Top 10 Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12 (điểm cao)
Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12 hay nhất, ngắn gọn giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (mẫu 1)
- Dàn ý Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ
- Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (mẫu 2)
- Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (mẫu 3)
- Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (mẫu 4)
Top 10 Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12 (điểm cao)
Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - mẫu 1
Xin chào thầy cô và các bạn. Tôi là ………… Lớp …….. Trường ………………
Các bạn thân mến! Từ xưa đến nay, văn học luôn mang đậm dấu ấn của con người. Dù mô tả về một cánh đồng, dòng sông, hoặc âm nhạc của thiên nhiên, tác phẩm vẫn hướng về con người. Thiên nhiên trong văn học là bức tranh phản ánh tâm trạng của con người: buồn thì cảnh buồn, vui thì cảnh vui. Hai bài thơ "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu và "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi cũng minh chứng điều này.
Mùa thu luôn là nguồn cảm hứng bất tận và đề tài hấp dẫn đối với các nhà thơ qua các thời kỳ. Từ Huy-gô, Rim-bô, Véc-len, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến cho đến Tản Đà, mỗi người đã sáng tác những bài thơ độc đáo về mùa thu. Mặc dù cảnh vật mùa thu không thay đổi, nhưng cảm xúc của nhà thơ mỗi thời điểm lại khác nhau, tạo ra những vẻ đẹp độc đáo trong từng bài thơ.
Bài Đây mùa thu tới là một bài thơ hay về mùa thu của Xuân Diệu trước cách mạng. Bài Đất nước (1948-1955) của Nguyễn Đình Thi không phải là bài thơ viết về mùa thu, nhưng cảm hứng đất nước lại bắt đầu từ cảm hứng mùa thu. Hai bài thơ viết trong hai giai đoạn lịch sử khác nhau, thể hiện hai trạng thái cảm xúc khác nhau của nhà thơ trước mùa thu.
Cảnh mùa thu trong bài thơ "Đây mùa thu tới" truyền đạt một nỗi buồn sâu sắc. Nỗi buồn này không chỉ là biểu tượng của mùa thu mà còn là biểu tượng của thời đại và của "thơ mới". Sự lạnh lẽo của mùa thu khơi gợi cảm giác cô đơn, sự chia lìa từ thiên nhiên đến con người, và nỗi nhớ thầm lặng trong lòng. Hình ảnh rặng liễu buồn như những cô gái chịu tang cùng với dòng lệ tuôn rơi mở đầu bài thơ, cùng với hình ảnh hoa, lá rụng, cây khô gầy và vầng trăng bơ vơ trong các khổ thơ tiếp theo, tất cả tạo ra một không gian u uất, phai nhạt, làm nổi bật nỗi buồn cô đơn. Mặc dù vậy, cảnh thu vẫn mang trong mình một vẻ đẹp dịu dàng, trẻ trung. Xuân Diệu mô tả mùa thu với sắc vàng tươi tắn như tấm áo mơ phai dệt lá vàng, tạo ra một không gian sáng sủa, tươi mới. Dù mang trong mình nét buồn, nhưng mùa thu vẫn chứa đựng sức sống trẻ trung, được tác giả phát hiện thông qua con mắt trẻ trung, là biểu hiện của tuổi trẻ và tình yêu trong cảnh vật.
Cảnh thu rất đẹp mà buồn vì lòng người lúc ấy còn buồn bã. Nỗi buồn của Xuân Diệu cũng là nỗi buồn của cả một thế hệ trí thức tiểu tư sản đương thời “yêu đời nhưng đau đời” (Huy Cận) chưa tìm được lối ra. Nỗi buồn ấy chính là tấm lòng thiết tha yêu đời, thiết tha giao cảm với đời.
Đang trong tâm trạng ấy cho nên nhà thơ rất nhạy cảm trước khung cảnh đất trời chuyển vào thu:
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Câu thơ cất lên như một tiếng reo khẽ, vồ vập, khi chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của mùa thu. Phải có tấm lòng yêu đời thì giữa cảnh thu buồn bã, nhà thơ mới có thể đón nhận được một niềm vui nho nhỏ như thế. Sự nhạy cảm của hồn thơ Xuân Diệu còn được thể hiện qua cách cảm nhận của mùa thu. Nếu trong phần mở đầu, tác giả phát hiện cảnh thu bằng thị giác để tái hiện sắc thu thì đến phần giữa bài thơ tác giả đã thâm nhập vào bên trong cảnh vật để cảm nhận tinh tế bằng cảm giác của mình: Cành lá run rẩy, sắc lá đổi màu, nhành cây ớn lạnh đến tận xương khô, rét mướt luồn trong gió. Cuối cùng nhà thơ gửi gắm tâm trạng của mình qua nỗi lòng của người thiếu nữ. “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”, một nỗi nhớ thương ngơ ngác mặc dù cô thiếu nữ không nói, nhưng rõ ràng đó là tư thế suy tư của người muốn đón nhận, của tâm trạng đang hướng về cuộc đời.
