Phân tích, đánh giá đặc sắc trong nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Những nỗi lòng tê tái
Câu hỏi Phân tích, đánh giá đặc sắc trong nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Những nỗi lòng tê tái thuộc bộ Ngữ liệu ngoài sgk dành cho học sinh lớp 11 đầy đủ câu hỏi đọc hiểu và viết có hướng dẫn chi tiết giúp Giáo viên có thêm tài liệu ôn tập cho học sinh lớp 11 học tốt môn Văn. Mời các bạn đón đọc:
Phân tích, đánh giá đặc sắc trong nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Những nỗi lòng tê tái
Chỉ từ 150k mua trọn bộ Ngữ liệu ngoài sgk lớp 11 phần Thơ văn Nguyễn Du bản word có lời giải chi tiết:
- B1: gửi phí vào tk:
1133836868- CT TNHH DAU TU VA DV GD VIETJACK - Ngân hàng MB (QR) - B2: Nhắn tin tới Zalo VietJack Official - nhấn vào đây để thông báo và nhận giáo án
Nội dung văn bản Những nỗi lòng tê tái
NHỮNG NỖI LÒNG TÊ TÁI *
(Trích Truyện Kiều)
Lầu xanh mới rủ trướng đào,
Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh. (1)
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân?
Mặc người mưa Sở, mây Tần, (2)
Riêng mình nào biết có xuân là gì?
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa.
Thờ ơ gió trúc mưa mai,
Ngẩn ngơ trăm nỗi, dùi mài một thân.
Ôm lòng đòi đoạn xa gần,
Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau!
Dặm nghìn nước thẳm non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này.
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?
Mối tình đòi đoạn vò tơ,
Giấc hương quan luống lần mơ canh dài.
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.
Đã cho lấy chữ hồng nhan,
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân.
Đã đày vào kiếp phong trần,
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
Chú thích:
* Tên đoạn trích: Do GS.TS Trần Đình Sử đặt
Đoạn trích: Đây là đoạn thơ miêu tả tâm trạng đau đớn, ê chề của Thúy Kiều sau khi buộc phải tiếp khách ở lầu xanh. Khi biết rơi vào lầu xanh, Kiều đã tự tử, nhưng không chết. Định liều chạy trốn theo Sở Khanh nhưng lại bị lừa, bị đánh đập tàn nhẫn, cuối cùng phải tiếp khách.
(1) Tống Ngọc, Trường Khanh: Tống Ngọc, người nước Sở đời Xuân Thu; Tràng Khanh tức Tư Mã Tương Như, người đời nhà Hán. Tống Ngọc và Trường Khanh, cả hai đều có tài văn học và cũng đều đẹp trai, lãng mạn, đa tình. Tác giả mượn hai nhân vật này, chủ yếu nói lên sự tiếp khách của Kiều đối với đối tượng nào. Vì sớm tối, Kiều phải tiếp khách nhưng toàn là khách phong lưu tài tử (như Tống Ngọc, Tràng Khanh), chớ không phải khách tầm thường. Và cũng do đó, nhờ Kiều mà thanh lâu của mụ Tú Bà càng nổi tiếng, càng đắt khách
(2) Mây Sở mưa Tần: tác giả Truyện Kiều mượn cái tính chất của bọn đầu cơ chính trị để nói đến cái tính chất của khách làng chơi từ xa đâu đâu đến, ý nói về khách làng chơi ở khắp nơi đến để thỏa mãn thú vui và thanh toán sòng phẳng cho Tú Bà.
Câu hỏi: Anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích, đánh giá đặc sắc trong nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Những nỗi lòng tê tái trên.
Hướng dẫn trả lời:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích, đánh giá đặc sắc trong nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Những nỗi lòng tê tái trên.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Phân tích, đánh giá đặc sắc trong nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Những nỗi lòng tê tái trên.
* Thân bài: - Sau đây là một hướng gợi ý (Tham khảo bài viết của GS.TS Trần Đình Sử)
1. Hoàn cảnh, không khí nơi Kiều bị bán gả vào lầu xanh:
- Kiều là một cô gái đẹp, cho nên ngày tiếp khách của nàng trở thành ngày hội của lầu xanh đối với mọi khách làng chơi:
Lầu xanh mới rủ trướng đào,
Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.
Một không khí thật là náo nhiệt, ồn ào, bận rộn, đúng như một cảnh làm ăn rất thịnh vượng nơi thị thành. Nhưng đó chỉ là bề ngoài, nó hoàn toàn tương phản với những nỗi lòng tê tái của nhân vật. Nguyễn Du rất biết khai thác các tương phản để miêu tả nỗi lòng, biết phân tích sự khác biệt bề ngoài và bề trong. Phải hiểu cái bề trong tâm hồn mới hiểu được phẩm giá của Kiều.
Cả đoạn thơ này tác giả không miêu tả cảm xúc của Thúy Kiều trong một thời điểm nào, một buổi nào, một ngày nào, mà miêu tả một tâm trạng triền miên trong chuỗi ngày tiếp khách. Ngày tháng chỉ là một sự chồng chất và kéo dài. Nỗi lòng Kiều hiện lên những lúc vắng vẻ, khi xong việc tự đối diện với chính mình. Đó là nỗi đau thầm kín đằng sau các hoạt động tiếp khách. Ở đây sự miêu tả kết hợp với thuật theo bút pháp tự (kể) tình. Tác giả lần lượt kể và tả những nỗi lòng tê tái.
2. Diễn biến tâm trạng của Kiều
- Thứ nhất là nỗi thương thân, xót thân, tiếc thân
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân?
Mặc người mưa Sở, mây Tần,
Riêng mình nào biết có xuân là gì?
Hai tiếng “giật mình” rất hay, nó nói lên cái thần của con người những lúc ngẫm lại những thay đổi quá lớn. Ba chữ “mình” trong một câu nói lên sự cùng cực cô đơn: mụ chủ chỉ biết tiền, khách chơi chỉ biết sắc, ai biết cho một con người tan nát ?! Nổi lên trên hết là sự nuối tiếc một phẩm giá bị giày xéo. Hình ảnh “phong gấm rủ là” nói lên hình ảnh của tấm thân vàng ngọc, được khoác áo gấm, rủ bức là, tức tấm thân bọc trong nhung lụa, quý báu, thế mà nay như hoa giữa đường, ai qua lại cũng xéo lên tàn nhẫn!
- Thứ hai là ghê tởm chính bản thân mình: con người khuê các vốn kín đáo, e thẹn, nay đã thành “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường”. “Bướm chán ong chường” không phải là nói khách chơi chán chường Kiều, mà nói chính Kiều chán chường bản thân mình, sao lại trở thành con người tiếp khách trơ trẽn, vô liêm sỉ như thế được? Từ đây Kiều chỉ sống như một món hàng, một thứ đồ chơi, không sống như một con người nữa. Nhiều sách chép câu “Riêng mình nào biết có xuân là gì” thành “Những mình nào biết có xuân là gì”. Chữ “những” có lẽ đúng hơn, hợp hơn. Đó là “những như mình”, như loại mình… bao hàm cái ý chán mình ở trong ấy.
- Thứ ba là nỗi buồn và bẽ bàng:
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu.
Cảnh quả là rất nên thơ, mà lòng nàng ủ dột:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa.
Cảnh quả là vui thú, tao nhã, phong lưu, nhưng đối với Kiều chỉ là vui gượng : “Ai tri âm đó, mặn mà với ai” ? Đó chẳng qua là các trò chơi để giết thì giờ, không mảy may ý nghĩa.
- Thứ tư là sự cô đơn, đau đớn một mình:
Thờ ơ gió trúc mưa mai,
Ngẩn ngơ trăm nỗi, dùi mài một thân.
Những nỗi lòng thương thân, xót thân, chán mình, buồn khổ cô đơn, vui gượng gạo như thế đã chứng tỏ mạnh mẽ Kiều là một con người có phẩm giá, không phải người tà dâm, lấy việc tiếp khách làm vui.
- Nhưng Kiều không chỉ đau cho mình. Nàng đau đớn thương xót người thân. Nàng là người con có hiếu, có nghĩa, có tình, cho nên:
Ôm lòng đòi đoạn xa gần,
Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau!
Trước hết là nàng nhớ cha mẹ ngày một già, thương cha mẹ không có người chăm nom. Nhưng thương nhất là câu này :
Dặm nghìn nước thẳm non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này.
Cha mẹ bao giờ cũng mong con hạnh phúc, gửi gắm hy vọng vào con, thế mà thân phận con đã thay đổi ô nhục, cha mẹ xa xôi không biết mà đau lòng !
- Thứ hai là thương người tình và mong em gái thay mình lấy chàng:
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?
- Cuối cùng là nỗi lòng nhớ về quê hương của người con lưu lạc:
Mối tình đòi đoạn vò tơ,
Giấc hương quan luống lần mơ canh dài.
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.
Nhà thơ đã hai lần nhắc đến từ “đòi đoạn” – nỗi đau tan nát. Có lẽ nói những nỗi lòng tan nát hợp hơn là những nỗi lòng tê tái chăng ? Trong nỗi lòng Kiều, nổi lên tình cảm đau đớn vì tha hương lưu lạc và cảm giác thời gian kéo dài nặng nề vô nghĩa.
- Cuối cùng, kết thúc đoạn thơ này là một tình cảm đay nghiến số phận, oán trách số phận, bề ngoài có vẻ cam chịu, mà bên trong là một sự lên án bất công của tạo hóa :
Đã cho lấy chữ hồng nhan,
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân.
Đã đày vào kiếp phong trần,
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!
Sao lại có cái thứ cân bằng lạ lùng như vậy? Sao lại phải chịu sỉ nhục một lần như vậy? Đó chẳng phải là sự bất công vô lý của tạo hóa, của số phận hay sao?
Đoạn thơ này độc đáo nhất là việc sử dụng ngôn ngữ trong miêu tả. Nhà thơ đã dùng nhiều phép sóng đôi, nhiều tiểu đối để miêu tả thời gian kéo dài và sự việc lặp lại: cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm, sớm đưa, tối tìm, khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, khi sao, giờ sao, đòi phen, đòi phen… Hay nhất là câu :
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
Hết hoàng hôn này lại tiếp đến hoàng hôn khác. Chữ “đã” nói lên rằng ngày tháng của Kiều chỉ là hoàng hôn nối tiếp hoàng hôn, cơ hồ không có ban ngày. Một sự thay đổi nhỏ, “hoàng hôn” thành “hôn hoàng”, có vẻ như là khác, nhưng thực ra là giống hệt nhau! Một chuỗi dài của những ban đêm!
3. Nghệ thuật đặc sắc
- Sử dụng từ ngữ:
• Để miêu tả những cảnh tầm thường, dung tục, tác giả chỉ gợi qua các cụm từ được cấu tạo đặc biệt:
+ bướm lả ong lơi
+ lá gió cành chim
+ bướm chán, ong chường
+ mưa Sở, mây Tần
+ gió tựa, hoa kề
Nếu nói ong bướm lả lơi thì có thể chỉ việc xảy ra một lần. Đảo lại thành ra nhiều lần. Bướm chán, ong chường cũng thế. Lá gió cành chim, gió tựa hoa kề đều chỉ các sự trăng gió, nhưng cách nói mới lạ và đa dạng, lại tao nhã.
• Để thể hiện cảm thức lưu lạc nhà thơ cực tả sự xa xôi:
+ Dặm nghìn, nước thẳm, non xa…
+ Xa xôi ai có thấu tình chăng ai.
+ Song sa vò võ phương trời…
Nguyễn Du không chỉ kể, tả mà còn gợi, tạo cảm giác cho người đọc. Đây là đoạn văn tài hoa, tiêu biểu cho nghệ thuật tả tâm trạng của Truyện Kiều.
* Kết bài:
- Khái quát vấn đề nghị luận.
Bài văn tham khảo
Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới – đã để lại cho đời kiệt tác Truyện Kiều, một đỉnh cao của văn học trung đại Việt Nam. Trong thiên truyện ấy, đoạn trích “Những nỗi lòng tê tái” là một trong những phần đặc sắc nhất, miêu tả sâu sắc tâm trạng đau đớn, ê chề của Thúy Kiều sau khi bị đẩy vào chốn lầu xanh. Qua đó, người đọc cảm nhận được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc cùng bút pháp nghệ thuật tài hoa của Nguyễn Du.
Trước hết, đoạn trích mở ra không khí phồn hoa giả tạo nơi lầu xanh – nơi Kiều bị buộc tiếp khách. Những câu thơ đầu miêu tả cảnh náo nhiệt, xô bồ:
“Lầu xanh mới rủ trướng đào,
Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.”
Cảnh tiếp khách tấp nập “bướm lả ong lơi”, “cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” khiến nơi lầu xanh như một “ngày hội” của bọn làng chơi. Bề ngoài là sự xa hoa, rộn rã, nhưng ẩn sâu trong đó là một địa ngục tinh thần. Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng nghệ thuật tương phản giữa cảnh náo nhiệt bên ngoài và nỗi tê tái bên trong để làm nổi bật bi kịch của Kiều – thân em bị đày đọa, phẩm giá bị chà đạp. Tác giả không miêu tả trong một khoảnh khắc cụ thể mà dựng nên tâm trạng triền miên, kéo dài trong chuỗi ngày nhục nhã.
Diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều được Nguyễn Du khắc họa qua nhiều cung bậc. Trước hết là nỗi thương thân, xót thân:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.”
Ba chữ “mình” liên tiếp diễn tả sự cô đơn cùng cực, khi không ai thấu hiểu, chỉ còn tự thương lấy chính mình. Kiều tiếc cho một kiếp người từng “phong gấm rủ là” nay “tan tác như hoa giữa đường”. Nàng ghê tởm chính thân phận bị vấy bẩn, chán chường trước cảnh “bướm chán, ong chường”. Hình ảnh “hoa giữa đường” – biểu tượng cho sự dập vùi, phũ phàng của số phận – là lời tố cáo xã hội tàn nhẫn đã chôn vùi phẩm giá người phụ nữ.
Nỗi đau trong Kiều không chỉ dừng lại ở thân phận cá nhân mà còn mở rộng thành nỗi nhớ thương gia đình, người yêu, quê hương:
“Dặm nghìn nước thẳm non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này.”
Nỗi nhớ nhà, nhớ người thân, cùng cảm giác xa xôi cách trở khiến Kiều thêm vò võ, cô độc. Hai câu thơ “Song sa vò võ phương trời / Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng” gợi cảm giác thời gian triền miên trong mỏi mệt, ngày tháng như chỉ còn là chuỗi hoàng hôn kéo dài vô tận. Cuối đoạn, tiếng oán than bật lên:
“Đã cho lấy chữ hồng nhan,
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân.”
Đó không chỉ là lời than thân mà còn là tiếng nói phản kháng, tố cáo sự bất công của định mệnh và xã hội đã biến “chữ hồng nhan” thành lời nguyền nghiệt ngã.
Về nghệ thuật, Nguyễn Du đã vận dụng bút pháp bậc thầy trong miêu tả nội tâm. Các hình ảnh ước lệ, ẩn dụ như “bướm lả ong lơi”, “lá gió cành chim”, “gió tựa hoa kề”, “mưa Sở mây Tần” vừa gợi cảnh trăng hoa, vừa giữ được sự tế nhị, tao nhã, không dung tục. Việc dùng nhiều phép sóng đôi, tiểu đối (“khi tỉnh rượu, lúc tàn canh”; “đòi phen gió tựa hoa kề”; “nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”) đã diễn tả sự lặp lại tẻ nhạt, triền miên của kiếp sống lầu xanh. Cách vận dụng ngôn ngữ tinh luyện, nhịp thơ linh hoạt, giọng điệu trầm buồn, thấm thía làm nên sức gợi cảm mãnh liệt của đoạn trích.
Tóm lại, “Những nỗi lòng tê tái” là một đoạn thơ đặc sắc bậc nhất của Truyện Kiều, thể hiện sâu sắc nỗi đau thân phận và khát vọng phẩm giá của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bằng nghệ thuật miêu tả nội tâm tinh tế và ngôn từ tài hoa, Nguyễn Du đã khắc họa thành công hình tượng Thúy Kiều – người con gái đẹp, tài hoa nhưng bất hạnh, đồng thời gửi gắm tư tưởng nhân đạo lớn lao: thương người, trân trọng con người và lên án mọi thế lực chà đạp nhân phẩm con người.
Xem thêm các câu hỏi Đọc hiểu và Viết trong văn bản Những nỗi lòng tê tái chọn lọc, hay khác:
Xem thêm bộ ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 11 phần Thơ văn Nguyễn Du chọn lọc, hay khác:
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k11 (2026):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Đề thi lớp 1 (các môn học)
- Đề thi lớp 2 (các môn học)
- Đề thi lớp 3 (các môn học)
- Đề thi lớp 4 (các môn học)
- Đề thi lớp 5 (các môn học)
- Đề thi lớp 6 (các môn học)
- Đề thi lớp 7 (các môn học)
- Đề thi lớp 8 (các môn học)
- Đề thi lớp 9 (các môn học)
- Đề thi lớp 10 (các môn học)
- Đề thi lớp 11 (các môn học)
- Đề thi lớp 12 (các môn học)
- Giáo án lớp 1 (các môn học)
- Giáo án lớp 2 (các môn học)
- Giáo án lớp 3 (các môn học)
- Giáo án lớp 4 (các môn học)
- Giáo án lớp 5 (các môn học)
- Giáo án lớp 6 (các môn học)
- Giáo án lớp 7 (các môn học)
- Giáo án lớp 8 (các môn học)
- Giáo án lớp 9 (các môn học)
- Giáo án lớp 10 (các môn học)
- Giáo án lớp 11 (các môn học)
- Giáo án lớp 12 (các môn học)


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

