa. Xót xa thay! Tình máu mủ đâu có thể nói bỏ là bỏ được. Chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau rồi phải mang đứa con mình ra trước cổng chùa, để phó mặc nó sống sao thì sống, ai mà không xót xa, thương cảm cho được. Như vậy, chẳng phải Thị Màu đã trở thành một kẻ đáng thương rồi sao?

Chiếu chèo sân đình tái hiện lại một Thị Mầu thực dám sống, dám yêu và dám làm những điều chống lại xiềng xích của chế độ cũ – chế độ không cho người phụ nữ được thể hiện mình, chôn vùi cuộc đời họ bằng nhiều hình thức. Xét cho cũng, dù Thị Mầu là con nhà Phú ông, là người có nhiều tính xấu nhưng số phận cũng giống như Thị Kính và những người phụ nữ khác, số phận đều bế tắc, không có lối thoát!

Nhắc đến hình tượng nhân vật Thị Mầu, chúng ta cảm thấy động lòng khi đọc lại bài thơ “Thị Mầu” của nhà thơ Anh Ngọc:

“…Những xiềng xích phết màu sơn đạo đức

Mấy trăm năm không khóa nổi Thị Mầu,

Những cánh màn đã khép lại đàng sau

Táo vẫn rụng sân đình không ai nhặt,

Bao Thị Mầu trở về với đời thực

Vị táo còn chua mãi ở đầu môi.”

Thị Mầu là người con gái có cá tính riêng, dám vượt qua khuôn khổ vốn có của Nho Giáo để bày tỏ và thể hiện mình, Thị Mầu như đại diện cho bao nỗi khát vọng của người phụ nữ xưa. Tuy những hành động của Mầu trong chùa là điều không nên làm nhưng bởi sự hối thúc, khao khát của tình yêu mà lí trí bị lu mờ.

Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Khi lớn lên phải được tự do tìm hiểu, yêu đương và phải lấy người mình yêu. Nhưng đối lập với quyền ấy trong xã hội phong kiến là một lớp sơn đạo đức giả tạo của chế độ hà khắc để trói buộc bao người phụ nữ phải tuân theo “tam tòng”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chứ không được lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của riêng mình. Cô ý thức tự do trong tình yêu bộc lộ ở lời nhủ mình và khuyên chị em chớ nghe họ hàng. Thị Mầu là con người của nghệ thuật.

Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 10 hay khác:

Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 10 hay khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH LUYỆN THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 10

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi, sách dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 10 Cánh diều khác
Tài liệu giáo viên