5+ So sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng Chí và Tây Tiến
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng Chí và Tây Tiến hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Top 30 Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ
- 5+ So sánh, đánh giá Tiếng nói tri âm trong Độc Tiểu Thanh kí và Đàn ghi ta của Lor-ca
- 5+ So sánh, đánh giá Cảm hứng về đất nước trong Đất nước và Việt Bắc
- 5+ So sánh, đánh giá Hình tượng người phụ nữ trong Tự tình II và Thuyền và biển
- 5+ So sánh, đánh giá Cách thể hiện nỗi nhớ trong Tây Tiến và Tiếng hát con tàu
- 5+ So sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Tây Tiến và một bài thơ cùng để tài
- So sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng Chí và Tây Tiến (mẫu 1)
- Dàn ý So sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng Chí và Tây Tiến
- So sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng Chí và Tây Tiến (mẫu 2)
- So sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng Chí và Tây Tiến (mẫu 3)
- So sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng Chí và Tây Tiến (mẫu 4)
5+ So sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng Chí và Tây Tiến
Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng Chí và Tây Tiến - mẫu 1
Trong dòng chảy văn học Việt Nam, hình tượng người lính trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc đã trở thành một tượng đài bất tử. Cùng là những "nhà thơ mặc áo lính" trưởng thành từ những cuộc chiến tranh máu lửa, cả Quang Dũng và Chính Hữu đều đã để lại cho nền thi ca Việt Nam những tác phẩm xuất sắc viết về người lính. Nếu người ta biết đến Quang Dũng với "Tây Tiến" thì cũng không thể nhắc đến "Đồng chí" của Chính Hữu. Cả hai bài thơ đều để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng bao thế hệ bạn đọc. Cả "Tây Tiến" của Quang Dũng và "Đồng chí" của Chính Hữu đều khắc họa hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Hai bài thơ tuy có những điểm đặc sắc riêng, song lại đều nổi bật lên được tư tưởng cao đẹp cống hiến cho đất nước. Đến với Tây Tiến, người lính được tập trung khắc hoạ với những vẻ đẹp khác nhau, vừa hào hùng, vừa lãng mạn, lại vừa bị tráng. Quang Dũng đặc tả khung cảnh thiên nhiên để làm nổi bật lên hình ảnh người lính. Người lính Tây Tiến phải đối mặt với thách thức địa hình, nơi "dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm", "ngàn thước lên cao ngàn thước xuống", nơi sơn cùng thủy tận "oai linh thác gầm thét", "đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người". Ở họ, ta thấy được sự ung dung, tâm thế chủ động vượt lên trên khó khăn, gian khổ. Đối với họ, cái chết nhẹ như một giấc ngủ "gục lên súng mũ bỏ quên đời", và khi họ ra đi, họ khoác trên mình tấm áo lính đơn sơ nhưng lại là tấm "áo bào" minh chứng cho những cống hiến, hi sinh của họ. Không những can trường, mạnh mẽ, họ còn mang trong mình một tâm hồn lãng mạn. Họ sống hết mình trong "tiếng khèn man điệu", trong tiếng nhạc, trong ánh sáng tưng bừng và điệu múa mê hồn của những cô thôn nữ. Người lính Tây Tiến không chỉ là những chàng trai hừng hực ý chí bảo vệ Tổ quốc, mộng công danh còn đi liền với cả "mộng giai nhân". Họ vốn xuất thân là những thanh niên nơi phố thị phồn hoa, họ từ bỏ những giảng đường, từ bỏ cuộc sống hiện đại để ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, vậy nên họ cũng có những giờ phút nhớ nhung dáng kiều chốn Hà Thành:
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Quang Dũng đã đi sâu vào đời sống tâm hồn vô cùng phong phú của những người lính, họ cũng là những con người trẻ tuổi, tài hoa, trái tim họ cũng biết rung động, cũng biết vang lên những nhịp đập hết sức đời thường. Nhớ nhung một bóng dáng nơi đô thành, cao hơn, lại chính là trái tim sắt son luôn hướng về nơi thủ đô, nơi Tổ quốc. Nếu Tây Tiến đã khắc hoạ một tượng đài người lính với vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bị tráng thì với "Đồng chí", Chính Hữu lại đi sâu vào một khía cạnh khác ở người lính cụ Hồ trong những năm tháng chống Pháp. Không phải là những chàng trai trí thức trẻ chốn thành thị, mà họ là những người nông dân chân lấm tay bùn đến từ những miền quê "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá", vì tiếng gọi của Tổ Quốc mà cất bước ra đi, để rồi "chẳng hẹn mà quen nhau nơi chiến khu". Chính Hữu cũng đã khắc hoạ những gian khó, thiếu thốn nơi chiến trường, từ đó làm sáng lên thứ tình cảm ấm nồng - tình đồng chí. Trên quãng đường hành quân, người lính phải đối mặt với biết bao gian khổ:
"Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Chân không giày"
"Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi".
Có lẽ, những hình ảnh chân thực đến xót xa ấy đã quá đỗi quen thuộc trong mỗi cuộc chiến tranh gian lao của dân tộc. Những khi ấy, những người đồng chí luôn cùng sát cánh kề vai, sẻ chia, gắn bó. Không chỉ làm nổi bật lên tình cảm đồng chí giản dị mà cảm động biết bao, Chính Hữu cũng khắc hoạ vẻ đẹp của tâm hồn lãng mạn Câu thơ dường như đã cất cánh, thăng hoa, trở thành một biểu tượng đẹp trong nền thơ ca cách mạng. Dù gian nan, khổ cực, hiểm nguy trập trùng, tâm hồn người lính cũng có những giây phút lãng mạn đến thế. Đó cũng chính là vẻ đẹp của thời đại, một thời đại anh hùng nhưng cũng không kém phần hào hoa lãng mạn. Đi mua nhà thơ đều tập trung khai thác những khía cạnh khác nhau của người lính trong kháng chiến chống Pháp nhưng ở cả hai bài thơ đều sáng lên tư tưởng cao đẹp cống hiến cho Tổ quốc.
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Hình ảnh "mồ viễn xứ" gợi lên cái cảm giác ghê sợ, lạnh lẽo, tang thương nhưng lại không thể không tự hào, kiêu hãnh trước sự hi sinh bất khuất của người lính Tây Tiến. Bằng một loạt những từ Hán Việt, những vần thơ bỗng trở nên trang trọng như một nén tâm nhang thắp lên cho người đã ngã xuống. Họ "chẳng tiếc đời xanh", họ bỏ lại sau lưng chốn phồn hoa phố thị, để đối mặt với khó khăn thử thách và hiểm nguy. Người lính trong Đồng chí cũng thế:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay"
Đối với người nông dân, mảnh đất, gian nhà quý giá biết bao, đó là linh hồn của họ, nhưng vì Tổ quốc, họ sẵn sàng để lại sau lưng những điều quý giá ấy. Bởi lẽ, dù là ai, họ cũng hiểu được rằng, đất nước còn, thì gian nhà nhỏ bé đơn sơ hay những phố thị, những giảng đường mới tự do, mới độc lập, mới có ý nghĩa. Trong câu thơ, ta thấy một tâm thế ung dung nhưng không phải là thờ ơ, là bất cần, mà là vì họ hiểu được một cách sâu sắc giá trị của độc lập, tự do. Bởi vậy, họ sẵn sàng hi sinh tất cả những gì của bản thân mình, để chiến đấu, để cứu lấy cả quê hương, cũng là để bảo vệ những gì mình trân quý nhất. Tâm thế của người ra đi chiến đấu là sẵn sàng xả thân, "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", mà ta cũng đã thấy ở trong trang thơ của biết bao nhà thơ khác
"Nhớ buổi ra đi đất trời rực lửa
Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn phất phơ mười phương cờ đỏ thắm"
(Chính Hữu)
"Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy"
Rõ ràng đã thấy cả hai bài thơ đều đã khắc họa những khía cạnh như vẻ đẹp riêng của người lính trong kháng chiến chống Pháp. Nhưng dù là ai, họ cũng mang trong mình cứ tưởng cao đẹp cống hiến hết mình vì tổ quốc, vì quê hương. Hai bài thơ đã góp phần làm phong phú thêm nền thi ca cách mạng Việt Nam, làm rạng rỡ thêm bức tượng đài bất tử của những người lính anh hùng.
Dàn ý Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng Chí và Tây Tiến
1. Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975.
- Dẫn vào hình tượng người lính trong Tây Tiến và Đồng Chí.
2. Thân bài
a. Điểm chung:
Sáng tác năm 1948.
Bối cảnh chiến trường vùng Tây Bắc.
Tác giả đều là những người lính thực thụ bước ra từ chiến trường máu lửa.
b. Hình tượng người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng:
* Xuất thân:
Những chàng trai đến từ thủ đô, hầu hết là học sinh sinh viên.
Mang vẻ hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn.
* Hoàn cảnh chiến đấu:
Chiến trường vùng biên giới Việt - Lào khắc nghiệt.
Cung đường hành quân rộng lớn, khúc khuỷu.
Điều kiện chiến đấu thiếu thốn, phải đối mặt với căn bệnh sốt rét kinh hoàng.
Thường xuyên có người hy sinh vì bệnh tật và bom đạn.
* Vẻ hào hùng, dữ dội trong ngoại hình:
"Không mọc tóc", "quân xanh màu lá", hậu quả của bệnh sốt rét, nhưng vào thơ Quang Dũng đã mang nét nghĩa chủ động, trở thành vẻ đẹp ngoại hình kỳ dị, trấn áp kẻ thù.
* Vẻ hào hùng, bất khuất trong lý tưởng chiến đấu:
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh": Một lòng hy sinh cho Tổ quốc, không tiếc thân mình.
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ...Áo bào thay chiếu anh về đất": Cái chết hiên ngang, bất khuất, bi thương nhưng không hề bi lụy.
* Vẻ hào hoa, lãng mạn trong đời sống tâm hồn:
Say sưa điệu nhạc, nụ cười ánh mắt của những cô gái trẻ, vui mừng nhảy múa trong những lúc tập kết về doanh trại.
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", khao khát tình yêu, hạnh phúc.
=> Tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, bay bổng, là động lực để người lính trở nên mạnh mẽ kiên cường trong chiến đấu.
c. Hình tượng người lính trong Đồng chí của Chính Hữu:
* Xuất thân:
- Người nông dân áo vải, đi từ làng quê nghèo khó.
* Điều kiện chiến đấu
Vùng chiến trường Việt Bắc hoang sơ, khắc nghiệt.
Phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng.
Thiếu thốn vật chất, cuộc chiến vô cùng gian khổ, khó khăn.
=> Miêu tả một cách chân thực, không mang màu sắc lãng mạn.
* Ngoại hình:
- Không mang vẻ dữ dội, thay vào đó là hình tượng người lính nghèo nàn, khổ cực "Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá/Miệng cười buốt giá chân không giày" => Vẻ đẹp đến từ sự chân chất giản dị.
* Vẻ đẹp tâm hồn:
- Thể hiện chủ yếu thông qua tình đồng chí gắn bó sâu sắc.
- Sự thông cảm lẫn nhau khi cùng có chung hoàn cảnh, gắn bó sâu sắc, đồng cam cộng khổ vượt qua những lúc ốm đau bệnh tật.
Đặc biệt là cùng kề vai nhau bước vào chiến trường máu lửa, thấu hiểu nỗi mất mát, hy sinh trong chiến tranh.
- Tinh thần kiên cường bất khuất vượt qua mọi khó khăn gian khổ trong chiến đấu.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận.
Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng Chí và Tây Tiến - mẫu 2
Cả Quang Dũng và Chính Hữu đều là những nghệ sĩ cách mạng nổi tiếng của Việt Nam, tác phẩm của họ chứa đựng những giá trị sâu sắc, mang ý nghĩa to lớn trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Những tác phẩm này không chỉ gây ra nhiều cảm xúc cho độc giả mà còn thể hiện những tinh thần thiết yếu.
Được biết đến với tài năng xuất sắc trong sử dụng ngôn ngữ và phong cách nghệ thuật độc đáo, Quang Dũng và Chính Hữu đã tạo ra những giá trị đáng kể trong nghệ thuật của mình. Cả hai đều hướng tới cách mạng và nền đại chúng trong tác phẩm của mình. Tác phẩm của họ không chỉ mang ý nghĩa to lớn mà còn tạo ra những giá trị quan trọng và hạnh phúc cho mỗi độc giả.
Tài năng đặc biệt trong việc sử dụng ngôn ngữ của Quang Dũng đã tạo ra những giá trị vô song trong nghệ thuật, đồng thời làm sống động những khoảnh khắc hào hùng trong bài thơ Tây Tiến. Chiến sĩ hiện lên như những anh hùng, kiên trì vượt qua mọi khó khăn để làm nên những điều mang ý nghĩa mạnh mẽ nhất.
Với nghệ thuật vẽ hình nhân vật và sử dụng ngôn ngữ, những điểm đặc trưng về nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩm được thể hiện mạnh mẽ và ý nghĩa:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Với sự tinh tế và sắc sảo của ngôn ngữ, mức độ nguy hiểm trong bài thơ được mô tả ở đỉnh cao, tạo nên không khí trừu tượng đặc sắc trong ngôn ngữ. Biệt tài sử dụng ngôn ngữ đã tạo ra những màu sắc rực rỡ và sống động trong những khoảnh khắc hùng vĩ và ý nghĩa nhất.
Đặc biệt, với phong cách độc đáo, Chính Hữu mang đến một góc nhìn mới về nghệ thuật chân thực và hiện thực xã hội. Tác phẩm của ông không chỉ chứa đựng giá trị mạnh mẽ và đặc sắc, mà còn phản ánh đời sống của những chiến sĩ cách mạng, tạo nên gia đình lớn và đầy sức sống.
Những năm tháng chiến đấu kiên cường đã làm nên những giá trị sống ý nghĩa nhất. Những người chiến sĩ đã tập trung và xây dựng một gia đình lớn, mạnh mẽ, tạo ra những chiến công lịch sử.
Người chiến sĩ đoàn kết và tạo nên những phút giây hào hùng, cuộc sống tràn ngập màu sắc và ý nghĩa. Đây là cuộc sống hạnh phúc và giàu ý nghĩa nhất:
Súng bên sung đầu gác bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Ngôn ngữ sôi động và chân thực đã tạo ra cuộc sống ý nghĩa và giá trị mạnh mẽ. Câu chuyện về những chiến sĩ đến từ nền nông dân, đối mặt với khó khăn, làm nên những thành tựu lớn cho dân tộc. Giai đoạn khó khăn, gian lao làm nên những khoảnh khắc linh thiêng và là động lực cho những chiến công lịch sử.
Cả hai bài thơ thể hiện nét đặc trưng trong việc sử dụng ngôn ngữ để làm nổi bật tác phẩm. Ngôn ngữ của Tây Tiến hùng bi tráng và đầy màu sắc biểu tượng, trong khi Đồng Chí mang ngôn ngữ chất phác, nhưng vẫn rất đậm chất màu sắc. Mặc dù khác nhau, nhưng cả hai đều chứa đựng giá trị và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ độc đáo.
Với những hình tượng đặc sắc, tác giả tạo ra sự phong phú trong nghệ thuật của mình. Hình ảnh nổi bật hiện lên sâu sắc và tràn đầy ý nghĩa trong tác phẩm.
Sự đặc sắc trong cách sử dụng ngôn ngữ và tính chất riêng biệt trong việc hình thành nhân vật làm phô diễn những khoảnh khắc phấn chấn, tạo nên sự độc lập trong cuộc sống của nhân vật trong tác phẩm.
Ngôn ngữ khéo léo tạo ra sự độc lập với giá trị ý nghĩa và biểu trưng mạnh mẽ, tác phẩm của Quang Dũng và Chính Hữu mang đến những ý nghĩa biểu trưng về cuộc sống và giá trị ý nghĩa sâu sắc cho toàn bộ tác phẩm. Những hình ảnh tuyệt vời và sâu sắc đã tạo nên đặc sắc trong từng tác phẩm và giá trị của chúng để lại cho nhân loại cái nhìn ý nghĩa và sâu sắc nhất.
Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng Chí và Tây Tiến - mẫu 3
Chiến tranh tàn khốc đã đi qua nhưng những chiến công và những con người lịch sử thì còn sống mãi trong văn chương không tuổi. Văn học lưu giữ, khắc ghi và ca ngợi họ - những người lính anh dũng đã đem lại độc lập cho tổ quốc qua những câu thơ, áng văn đậm đà tình cảm. Tuy nhiên với mỗi bài thơ lại có cách khám phá và thể hiện rất riêng mang đậm dấu ấn cá nhân người nghệ sĩ. Hình tượng người lính trong hai bài thơ “Đồng chí” – Chính Hữu và “Tây Tiến” – Quang Dũng vừa mang những nét tương đồng vừa có những nét riêng đặc biệt.
“Hình tượng” là thế giới đời sống, con người hiện lên trong trang viết của người nghệ sĩ, là nơi tác giả thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình. Hình tượng người lính vốn không mấy xa lạ trong văn học Việt Nam nhưng mỗi người lại có cách thể hiện của riêng mình, tạo nên thế giới đời sống rất riêng và đặc sắc. Cùng ra đời trong cuộc kháng chiến chống Pháp, “Đồng chí” và “Tây Tiến” đã đem lại cho người đọc những cách nhìn nhận mới mẻ, những hình ảnh riêng độc đáo, hoàn thiện bức tranh về người lính chống Pháp và để lại trong lòng người đọc những ấn tượng không nguôi. Họ cùng là những con người của một thời đại anh dũng và hào hùng, cho nên ở đó luôn toát lên phong thái ngang tàng, mạnh mẽ, sẵn sàng vượt qua mọi gian nan thử thách dẫu mưa rừng thác lũ có dữ dội đến đâu:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm.
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Người lính phải vượt qua những trận mưa nguồn suối lũ, những đêm ngủ rừng chỉ có manh chiếu mỏng đắp vội, cơm chẳng đủ no, “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.” Nhưng đáng sợ nhất vẫn là những trận sốt rét rừng. Những cơn sốt rét rừng đến vàng da rụng tóc, bòn rút từng chút sức của họ:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”
Hay:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Gian nan, khổ đau là thế, những cơn sốt rét rừng hành hạ, thêm vào đó là tư trang tư phục chẳng đủ, thiếu thốn trăm bề nhưng những người lính đó chưa bao giờ thôi lạc quan và hạnh phúc. Bởi vì họ thiếu thốn vật chất nhưng đời sống tinh thần của họ lại thật phong phú biết bao: tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó, những đêm đốt lửa trại liên hoan dưới ánh đuốc hoa bập bùng, những trận sốt rét rừng hành hạ được ngả đầu trên vòng tay ấm áp của đồng đội. Có lẽ vì vậy mà họ có chung một niềm lạc quan, một sự anh dũng và quả cảm đáng phục, là nguồn động lực giúp họ chiến thắng mọi thử thách và đương đầu trước mọi gian truân. Có khó khăn, có gian khổ đấy, nhưng họ chưa bao giờ đầu hàng trước thử thách mà dũng cảm đối đầu với chúng để xứng đáng trở thành anh bộ đội cụ Hồ.
Người lính trong “Đồng chí” hay người lính trong “Tây Tiến” xét cho cùng tuy hai mà một, gặp gỡ nhau trong nét cốt cách anh hùng của người lính chống Pháp năm xưa.Nhưng “Không có lối đi chung nào cho hai nhà văn cả”, những người nghệ sĩ có thể gặp gỡ nhau trong cảm xúc trữ tình, hình tượng họ xây dựng cũng có thể tương đồng đôi nét nhưng không bao giờ là một bản sao. Cho nên dù viết về người lính cùng một thời đại nhưng mỗi bài thơ lại có một nét khám phá, phát hiện rất riêng. Người lính của Chính Hữu mang nét gì đó mộc mạc, hiền lành, chân chất, bởi họ xuất thân từ vùng quê nghèo nơi nước mặn đồng chua, họ là những người nông dân vì chiến tranh mà phải buông liềm đi cầm súng:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Có lẽ vốn dĩ xuất thân từ những người nông dân bình dị, cho nên tình cảm của họ dành cho nhau cũng thật chân thành và kín đáo. Hai chữ “đồng chí!” thốt lên như là xúc cảm cố giữ bỗng chốc bật ra thành lời, họ quan tâm nhau và chăm sóc nhau bằng sự chân thành và thật thà của người dân vùng quê bến nước:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”
Họ đến với nhau vì cùng chung lí tưởng, mục đích, đó là dùng máu xương của mình để giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Những người lính nông dân thật thà chất phác đó thể hiện tình cảm chân thành và ý nhị, chia cho nhau từng bát cơm, từng mảnh chăn chắp vá và dù đêm lạnh lẽo thế nào cũng có thể cười vì hơi ấm đồng đội trao:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm xẻ nửa chăn sui đắp cùng”
Còn người lính của Quang Dũng lại xuất thân từ những sinh viên thủ đô vừa rời khỏi giảng đường Đại học. Vì tuổi trẻ, vì cuộc sống thị thành đã tôi luyện cho họ một nét tình cách vừa hào hoa vừa phong tình, đậm đà chất lãng mạn. Có lẽ vì vậy mà họ không hề che giấu sự đa tình của mình ngay cả khi đang trên hành trình hành quân ra mặt trận, cái ngạo nghễ, tươi trẻ đó như rót vào lòng họ những tia sáng lấp lánh. Họ mơ về chiến công bên biên giới, họ cũng không quên mơ về giấc mộng của riêng mình: một “dáng Kiều thơm” hay người con gái của đất kinh đô, những nữ sinh Trưng Vương, Đồng Khánh đẹp người sóng sánh bên nước trời Hà Nội:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”
Lời thơ như có chút gì đó táo bạo nhưng cũng thật lãng mạn và đa tình. Họ chiến đấu anh dũng nhưng đồng thời cũng sở hữu trong mình những nét đẹp hào hoa đến lạ. Có lẽ nó vừa là nguồn động lực, vừa là cái đẹp rất riêng, rất táo bạo của người lính trẻ, họ như cánh hoa đong đưa mình trên dòng nước lũ, những bông hoa đã sống trọn kiếp mình với nắng, với gió, để tỏa sắc giữa cuộc đời dẫu thác lũ có dữ dội đến đâu.Với “Đồng chí” và “Tây Tiến”, cả hai tác giả đã đưa ta đến với những vẻ đẹp của người lính chống Pháp năm xưa. Gặp gỡ có nhưng độc đáo cũng có, hai bài thơ vừa có những điểm chung lại có những nét rất riêng, rất mới lại, góp phần hoàn thiện vẻ đẹp người chiến sĩ cách mạng.
Đúng như ai đó đã từng nói rằng, nhà thơ phải đốt cháy mình mới mong ngọn lửa của mình tỏa sáng giữa đời, cả Chính Hữu và Quang Dũng thực sự đã đốt lửa lòng để viết ra những câu thơ đẹp đẽ. Văn chương cách mạng nhờ vậy mà còn sống mãi, bởi bản thân nó đã trở thành những áng văn thơ mang lửa, sẵn sàng tỏa rạng để vào “đốt lửa lòng” bất kì ai.Có những sự thích thú chỉ là thoáng qua nhưng có những tình cảm sẽ là mãi mãi. Có những bài viết đọc một lần rồi quên nhưng có những áng thơ trường tồn bất diệt dẫu thời gian có nghiệt ngã cỡ nào. Người nghệ sĩ chân chính cũng giống như những áng thơ bất diệt vậy, khi họ viết tác phẩm của mình bằng Tài và Tâm.
Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng Chí và Tây Tiến - mẫu 4
Viết về đề tài người lính trong cuộc kháng chiến Pháp, không biết đã có bao nhiêu tác phẩm truyện và bài thơ được sáng tác về chủ đề này. Trong số các tác giả nổi tiếng, có Quang Dũng và Chính Hữu. Bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí vẫn là những tác phẩm được độc giả yêu thích và được đánh giá cao. Hãy cùng nhau viết về người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhưng không chỉ là những điểm tương đồng, mà còn là những khác biệt giữa họ.
Khác biệt đầu tiên là về xuất thân. Người lính trong hai bài thơ có hoàn cảnh xuất thân khác nhau, điều này dẫn đến tính cách khác nhau.
Những chiến sĩ Tây Tiến dưới bàn tay nghệ sĩ Quang Dũng chủ yếu bắt nguồn từ tinh thần trẻ trí thức ở thủ đô Hà Nội. Họ bắt đầu cuộc hành trình với niềm tin mãnh liệt về tình yêu quê hương, hy sinh niềm hạnh phúc cá nhân để đổi lấy hạnh phúc cho đất nước. Chính điều này làm nên tâm hồn lãng mạn của họ:
'Đêm Hà Nội vuốt mình trong giấc mơ'
Dù đối mặt với những khó khăn khốc liệt trong trận chiến, tinh thần lãng mạn không bao giờ phai mờ trong tâm hồn những lính trẻ. Họ khắc sâu hình ảnh những người phụ nữ yêu quý để làm phong phú thêm cuộc sống, tạo sự cân bằng với thực tại khốc liệt. Họ đắm chìm trong vẻ đẹp của thiên nhiên, ngắm nhìn vẻ đẹp vĩ tuyến của núi rừng Tây Bắc, khẩu súng trong tay cao vút như đang chạm vào bầu trời. Và đặc biệt, những chiến sĩ này mang tâm hồn trẻ trung, hạnh phúc.
Những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu không phải là những tư nhân xuất thân từ tầng lớp trí thức, mà chính họ là những con người nông dân chân chất, sống giản dị ở những làng quê bình yên:
'Quê hương tôi, đất mặn sóng biển
Làng nghèo thân thương, đá sỏi nổi bần
Tôi và anh, hai kẻ xa lạ
Chẳng hẹn nhau, phương trời kết nghĩa'
Họ là những chiến sĩ nông dân đến từ những vùng quê nghèo, đất mặn sóng biển, nơi đá sỏi nổi bần. Họ vừa mạnh mẽ, vừa tràn đầy tấm lòng nhân ái. Nếu trước đây họ chỉ quen với cuộc sống cày cấy, làm ruộng nhưng vì tình yêu quê hương, vì sự căm thù với kẻ thù, họ đã bỏ qua mọi điều để 'mặc kệ' ngôi nhà yên bình, sẵn sàng bước vào chiến trường. Bỏ lại giếng nước thơm, bỏ áo vải nâu quen thuộc, những chiến sĩ nông dân khoác lên mình bộ áo xanh quân đội, tay cầm súng bảo vệ quê hương.
Sự khác biệt thứ hai giữa những người lính trong hai bài thơ là vẻ đẹp về ngoại hình. Nhà thơ Quang Dũng miêu tả người lính Tây Tiến với vẻ đẹp ngoại hình, mặc dù họ có vẻ ốm đau nhưng không bao giờ yếu đuối:
'Binh đoàn Tây Tiến, tóc không mọc
Quân phục xanh như lá, mạnh mẽ dữ oai
Mắt trừng nhìn vượt biên giới
Đêm mơ về Hà Nội, hình ảnh kiều diễm thơm lừng'
Với điều kiện chiến tranh thiếu thốn, môi trường chiến đấu trong những khu rừng núi hoang sơ, người lính Tây Tiến xuất hiện với hình ảnh đầu không có tóc, quân phục xanh lá cây ngụy trang hoặc có thể là màu của đồng phục quân đội, thậm chí là biểu tượng xanh vì thiếu chất. Tuy nhiên, họ không hề yếu đuối, ngược lại, họ mang vẻ 'dữ oai'. Bằng ánh mắt trừng, họ truyền đạt tinh thần căm thù đối với kẻ thù, thậm chí cả khi ngủ, họ gửi đi những giấc mơ về chiến thắng ở biên giới.
Ngược lại với người lính Tây Tiến, những chiến sĩ nông dân của Chính Hữu thể hiện vẻ đẹp mộc mạc, hồn hậu với những bộ quần áo rách rưới:
'Áo anh rách vai
Quần tôi vá vài mảnh lụa
Cười buốt giá từ miệng buốt giá
Chân không đôi giày
Thương nhau, tay nắm chặt lấy bàn tay!'
Nét ngoại hình của lính nông dân không tập trung vào đặc điểm khuôn mặt mà đặt nặng vào thiếu thốn của bộ quần áo. Họ phải mặc chiếc áo vá vai rách, quần được vá lên từ những miếng lụa. Trong làn sương sớm, họ đứng gần nhau, chân không che đôi giày, miệng cười buốt giá trong bóng tối. Họ hiện lên không chỉ đơn giản mà còn ấm áp bởi tình đồng chí. Dù là rét buốt hay quần áo rách, nhưng đó chính là lý do tình đồng chí trở nên đặc biệt hơn.
Cả hai bài thơ đều thể hiện tình đồng chí đồng đội, nhưng cách mà người lính thể hiện tình đồng chí khác nhau.
Người lính Tây Tiến, những người trí thức, thể hiện tình cảm của họ một cách tinh tế. Nhà thơ không mô tả trực tiếp sự quan tâm chăm sóc, nhưng thông qua những hồi ức, cảm nhận về đồng đội, nó thể hiện sự gắn bó. Nó là một liên kết chặt chẽ đến nỗi người lính Tây Tiến sẵn lòng:
'Ai lên Tây Tiến mùa xuân kia
Chốn về Sầm Nứa chẳng bao giờ trở lại'
Trong bức tranh tình đồng chí của nhà thơ Chính Hữu, người lính nông dân miêu tả một cách trực tiếp. Đối với họ, tình đồng chí là những người không hẹn trước, đến từ những nơi xa xôi nhưng:
'Súng kề súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét, chung chăn trở thành đôi tri kỷ
Đồng chí ơi!'
Hoặc:
Nắm tay nhau, đêm nay rừng hoang mặn
Dựa gần nhau, đợi giặc tới trong sương
Súng kề súng, trăng treo trên đầu súng'
Từ những bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí, ta thấy vẻ đẹp đặc sắc của người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp được tạo nên bởi sự nghệ thuật của Quang Dũng và Chính Hữu. Dù mang những đặc điểm khác nhau, nhưng những điểm độc đáo ấy lại tạo nên một vẻ đẹp chung cho người lính Việt Nam. Dù ở đâu, là ai, hay xuất thân như thế nào, họ cùng chung lòng yêu nước, sẵn sàng hy sinh để mang lại hạnh phúc cho đồng bào.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 hay nhất khác:
Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 12 hay khác:
- Soạn văn 12 Kết nối tri thức (hay nhất)
- Soạn văn 12 Kết nối tri thức (ngắn nhất)
- Soạn Chuyên đề Văn 12 Kết nối tri thức
- Giải lớp 12 Kết nối tri thức (các môn học)
- Giải lớp 12 Chân trời sáng tạo (các môn học)
- Giải lớp 12 Cánh diều (các môn học)
Sách VietJack thi THPT quốc gia 2025 cho học sinh 2k7:
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT