Top 30 Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề
Tổng hợp trên 30 bài báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
Top 30 Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề (hay nhất)
Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề - mẫu 1
1. Giới thiệu
Trong văn học trung đại, thơ Đường luật là một hình thức không thể thiếu góp phần làm lên vẻ đẹp của thời kì này. Nhiều nhà thơ không chỉ nhà thơ Trung Quốc mà cả những nhà thơ Việt Nam cũng sử dụng thể loại thơ này để gửi gắm tâm tư, tình cảm sâu lắng của mình vào trong đó qua những lời thơ rất đỗi giản dị và thân thuộc. Bởi vậy, hiểu được hình thức của một bài thơ Đường luật sẽ giúp ta dễ dàng hiểu hơn về nội dung của toàn bài thơ.
2. Cách thức tiến hành nghiên cứu
Căn cứ vào các tác phẩm văn học trung đại trong kho tàng văn học Việt Nam, ta có thể dễ dàng bắt gặp những tác phẩm được làm theo thể thơ Đường luật của một số tác giả như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương… Dựa trên việc phân tích một số bài thơ tiêu biểu nhằm làm nổi bật lên đặc điểm hình thức của thơ Đường luật.
3. Bài thơ Đường luật
* Hai thể thơ chính được sử dụng nhiều trong kho tàng văn học Việt Nam là
- Thất ngôn bát cú Đường luật: Câu cá mùa thu, Tự tình
- Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật: Bánh trôi nước, Tỏ lòng
* Bố cục chung của một bài thơ Đường luật
- Gồm 4 phần: đề, thực, luận, kết
- Về nguyên tắc, thơ Đường luật là đối, nó được thể hiện ở chữ thứ nhất, thứ 2, thứ 3… của câu trên phải đối với chữ thứ nhất, thứ 2, thứ 3… của câu về âm và về ý. Để nới lỏng hơn về luật thơ, người ta thường quy ước đối chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm không cần theo luật.
Ví dụ: trong bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến, trong câu 1 và câu 2 của bài thơ ta bắt gặp sự đối ý:
Câu 1: ao thu, trong veo
Câu 2: một chiếc thuyền câu, tẻo teo
- Về đối âm (luật bằng trắc), thơ Đường luật dựa trên thanh bằng và thanh trắc, thường xuất hiện ở các chữ 2, 4, 6 và 7 trong một câu thơ. Nếu chữ thứ hai của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có “luật bằng” và nếu chữ thứ hai câu đầu dùng thanh trắc thì bài thơ có “luật trắc”. Trong một câu, chứ thứ 2 và 6 phải giống nhau về thanh điệu và chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Nếu nằm ngoài hai cách kia thì bài thơ được làm theo thể thất luật.
Ví dụ: trong hai câu thơ đầu bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến, ta có thể nhận thấy bài thơ được làm theo luật bằng:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
B B T T T B B
Hay trong bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương, bài thơ cũng sử dụng luật bằng:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
B B B T T B B
- Về nguyên tắc, câu 3-4 và 5-6 phải đối nhau. Đối là sự tương phản về nghĩa của cả từ đơn, từ láy hoặc từ ghép hay đối động từ-động từ, danh từ-dạnh từ. Đối cảnh thường là cảnh động-cảnh tĩnh, cảnh trên-dưới… Nếu trong thơ luật câu 3-4 hoặc 5-6 không đối nhau thì được gọi là thất đối.
Ví dụ: Trong bài thơ Tự tình của Xuân Quỳnh, câu 5-6 đối với nhau cả về động từ, danh từ và đối cảnh:
Động từ: xiên-đâm
Danh từ: rêu-đá
Đối cảnh: mặt đất-chân mây
3. Kết luận
Trên đây là một số điểm nổi bật trong hình thức thơ Đường luật Việt Nam. Đó là sự kết hợp giữa luật lệ, phép đối tạo nên một sự cân đối, hài hòa trong lời thơ, ý cảnh của từng tác phẩm. Mặc dù nó đã được các tác giả tinh giản đi trong cách sử dụng cũng như luật lệ, nhưng nó vẫn mang sự đặc trưng của thơ ca Việt Nam giản dị, gần gũi và thấm đượm tình cảm của tác giả.
Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề - mẫu 2
Thơ Đường luật là một thể thơ có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này đã phát triển mạnh mẽ ở ngay chính quê hương của nó và có sức lan tỏa mạnh mẽ sang các khu vực lân cận, trong đó có Việt Nam. Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở năm điểm sau: Luật, niêm, vần, đối và bố cục. Về hình thức thơ Đường luật có nhiều loại, tuy nhiên thất ngôn bát cú được coi là một dạng chuẩn, là thể thơ tiêu biểu trong thơ ca trung đại.
Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ. Đường luật là luật thơ có từ đời Đường (618- 907) ở Trung Quốc. Vậy tổng thể một bài thất ngôn bát cú gồm 56 chữ.. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2,4,6,8, hiệp vần bằng với nhau. Ví dụ như trong bài thơ Qua đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, quy tắc này được thể hiện một cách đặc biệt rõ ràng:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Các từ hiệp vần với nhau là: tà, hoa, nhà, gia, ta. Việc này góp phần tạo nên cho bài thơ sự nhịp nhàng, bớt khô cứng của một thể thơ đòi hỏi niêm luật chặt chẽ.Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 ( tức bốn câu giữa),đối tức là sự tương phản, cả sự tương đương trong cách dùng từ, cũng có thể thấy điều này rõ ràng nhất qua bài thơ Qua Đèo Ngang:
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
“Lom khom” đối với “lác đác”, “dưới núi” đối với “bên sông”, “ nhớ nước” đối với “thương nhà”…. Các phép đối rất chỉnh và rõ, kể cả về chữ và âm.Hay trong bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Phép đối giữa các câu cân xứng và rất chỉnh như “Lặn lội” đối với “eo sèo”, “ quãng vắng” đối với “buổi đò đông”…. Thơ Đường mà câu 3 không đối với câu 4, câu 5 không đối với câu 6 thì gọi là “thất đối”
Bên cạnh đó thì thể thơ này cũng có luật bằng trắc rõ ràng, đặc biệt là nguyên tắc niêm. Những câu niêm với nhau tức là những câu có cùng luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Thường một bài thơ thất ngôn bát cú được niêm: câu 1 niêm với câu 8;câu 2 niêm với câu 3;câu 4 niêm với câu 5;câu 6 niêm với câu 7. Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là “vần với nhau”. Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là “vần chính”, những chữ có vần gần giống nhau gọi là “vần thông”. Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ. Về bố cục, một bài thơ thất ngôn bát cú gồm 4 phần: Đề, thực,luận,kết. Hai cầu đầu tiên,câu một và câu hai là hai câu mở đầu,bắt đầu gợi ra sự việc trong bài. Hai câu thực là hai câu miêu tả, cần đối với nhau về cả thanh và nghĩa. Tiếp đến là hai câu luận, tức suy luận, yêu cầu tương tự như hai câu thực. Và cuối cùng là hai câu kết, khái quát lại sự việc, không cần đối nhau. Trong suốt thời kỳ phong kiến, thể thơ này đã được dùng cho việc thi tuyển nhân tài cho đất nước. Có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này cũng được Việt Nam tiếp thu và sử dụng khá phổ biến, có nhiều bài thơ khá nổi tiếng thuộc thể loại này.
Đặc biệt khi Thơ mới xuất hiện, bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng – trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ.
Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề - mẫu 3
Thơ Đường luật là một thể loại thơ phổ biến trong văn học các nước khu vực văn hóa Đông Á thời trung đại (bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam). Thơ Đường luật chú trọng đối với nghệ thuật đối khá đa dạng.
Trong hệ thống thể loại của văn học Việt Nam, thơ Đường luật là một trong số các thể loại có lịch sử lâu đời và trong một thời gian khá đài từng có vị trí gần như là độc tôn trên thi đàn Việt Nam. Chưa đủ căn cứ để xác đinh thơ Đường luật vào Việt Nam năm nào, nhưng nếu thời điểm ra đời văn học viết Việt Nam được tính ít nhất từ thế kỷ X, thì đến nay thơ đường luật đã tồn tại ở Việt Nam ngót mười thế kỷ. Ngót mười thế kỷ, một thể thơ ngoại nhập đã được người Việt Nam sử đụng để sáng tạo biết bao giá trị. Không ai quên, với Đường luật, Nguyễn Trãi đã tạo nên một "niềm ưu ái" đầy tâm huyết. Nguyễn Bỉnh Khiêm tạo nên một phong cách triết gia trầm tĩnh, nhuần nhị. Hồ Xuân Hương để lại một phong cách trữ tình trào phúng "thi trung hữu quỷ". Bà Huyện Thanh Quan, lại xứng đáng với một phong cách Đường thi mẫu mực....
Các bài thơ đường luật đã học: Bánh trôi nước, Qua đèo Ngang, Bạn đến chơi nhà, Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác, Đập đá ở Côn Lôn,...
Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng trong nền văn học trung đại của nước ta. “Qua Đèo Ngang” là một tác phẩm rất tiêu biểu cho phong cách thơ của bà. Bài thơ đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng sự sống con người nhưng vẫn còn hoang sơ. Đồng thời nhà thơ còn qua đó gửi gắm nỗi nhớ nước thương nhà.
Tác giả đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên nơi Đèo Ngang trong một buổi chiều tà:
“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”
Cụm từ “bóng xế tà” gợi ra thời điểm kết thúc của một ngày. Nhà thơ đang một mình đứng trước nơi đèo Ngang. Tiếp đến câu thơ “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng, khắc họa khung cảnh thiên nhiên đèo Ngang. Việc sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” thật tinh tế. Vẻ đẹp thiên nhiên của đèo Ngang tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống. Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động.
Và không thể thiếu trong bức tranh thiên nhiên đó là hình ảnh con người. Nghệ thuật đảo ngữ “lom khom - tiều vài chú” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi. Và “lác đác - chợ mấy nhà” gợi ra hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Nhà thơ muốn nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Thiên nhiên mới là trung tâm trong bức tranh đèo Ngang.
Thiên nhiên càng cô quạnh, tâm trạng của tác giả càng cô đơn. Điều đó được bộc lộ ở những câu thơ tiếp theo:
“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia”
Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Việc sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh: tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. Đọc đến đây, chúng ta dường như có thể lắng nghe được tiếng kêu khắc khoải, da diết đang vang lên trong vô vọng.
Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ:
“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta"
Trong thơ Nguyễn Khuyến cũng từng sử dụng cụm từ “ta với ta”:
“Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta”
Trong “Bạn đến chơi nhà, từ “ta” đầu tiên chỉ chính nhà thơ - chủ nhà, còn từ “ta” thứ hai chỉ người bạn - khách đến chơi. Từ “với” thể hiện mối quan hệ song hành, gắn bó dường như không còn khoảng cách. Qua đó thể hiện tình bạn gắn bó tri âm tri kỷ của nhà thơ. Còn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ “ta với ta” ở đây đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. Sự cô đơn ấy dường như chẳng thể có ai cùng chia sẻ.
Như vậy, Qua đèo Ngang đã thể hiện được tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan trước khung cảnh đèo Ngang hoang sơ. Bài thơ chứa đựng những tình cảm, ý nghĩa sâu sắc.
Bảng niêm luật trong bài thơ Qua đèo Ngang:
Bước |
tới |
đèo |
Ngang |
bóng |
xế |
tà |
T |
T |
B |
B |
T |
T |
B |
Cỏ |
cây |
chen |
đá |
lá |
chen |
hoa |
T |
B |
B |
T |
T |
B |
B |
Lom |
khom |
dưới |
núi |
tiều |
vài |
chú |
B |
B |
T |
T |
B |
B |
T |
Lác |
đác |
bên |
sông |
chợ |
mấy |
nhà |
T |
T |
B |
B |
T |
T |
B |
Nhớ |
nước |
đau |
lòng |
con |
quốc |
quốc |
T |
T |
B |
B |
B |
T |
T |
Thương |
nhà |
mỏi |
miệng |
cái |
gia |
gia |
B |
B |
T |
T |
T |
B |
B |
Dừng |
chân |
đứng |
lại |
trời |
non |
nước |
B |
B |
T |
T |
B |
B |
T |
Một |
mảnh |
tình |
riêng |
ta |
với |
ta |
T |
T |
B |
B |
B |
T |
T |
Đặc điểm về hình thức và nội dung: Đặc điểm về luật thanh điệu, niêm, nhịp, vần. Tất cả đều chú trọng về nhạc lí, tính nhạc. Nhiều người cho rằng, việc tạo ra thể thơ Đường luật còn có mục đích là để dùng nó làm lời cho các thể hát, điệu hát. Vì thế tính nhạc, sự hòa phối thanh sắc, ngữ nghĩa là một yêu cầu được đề cao. Và các quy định của thể thơ cũng dựa nhiều vào âm luật mà đặt ra. Về nội dung phản ánh đời sống xã hội, cụ thể ở đây là sự lầm than, cơ cực của người dân. Nó trở thành nguồn động viên tinh thần, cổ vũ người dân. Đồng thời tố cáo, lên án quan quyền, vương quyền áp bức bóc lột nhân dân. Có thể xem thể thơ này vừa được dùng để bộc lộ, thể hiện tình cảnh, tình cảm, vừa là vũ khí chiến đấu của người dân, giới trí thức.
Thơ Đường luật nói chung, luật tuyệt nói riêng, do sáng tác buộc phải tuân theo những quy định khắt khe về niêm, luật, vần, đối và cách bố cục, cho nên lựa chọn luật tuyệt tuy ưu thế là cô đọng, hàm súc, nhưng cũng hạn chế trong khả năng diễn tả cảm xúc, tâm tư theo những thay đổi thời cuộc. Bài viết trên cơ sở chỉ ra những nét đặc trưng trong thi pháp thể loại của luật tuyệt, bước đầu tìm hiểu đặc điểm hình thức thơ Đường luật qua một số bài thơ Đường luật qua một số bài thơ trung đại đã học.
Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề - mẫu 4
Thơ Đường luật có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này đã phát triển mạnh mẽ tại chính quê hương của nó và có sức lan tỏa mạnh mẽ sang các khu vực lân cận thuộc Đông Á, trong đó có Việt Nam.
Về nghệ thuật, đặc điểm của thơ Đường luật được tìm hiểu theo các yếu tố: Thể thơ, Cấu trúc và Luật thi.
Thơ Đường luật có hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở 5 điểm: Luật, niêm, vần, đối và bố cục. Về hình thức, thể thơ Đường luật có nhiều loại, tuy nhiên thất ngôn bát cú được xem là một dạng chuẩn, là thể thơ tiêu biểu ở trong thơ ca trung đại.
Xét về hình thức thì thể thơ đường luật được chia thành các dạng như:
- Thất ngôn bát cú: 8 câu, mỗi câu sẽ có 7 chữ. Đây là dạng phổ biến nhất của thể thơ Đường luật.
- Thất ngôn tứ tuyệt: 4 câu, mỗi câu 7 chữ.
- Ngũ ngôn bát cú: 8 câu, mỗi câu 5 chữ.
- Ngũ ngôn tứ tuyệt: 4 câu, mỗi câu 5 chữ.
Ngoài những dạng trên thì còn rất nhiều dạng không phổ biến khác. Người Việt khi làm thơ đường luật cũng hoàn toàn tuân theo các nguyên tắc này.
1. Luật bằng trắc
Luật thơ Đường căn cứ dựa trên thanh bằng và thanh trắc, và sử dụng các chữ thứ 2-4-6 và 7 ở trong một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền hay không dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng.
Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường luật chính là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 cần phải “đối” nhau và hai câu 5 và 6 cũng “đối” nhau. Đối thường được hiểu chính là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép hay từ láy) bao gồm cả sự tương đương trong cách sử dụng các từ ngữ:
- Đối chữ: động từ đối động từ, danh từ đối danh từ,…
- Đối cảnh: phía trên đối phía dưới, cảnh động đối với cảnh tĩnh,…
Nếu các câu 3, 4 của một bài thơ Đường luật mà không đối nhau, các câu 5, 6 cũng không đối nhau thì bị gọi “thất đối”.
Ví dụ: Hai câu thơ 3, 4 trong Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà
“Lom khom” đối cùng với “lác đác” (hình thể và số lượng – thực ra 2 câu này chưa phải đối hoàn chỉnh), “dưới núi” đối cùng với “bên sông” (vị trí địa hình), song nếu như nối hình ảnh hai câu trên “lom khom dưới núi” (diễn tả về cảnh động) cùng “lác đác bên sông” (diễn tả về cảnh tĩnh) nên sự đối lập vẫn có thể chấp nhận được. Một điểm nên chú ý chính là cách dùng từ láy âm “lom khom” để chỉ dáng người của câu trên, và “lác đác” để chỉ số lượng của câu dưới. Hai vế tiếp: “tiều vài chú” đối cùng với “rợ mấy nhà” (đối lập về số lượng và sự tĩnh/động). Sự đối lập của hai vế cuối có thể được coi là hoàn chỉnh.
2. Niêm
Trong một bài thơ Đường luật nếu các câu giống nhau về luật thì được gọi là “những câu niêm với nhau” (niêm hay giữ cứng, ở đây được hiểu là được giữ giống nhau về luật).
Hai câu thơ niêm với nhau khi chữ thứ nhì (hai) trong cả hai câu cùng tuân theo một luật, cùng là bằng hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm cùng với bằng, trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên tắc cần phải niêm, nếu như tác giả sơ suất mà làm thành không niêm thì bài thơ đó bị gọi là “thất niêm”.
Nguyên tắc niêm ở trong một bài thơ Đường luật chuẩn (thất ngôn bát cú) sẽ như sau:
- Câu 1 niêm với câu 8
- Câu 2 niêm với câu 3
- Câu 4 niêm với câu 5
- Câu 6 niêm với câu 7
Còn đối với Nguyên tắc niêm trong thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt: Câu 2 niêm cùng với câu 3, câu 4 niêm cùng với câu 1. Chẳng hạn với luật vần bằng:
– B – T – B B
– T – B – T B
– T – B – T T
– B – T – B B
– B – T – B T
– T – B – T B
– T – B – T T
– B – T – B B
3. Vần
Vần chỉ những chữ có cách phát âm giống hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo ra âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường luật chuẩn, vần được sử dụng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và câu 8. Những câu thơ này được gọi là “vần với nhau”. Nếu như một bài thơ Đường luật mà chữ cuối của một trong những câu này không giống nhau về vần thì bị gọi “thất vần”.
Những chữ có vần giống với nhau hoàn toàn gọi là “vần chính”, những chữ có vần gần giống nhau được gọi là “vần thông”. Hầu hết thơ Đường luật sử dụng vần thanh bằng, nhưng cũng sẽ có các ngoại lệ.
Ví dụ: Hai câu 1, 2 bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Hai chữ “tà” và “hoa” được coi là vần với nhau, nhưng ở đây là “vần thông” bởi vì chỉ phát âm gần giống nhau.
4. Bố cục
Bố cục một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật theo truyền thống thường được chia bao gồm 4 phần: Đề, Thực (hoặc Trạng), Luận, Kết.
- “Đề” gồm có 2 câu đầu trong đó câu đầu tiên được gọi là câu phá đề, câu thứ 2 được gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý để đi theo vào phần sau.
- “Thực” gồm có 2 câu tiếp theo, giải thích rõ được ý đầu bài.
- “Luận” gồm có 2 câu tiếp theo nữa, bình luận 2 câu thực.
- “Kết” là 2 câu cuối, kết thúc ý toàn bài, trong đó có câu số 7 là câu “thúc” (hay “chuyển”) và câu cuối chính là “hợp”.
Có người cho rằng 2 câu đề giới thiệu về sự vật, sự việc, thời gian, không gian. Hai câu thực trình bày, mô tả sự việc, sự vật. Hai câu luận diễn tả thái độ, suy nghĩ, cảm xúc về sự vật và hiện tượng. Hai câu kết khái quát toàn bộ nội dung bài theo hướng mở rộng và nâng cao.
Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 10 hay khác:
- Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề
- Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hay một quan niệm
- Thảo luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau
- Viết bản nội quy hướng dẫn nơi công cộng
- Viết bài luận về bản thân
Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 10 hay khác:
- Soạn văn 10 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 10 Cánh diều (ngắn nhất)
- Soạn văn 10 Cánh diều (siêu ngắn)
- Giải Chuyên đề học tập Văn 10 Cánh diều
- Giải lớp 10 Cánh diều (các môn học)
- Giải lớp 10 Kết nối tri thức (các môn học)
- Giải lớp 10 Chân trời sáng tạo (các môn học)
Tủ sách VIETJACK shopee lớp 10-11 cho học sinh và giáo viên (cả 3 bộ sách):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Soạn văn 10 (hay nhất) - Cánh diều
- Soạn văn 10 (ngắn nhất) - Cánh diều
- Soạn văn 10 (siêu ngắn) - Cánh diều
- Giải sgk Toán 10 - Cánh diều
- Giải Tiếng Anh 10 Global Success
- Giải Tiếng Anh 10 Friends Global
- Giải sgk Tiếng Anh 10 iLearn Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 10 Explore New Worlds
- Giải sgk Vật lí 10 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Địa lí 10 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch sử 10 - Cánh diều
- Giải sgk Kinh tế và Pháp luật 10 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 10 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 10 - Cánh diều