Tóm lại: cảnh thu, lòng người trước mùa thu có buồn bã cô đơn, nhưng không quá tuyệt vọng mà vẫn tươi trẻ. Toát lên từ toàn bộ bài thơ cảnh thu là vẻ đẹp của một nỗi buồn. Đó là nỗi buồn đầy cảm xúc của cái tôi cô đơn biểu hiện một niềm yêu đời, khát khao giao cảm với đời của nhà thơ Xuân Diệu.
Bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi thể hiện sự kháng chiến quyết liệt của dân tộc Việt Nam trong 9 năm (1946 - 1954), nhưng cảm hứng của đất nước lại xuất phát từ mùa thu. Bài thơ mở đầu với hình ảnh mùa thu trong lành, với câu "Sáng mát trong như sáng năm xưa" và "Gió thổi mùa thu hương cốm mới", đó là cảnh sắc quen thuộc của mùa thu Việt Nam. Mùa thu rạng rỡ, vui tươi. Tiếp theo, tác giả miêu tả cảnh mùa thu Hà Nội, nơi người dân ra đi vì nghĩa lớn. Đó là cảnh thu với vẻ đẹp thơ mộng nhưng cũng đầy buồn bã, buồn vì tưởng như bóng người đã biến mất. Buồn vì sự chia ly không muốn rời bỏ, nhưng lại phải ra đi:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Mùa thu hiện tại, đặc biệt là mùa thu sau Cách mạng tháng Tám, đang diễn ra ở chiến khu Việt Bắc, nơi đang tự do và là căn cứ của cuộc kháng chiến chống Pháp, dưới sự điều khiển của Bác Hồ và Chính phủ kháng chiến. Nguyễn Đình Thi đặt chân đến mùa thu này với niềm vui rất lớn, niềm vui của sự tự do, ít nhất là ở chiến khu này. Trong tâm trạng hạnh phúc ấy, tác giả nhìn thấy cảnh thu với sự tươi sáng, tràn đầy sức sống và âm thanh màu sắc rực rỡ, tươi vui. Bầu trời như mặc chiếc áo mới, cảnh vật như được hồi sinh, và âm thanh của cuộc sống rộn ràng, phấn khích.
Không gian mùa thu trải dài, mở rộng qua các con đường, dòng sông, đồng ruộng, và khu rừng của đất nước. Cảm hứng của Nguyễn Đình Thi trong bài "Đất nước" là cảm hứng tự hào của một nghệ sĩ tham gia vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc độc lập tự do. Trong khi đó, đoạn thơ về mùa thu Hà Nội năm 1946 có thể hiện nỗi buồn của một người phải tạm biệt quê hương để tham gia cuộc kháng chiến vì nghĩa lớn, khác với nỗi buồn trong thơ của Xuân Diệu. Cảm hứng chính của Nhà thơ vẫn là niềm vui và tự hào về đất nước, về sự độc lập và quyền tự chủ, do đó đoạn thơ về mùa thu ở chiến khu Việt Bắc phản ánh sự kiêu hãnh và tự hào.
Xét về cách viết về mùa thu, trong khi Xuân Diệu thấy một mùa thu đẹp nhưng buồn bã, thì Nguyễn Đình Thi lại thấy một mùa thu tràn đầy sức sống, âm thanh và màu sắc. Sự khác biệt này phản ánh sự thời đại chi phối hồn thơ, với cảm xúc về thời đại quyết định cảm hứng và tình thơ của nhà thơ, từ đó cũng quyết định cảnh sắc mùa thu trong thơ.
Trước cách mạng, Xuân Diệu sống trong cảnh ngộ của người dân nô lệ. Nỗi buồn của người dân mất nước đã tạo nên cách nhìn, cách cảm của thi nhân trước mùa thu. Từ sau cách mạng Xuân Diệu đã đến với đất nước bằng niềm vui, niềm tự hào nên cảnh thu cũng đã thay đổi.
Ba năm qua nay lại mùa thu tới
Mỗi lần thu tới lại mùa thu tới
Thu từ nay không thu thảm thu sầu
Mà thu sướng nhuộm màu xuân mát mát
Lá biếc xanh xanh
Trời thu bát ngát
Da tươi thịt thắm
Nở lại cùng sương
Ảnh mấy bay như múa khúc nghê thường
Nắng hạ giọng nói những điều dịu sáng.
Còn Nguyễn Đình Thi viết bài Đất nước sau cách mạng lúc nhà thơ đã là một người dân tự do, cùng nhân dân làm chủ đất nước. Thời đại mới, đã tạo nên cảm hứng mới cho nhà thơ. Vì vậy, cảnh thu trong cách nhìn, cánh cảm nhận của nhà thơ trở nên trong trẻo, tươi sáng, tràn đầy sức sống niềm vui.
Trên đây là phần trình bày bài nói của tôi về việc so sánh bức tranh mùa thu của 2 bài thơ: Đây mùa thu tới - Xuân Diệu và Đất nước - Nguyễn Đình Thi. Cảm ơn mọi người đã chú ý lắng nghe. Hi vọng nhận được sự góp ý của tất cả mọi người.
Dàn ý Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ
- Mở đầu: Giới thiệu được hai bài thơ và lí do lựa chọn để so sánh, đánh giá. Việc giới thiệu có thể được dẫn dắt theo lối trực tiếp hoặc gián tiếp; lí do trình bày có thể là lí do khách quan hay chủ quan, nhưng cần nêu được những cơ sở để so sánh.
- Triển khai:
+ Trình bày được những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai bài thơ trên một số phương diện đã xác định.
+ Đánh giá được giá trị và đóng góp của mỗi bài thơ dựa trên kết quả so sánh.
- Kết luận: Nêu ý nghĩa của việc so sánh, đánh giá trong tiếp nhận văn bản thơ.
Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - mẫu 2
Chào thầy/ cô và các bạn. Hôm nay, em xin trình bày phần so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ mà để lại cho em rất nhiều ấn tượng.
Hai nhà thơ Xuân Diệu và Huy Cận đều là những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam. Hai ông đều có những "cái tôi" riêng biệt góp phần làm nên sự thành công của tác phẩm. Điều này được thể hiện rõ qua hai bài thơ "Tràng giang" và "Vội vàng".
“Tràng Giang” là một ngọn lửa rực rỡ trong tập thơ “ Lửa thiêng” – tập thơ đầu tay của Huy Cận. Bài thơ được sáng tác vào một buổi chiều tháng 9 năm 1939, một buổi chiều buồn khi ông đạp xe trên đê sông Hồng vào mùa nước lũ. Trước dòng sông hùng vĩ và hoang vắng mùa lũ, ông mở rộng lòng mình để tâm hồn trôi nổi theo dòng nước. Cái hữu hạn của con người được đặt vào không gian bao la, “Tràng Giang” hiện lên với một nỗi buồn man mác. Bài thơ thể hiện tâm trạng một “cái tôi trữ tình” sầu đượm, cô đơn trước thiên nhiên hùng vĩ cùng những triết lí sâu xa và lòng yêu nước thầm kín.
Nhìn vào bài thơ trước hết ta thấy ngay tựa đê “Tràng Giang” vô cùng nổi bật. “Tràng Giang” nghĩa là “sông dài”. Người ta từng đi tìm hiểu về con sông trong bài thơ này của Huy Cận nhưng rồi chợt nhận ra điều này là vô nghĩa. Huy Cận không nhắc về một con sông cụ thể nào. Nó có thể là con sông Hồng mùa nước lũ khi ông đi ngang qua và viết bài thơ, nhưng cũng có thể con sông này khởi nguồn từ xa hơn, là con sông quê ông như Ngàn Sâu, Ngàn Phố, Sông Lam, Sông La hay là cả sông Hương nữa. Những con sông luôn nằm trong tiềm thức và luôn gắn bó với ông trong nỗi nhớ quê nhà. “Tràng Giang” không phải là tên sông, nó gợi lên cho người đọc một con sông u hoài trong kỉ niệm của riêng mình. Và đối với bài thơ, nó đúc kết một cách ngắn gọn nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
Những câu thơ đầu tiên đưa ta đến với những ấn tượng về cảnh sông nước bao la trong một không gian mênh mông, bát ngát:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Sự mênh mang của không gian được gợi ra qua từng lớp từng lớp sóng. Sóng gợn nhấp nhô trên dòng sông dài khiến nỗi buồn chất chồng “điệp điệp”. Từ “ điệp điệp” vang lên khiên lòng người trĩu nặng, tạo lên một âm điệu trầm buồn còn mãi đọng lại dư âm. Trước không gian rộng lớn của dòng sông ta bắt gặp hình ảnh một con thuyền xa xăm xuôi mái theo những dòng nước song song rong ruổi về cuối chân trời. Cái nhỏ nhoi của con thuyền đơn độc càng làm nổi bật hơn cái rộng dài tưởng như mênh mang của dòng sông. Hai câu thơ với nghệ thuật đặc tả và khả năng khơi gợi đã làm nổi bật lên cái tôi trữ tình của tác giả: một tâm hồn man mác cô đơn.
Hai câu thơ tiếp
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
“Thuyền về” khiền mặt sông trở lên heo hút, “nước lại sầu trăm ngả”. “Thuyền” và “nước” di chuyển trái chiều nhau như một sự chia ly xa cách. Con thuyền đơn độc, lẻ loi chỉ xuất hiện một chút trong không gian rợn ngợp rồi lại rời đi để lại nỗi buồn ngổn ngang, trăm mối tơ vò. “Nước” và “thuyền” chỉ gợi lên nỗi “sầu trăm ngả” nhưng “củi một cành khô” lại cho ta cảm giác chênh chao, heo hút đến rợn người. Hình ảnh “củi” đã gầy guộc mong manh, ở đây “củi một cành khô” lại càng thêm nhỏ bé, như “lạc mấy dòng” vào vô vọng trong những con sóng nối tiếp đến vô cùng. Cái tôi trữ tình ở đây dường như trở lên mong manh, đơn bạc giữa những sóng gió cuộc đời. Những hi vọng xa xăm, những nỗi buồn rồi những băn khoăn về lí tưởng. Chỉ bằng những hình ảnh đơn sơ nhưng câu thơ đã khơi gợi lên thân phận cô đơn của cả một kiếp người.
Đến khổ thơ thứ hai, bức tranh tràng giang mở ra với một nỗi buồn sâu lắng:
“Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vó
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Khổ thơ có thêm cảnh, thêm người nhưng nỗi buồn dường như không vơi đi mà còn lặng lẽ hơn. Nỗi buồn được gợi lên từ mặt nước, “lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu”. “Cồn cỏ” xuất hiện nhưng lại “lơ thơ” với “đìu hiu” tạo nên khung cảnh cô liêu, tịch mịch đầy tâm trạng. Làng xóm hiện ra nhưng chỉ với âm thanh xa vời “đâu tiếng làng xa”. “Chợ chiều” thường gắn với hình ảnh hiu hắt khi con người đã ra về hết, chỉ còn lại hàng quán với mái lá vắng tanh. Cảnh vật, làng xóm dường như càng làm cái tôi trữ tình cô đơn hơn, nổi bật lên khát khao trong tâm hồn của một con người mong muốn sẻ chia. Rồi nỗi buồn như lan toả hết không gian của bến bãi, mặt nước, bầu trời. “Nắng xuống” – “trời lên” hai hình ảnh vận động trái ngược làm cho không gian thêm chiều sâu. Cụm từ “sâu chót vót” chuyển đổi cảm giác khiến ta như rợn ngợp trước đất trời. Cảm xúc lướt dần để rồi đọng lại ở “bến cô liêu” như lột tả hết những cô đơn, hoang vắng, trống trải trong hồn người.
Tiếp theo:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Những cánh bèo trôi dạt dường như khéo léo ẩn dụ cho thân phận nổi trôi của một kiếp người bế tắc. Những cánh bèo này không chỉ có một mà “hàng nối hàng” , cảm giác như miên man không dứt. Hai câu thơ sau càng cho ta thấy thêm sự vô vọng, “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”, chẳng có một “niềm thân mật” nào để bám víu. Khoảnh khắc mà ánh sáng xanh của bờ bãi và nét vàng mờ nhạt xuất hiện là lúc cai tôi trữ tình chìm sâu trong nỗi buồn, những suy nghĩ mông lung.
Khép lại bài bài thơ là những nét thiên nhiên nhiên và tâm sự con người:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
“Mây cao” và “núi bạc” xuất hiện gợi lên khung cảnh thiên nhiên tráng lệ nhưng vẫn mang đầy dáng vẻ cô đơn trong bóng chiều hiu hắt. Giữa trời đất bao la chỉ có một cánh chim nhỏ chao nghiêng. Tất cả như cô đơn, lẻ loi đến tội nghiệp và con người như chìm ngập giữa trời đất bao la. Cảm giác chênh chao của cán chim lẻ bóng lại xuất hiện để nổi bật lên trong nỗi sầu là tình cảm yêu quê hương đất nước đến da diết của cái tôi trữ tình. “Lòng quê dợn dợn vời con nước”, hai chữ “dợn dợn” thật đắt, nó thể hiện được cái dợn dợn trong tâm cảnh cũng như trong tâm hồn. Câu thơ cuối gợi nhớ tới một tứ thơ Đường: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Nhưng ở Huy Cận, ông không cần phải có “khói hoàng hôn” cũng vẫn “nhớ nhà” bởi nỗi nhớ này, nỗi buồn này dường như luôn thường trực trong tâm khảm.
“Tràng Giang” bằng âm điệu trầm buồn cùng cảm xúc tinh tế đã làm nổi bật lên “cái tôi trữ tình” với một trái tim cô đơn nhưng luôn đau đau tình yêu với quê hương đất nước. Theo “Tràng Giang” ta không chỉ cảm thông với nỗi niềm của thi nhân mà còn quý trọng một tài hoa, một tâm hồn đáng trân trọng của Huy Cận.
Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới” đã mang một luồng gió mới đến văn học Việt Nam – một cái tôi mãnh liệt táo bạo đầy mê say. Trong đó, cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng mang một phong cách rất khác biệt.
Cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng trước hết là một cái tôi táo bạo, mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện qua ước muốn táo bạo và có phần vô lý trong bốn dòng thơ ngũ ngôn.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Trong lúc ta phiêu bạt chốn bồng lai cùng Tản Đà, chìm đắm trong thế giới trăng đầy mộng tưởng cùng Hàn Mặc Tử thì Xuân Diệu lại là người đã “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Chính tình yêu trần thế đã níu kéo ông với cuộc đời thay vì lựa chọn thoát tục xa rời cuộc sống như những nhà thơ khác.
Phân tích cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng, ta nhận thấy với cuộc đời, ông có một khát khao cháy bỏng mãnh liệt. Điệp ngữ “tôi muốn” kết hợp hài hòa cùng thể thơ ngũ ngôn tạo ra một tiết tấu nhanh mạnh, dứt khoát đã góp phần thể hiện khát khao thiết tha, mãnh liệt của thi sĩ. Nhịp thơ nhanh như tô đậm hơn mức độ mãnh liệt, nồng nàn của ước vọng trong tâm hồn thi sĩ.
Đó là ước muốn “tắt nắng”, “buộc gió” tưởng chừng vô lý ấy nhưng lại chứa chan một tinh thần khát khao mãnh liệt. Một ước muốn táo bạo bởi đó là ước muốn can dự vào quy luật của tạo hóa để bất tử hóa cái đẹp. Bởi cái đẹp ngàn đời vốn mỏng manh trước dòng chảy vô tình của thời gian.
Phân tích cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng, người đọc cũng nhận ra khát khao táo bạo nhưng không phải ngông cuồng, cũng không phải một phút bồng bột mong muốn thách thức tự nhiên. Bởi ông muốn “tắt nắng”, “buộc gió” là để “màu đừng nhạt mất”, để “hương đừng bay đi”. Bởi nắng sẽ làm phai màu cuộc sống, gió sẽ làm nhạt đi hương vị cuộc đời. Vì thế, Xuân Diệu như muốn níu giữ thời gian để mọi vật vẫn mãi giữ được sự xuân sắc của mình dù đó là điều không thể. Có thể nói, đây chính là một khát khao, một tình yêu cuộc sống say đắm của nhà thơ.
Trên đây là toàn bộ bài thuyết trình của em, cảm ơn thầy/ cô và các bạn đã lắng nghe. Em mong nhận được góp ý của thầy cô và các bạn về bài trình bày của mình. Em xin cảm ơn ạ!
Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - mẫu 3
Xin chào thầy cô và các bạn. Tôi là ………… Lớp …….. Trường ………………
Thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Nhà thơ Thanh Hải và nhà thơ Hữu Thỉnh cũng góp vào kho tàng thơ ca Việt Nam hai bài thơ về thiên nhiên rất hay đó là "Mùa xuân nho nhỏ" và "Sang thu". Hai bài thơ, hai cảm xúc nhưng lại chung nguồn cảm hứng và tình yêu với thiên nhiên đất nước được biểu hiện qua những hình ảnh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ.
Nếu như bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" của nhà thơ Thanh Hải viết về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước cùng những khát vọng đẹp đẽ của nhà thơ thì thi phẩm "Sang thu" của Hữu Thỉnh lại viết về khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu. Tuy cùng viết về đề tài thiên nhiên nhưng mỗi thi phẩm lại có những nét đặc sắc riêng, độc đáo.
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ viết về mùa xuân tươi đẹp xứ Huế. Ngay trong phần mở đầu bài thơ, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh mùa xuân tươi đẹp:
"Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng"
Thanh Hải đã không lựa chọn miêu tả chi tiết mùa xuân xứ Huế, ông chỉ sử dụng vài nét chấm phá để vẽ lên bức tranh mùa xuân của mình. Đó là một bông hoa nhỏ "tím biếc" "mọc " lên giữa "dòng sông xuân", đó là âm thanh chim "chiền chiện" đang ca hót líu lo giữa bầu trời cao rộng. Tất cả đều đang gợi lên hình ảnh về một mùa xuân tươi vui, rộn rã.
Ở ngay dòng thơ đầu tiên, nhà thơ đã cố ý đặt từ "mọc" lên đầu câu thơ để nhấn mạnh sự đột ngột, bất ngờ của những dấu hiệu về mùa xuân khi xuất hiện. Đóa hoa "tím biếc" phải chăng là một đóa lục bình đang trôi nhẹ trên sông Hương xanh biếc, một biểu tượng của xứ sở Huế thân yêu? Và những chú chim "chiền chiện" - kẻ báo tin của mùa xuân thì đang cất lên những tiếng hót rộn rã mừng mùa xuân đang về. Từ "ơi" được nhà thơ đặt ngay đầu câu thơ như tiếng gọi tha thiết, thân thương với những chú chim đang ca hót. Tiếng hót ấy khiến cho nhà thơ phải bồi hồi, xúc động mà trách cứ trong niềm thương mền:
"Hót chi mà vang trời"
Lời trách cứ ấy nghe thật đậm phong vị của xứ Huế. Tiếng chim trên cao gọi mùa xuân như đang cô đặc lại, lắng xuống, tạo thành những giọt mật của mùa xuân, của thiên nhiên đất trời đang rơi xuống đất. Hay phải chăng đó là những giọt mưa xuân đang phấp phới bay trong không gian ngập sắc xuân? Nhưng dù đó là gì thì cũng khiến nhà thơ Thanh Hải vô cùng xúc động, bồi hồi mà đưa bàn tay "hứng" lấy từng "giọt long lanh" đó. Động tác "hứng" của nhà thơ thật nhẹ nhàng, uyển chuyển bởi nó chứa đựng sự nâng niu, trân trọng mà ông dành cho mùa xuân. Ở đây, Thanh Hải đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, ông đã biến mùa xuân trở thành một thực thể hữu hình để cầm, nắm, chạm, nếm thử một cách thích thú.
Bức tranh thiên nhiên được nhà thơ dựng lên trong tình yêu tha thiết với thiên nhiên, muốn tận hưởng mùa xuân từ những giây phút đầu tiên. Mùa xuân trên quê hương xứ Huế của ông là những hình ảnh thiên nhiên gần gũi nhất, thân thương nhất, giản dị nhất.
Còn đối với nhà thơ Hữu Thỉnh, ông lại chọn viết về mùa thu. Bức tranh chớm thu của quê hương vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện lên với những hình ảnh thật giản dị, mộc mạc, thân thương:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Mùa thu đối với Hữu Thỉnh được gợi mở bằng những dấu hiệu thật quen thuộc: đó là hương ổi chín đang lan toả trong làn "gió se" lành lạnh, là màn sương mù bao phủ khắp xóm thôn. Ổi vốn là thức quả quen thuộc của người dân Việt Nam, nó xuất hiện để báo hiệu cho mùa thu của thiên nhiên, đất trời. Và "hương ổi" là thứ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ, để ông nhận ra sự xuất hiện đột ngột của mùa thu:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se"
Từ "bỗng" được nhà thơ đặt ở đầu câu thơ cho thấy cảm giác đột ngột, bất ngờ, ngỡ ngàng của nhà thơ khi ông chợt nhận ra mùi thơm của "hương ổi" đang lan tỏa trong không khí. Đó là dấu hiệu của mùa thu, những dấu hiệu sớm nhất, quen thuộc nhất, thêm vào đó là làn gió se lạnh khô đang bao trùm lấy không gian.
Một dấu hiệu khác báo hiệu mùa thu về đó là màn sương mù đang "chùng chình" đi qua ngõ xóm. Động từ "chùng chình" diễn tả sự chậm rãi một cách cố ý. Nhà thơ đã nhân hóa màn sương khiến nó như có linh hồn. Nó đang chậm chạp đi qua từng ngõ nhỏ, báo hiệu sự chớm thu của đất trời. Và cũng chính lúc này, nhà thơ mới giật mình, thảng thốt mà nhận ra rằng:
"Hình như thu đã về".
Hữu Thỉnh đã tinh tế nắm bắt những tín hiệu chớm thu của đất trời đồng thời ông cũng thấy những chuyển biến của thiên nhiên khi bước vào thu:
"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"
Mùa thu, thiên nhiên lại mang một vẻ đẹp thật khác biệt. Nếu như dòng sông mùa hạ cuồn cuộn chảy những nước thì giờ đây nó lại dịu lại, "dềnh dàng", chậm chạp, thong thả chảy trong êm đềm. Những chú chim nhỏ mùa hạ đã ca hót suốt mùa thì nay lại "vội vã" chuẩn bị để đi tránh rét. Hữu Thỉnh đã sử dụng biện pháp đối lập cùng hai từ láy tượng hình "dềnh dàng", "vội vã" để diễn tả sự đối lập của vạn vật khi màu thu sang.
Nhưng đặc biệt nhất trong bức tranh thiên nhiên này phải kể tới hình ảnh "đám mây mùa hạ". Đám mây ấy chẳng còn mang hơi nóng của mùa hạ nhưng cũng chưa hoàn toàn có được sự thanh thoát, nhẹ nhàng của mùa thu. Đám mây mùa hạ ấy hình như còn tiếc nuối điều gì với mùa hạ mà mới chỉ "vắt nửa mình sang thu". Đây là hình ảnh miêu tả liên tưởng nhân hoá rất độc đáo trong các tác phẩm thi ca viết về thiên nhiên của Việt Nam
Mùa thu đã sang thế nhưng đất trời vẫn còn hơi nắng. Những cơn mưa mùa hè bất chợ cũng đã dần vơi đi. Cả những tiếng sấm cũng đã dịu bớt. Tất cả đều báo hiệu một mùa thu đã sang:
"Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi"
Hai bài thơ tuy được viết trong hai hoàn cảnh khác nhau nhưng đều khắc hoạ hình ảnh của thiên nhiên cùng tình yêu thiên nhiên, đất nước tha thiết, niềm cảm hứng dạt dào với cảnh sắc quê hương. Nếu như Thanh Hải cho ta cảm nhận một mùa xuân êm đềm, rộn rã của con người trong thời kì xây dựng đất nước thì Hữu Thỉnh lại mang đến cảm nhận về một mùa thu yên bình, dân dã, quen thuộc. Cả hai thi phẩm đều mang đến cho người đọc những cảnh sắc thiên nhiên quê hương đẹp đẽ, khó quên!
Hai bài thơ Sang thu và Mùa xuân nho nhỏ là hai bức tranh thiên nhiên đầy cảm xúc của hai nhà thơ tài năng Hữu Thỉnh và Thanh Hải. Hai bài thơ đã góp phần vào những thi phẩm viết về thiên nhiên đặc sắc nhất trong thi đàn Việt Nam.
Trên đây là toàn bộ bài thuyết trình của em, cảm ơn thầy/ cô và các bạn đã lắng nghe. Em mong nhận được góp ý của thầy cô và các bạn về bài trình bày của mình. Em xin cảm ơn ạ!
Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - mẫu 4
Chào thầy/ cô và các bạn. Hôm nay, em xin trình bày phần so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ mà để lại cho em rất nhiều ấn tượng.
Như mọi người đã biết, tình yêu là đề tài muôn thuở của văn chương. Tình yêu là một loại tình cảm đặc biệt trong tâm hồn mỗi người. Sự sống của tình yêu là nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong tình yêu cũng đa sắc thái và nhiều cung bậc. Những sắc thái và cung bậc ấy được thể hiện rất đẹp qua hai trích đoạn trong Tương tư của Nguyễn Bính và Việt Bắc của Tố Hữu. Nguyễn Bính thì bày tỏ nỗi nhớ nhung trong tình yêu đôi lứa, Tố Hữu thì bày tỏ nỗi niềm da diết khôn nguôi với quê hương cách mạng biết bao nghĩa tình.
Cũng như các nhà thơ lãng mạn cùng thời, Nguyễn Bính say mê với đề tài tình yêu, nhưng tình yêu trong thơ Nguyễn Bính có một lối nói riêng. “Cái tôi” trong thơ Nguyễn Bính không nổi lên mà tan hoà vào không gian đồng quê bằng biện pháp ẩn dụ nhân hoá như trong ca dao:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Tâm trạng tương tư của chàng trai quê được bộc lộ trong bài thơ “Tương tư" thành những nhớ mong da diết, trĩu nặng. Nỗi niềm ấy được xem như một quy luật tự nhiên không thể cưỡng lại, một thứ “tâm bệnh” khó chữa của người đang yêu. Niềm mong nhớ gắn liền với khung cảnh làng quê khiến cho cả không gian như cũng nhuốm đầy nỗi tương tư.
Từ nỗi nhớ người yêu luôn thường trực, cháy bỏng trong lòng, cái tôi trữ tình suy ngẫm, liên tưởng, nhận diện nỗi nhớ. Người ta thường nói nỗi nhớ là sự sống của tình yêu, còn Nguyễn Bính thì quy kết thành bệnh. Cái bệnh kinh niên sinh ra từ tâm lí của con người, không ai nói mình yêu mà không nhớ, nhớ mà không yêu. Yêu là nhớ, đó là quy luật. Quy luật của lòng người cũng như quy luật của tự nhiên: “Gió mưa là bệnh của giời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Trời đất không thể không có gió mưa, sống không thể “không nhớ, không thương một kẻ nào”. Một sự thừa nhận thành thật, ý vị khẳng định tính tất yếu của thiên nhiên cũng như của tình yêu – lòng người.
Về nghệ thuật, nhà thơ sử dụng các hình ảnh sóng đôi: Đông - Đoài, gió - mưa, tôi - nàng… tô đậm khát vọng lứa đôi. Thể thơ lục bát cùng với các hình thức diễn đạt, cách dùng địa danh quen thuộc của ca dao dân ca khiến đoạn thơ có vẻ đẹp dung dị, duyên dáng dễ đi vào lòng người. Chất chân quê của hồn thơ Nguyễn Bính được biểu hiện rất tài tình, khiến đọc lên người ta cứ ngỡ ca dao chứ không phải thơ hiện đại, và mỗi người đều mượn nó để nói hộ lòng mình. Đó chẳng phải là những câu thơ bất hủ đó sao!
Thể thơ lục bát thấm đượm phong vị ca dao. Chất liệu ngôn từ trong bài “Tương tư" rất chân quê với những địa danh, thành ngữ gần gũi, cách tổ chức lời thơ độc đáo, sử dụng nhuần nhuyễn nhiều biện pháp tu từ: hoán dụ, nhân hoá, đối sánh, tăng tiến, khoa trương.
Như trên đã nói, tình yêu trong mỗi con người là một xúc cảm tuyệt vời, nỗi nhớ trong tình yêu cũng đa sắc thái, nhiều cung bậc. Nếu Nguyễn Bính giãi bày nỗi nhớ trong tình yêu đôi lứa thì Tố Hữu trong đoạn thơ này lại diễn tả niềm da diết khôn nguôi với Việt Bắc - quê hương cách mạng biết bao nghĩa tình:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đỉnh núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
Suốt mười lăm năm “Từ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh” cho đến lúc cuộc kháng Pháp vĩ đại thắng lợi, cán bộ, chiến sĩ cách mạng đã gắn bó cùng đồng bào Việt Bắc đánh giặc “Bát cơm chấm muối, mối thù nặng vai… Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng’’, nay chiến thắng trở về xuôi làm sao có thể quên những kỉ niệm sâu nặng như thế!
Tố Hữu đã diễn tả nỗi niềm thương nhớ day dứt, khôn nguôi của người đi kẻ ở cũng thường trực, da diết như trong nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa vậy. Nhưng nỗi nhớ không dành riêng cho một đối tượng mà nỗi nhớ dành cho tất cả đồng bào và thiên nhiên Việt Bắc. Nỗi nhớ giăng mắc khắp không gian, lung linh bao kỉ niệm: Nhớ những đêm trăng treo trên đầu núi, những buổi chiều nắng toả vàng rộng khắp trên nương, những bản làng ảo mờ trong sương khói, đặc biệt là bóng dáng của “người thương đi về”quây quần bên bếp lửa mỗi đêm đông, cảnh – người quyện hoà thanh bình, yên ả, ấm áp.
“Việt Bắc" của Tố Hữu đã thể hiện nỗi nhớ đằm thắm, sâu nặng của người cán bộ kháng chiến dành cho Việt Bắc, trong đó chan hòa tình nghĩa riêng chung. Hiện lên trong nỗi nhớ ấy là hình ảnh chiến khu Việt Bắc thân thương, với cảnh vật bình dị mà thơ mộng, với nhịp sống đơn sơ mà êm đềm, đầm ấm. Thể thơ lục bát kết hợp nhuần nhuyễn chất cổ điển và chất dân gian, nhịp điệu linh hoạt uyển chuyển, âm hưởng tha thiết, ngọt ngào. Hình ảnh thơ giản dị mà gợi cảm, cách ví von quen thuộc mà vẫn độc đáo, cách tổ chức lời thơ với phép tiểu đối, phép điệp cân xứng, khéo léo đã khiến cho độc giả vô cùng ấn tượng bởi những giá trị mà bài thơ mang lại.
Tuy ra đời ở hai thời điểm khác nhau nhưng hai bài thơ đều đều thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng, sử dụng thể thơ lục bát điêu luyện.
Song, bên cạnh đó, dù viết cùng về một đề tài nhưng giữa hai bài thơ vẫn có những điểm khác biệt. Bài thơ “Tương tư” là nỗi nhớ của tình yêu lứa đôi, gắn với không gian làng quê Bắc Bộ, vừa bày tỏ vừa “lí sự” về tương tư, với cách đối sánh táo bạo còn nỗi nhớ được thể hiện trong bài “Việt Bắc” là nỗi nhớ của tình cảm cách mạng, gắn với không gian núi rừng Việt Bắc, nghiêng hẳn về bộc bạch tâm tình, với cách ví von duyên dáng.
Thơ là tiếng tơ lòng, mỗi khi rung động trước thiên nhiên, đất nước, con người, tiếng tơ ấy lại cất lên tiếng hát của tâm hồn làm xúc động biết bao người đọc. Cảm ơn các nhà thơ đã cho ta biết yêu, biết rung động trước cái đẹp của cuộc đời qua những trang thơ.
Trên đây là toàn bộ bài thuyết trình của em, cảm ơn thầy/ cô và các bạn đã lắng nghe. Em mong nhận được góp ý của thầy cô và các bạn về bài trình bày của mình. Em xin cảm ơn ạ!
Xem thêm các bài văn mẫu 12 Kết nối tri thức hay khác:
Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 12 hay khác:
- Soạn văn 12 Kết nối tri thức (hay nhất)
- Soạn văn 12 Kết nối tri thức (ngắn nhất)
- Soạn Chuyên đề Văn 12 Kết nối tri thức
- Giải lớp 12 Kết nối tri thức (các môn học)
- Giải lớp 12 Chân trời sáng tạo (các môn học)
- Giải lớp 12 Cánh diều (các môn học)
Sách VietJack thi THPT quốc gia 2025 cho học sinh 2k7:
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT