220+ Ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 (chọn lọc, hướng dẫn chi tiết)

Trọn bộ trên 220 ngữ liệu ngoài chương trình sgk lớp 12 môn Ngữ văn đầy đủ câu hỏi đọc hiểu và viết có hướng dẫn chi tiết giúp Giáo viên có thêm tài liệu ôn tập cho học sinh ôn thi Văn Tốt nghiệp THPT đạt kết quả cao. Mời các bạn đón đọc:

220+ Ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 (chọn lọc, hướng dẫn chi tiết)

Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Thơ Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Truyện Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Kí Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Kịch Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Văn bản nghị luận Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Văn bản thông tin

Chỉ từ 150k mua trọn bộ Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 mỗi phần bản word có lời giải chi tiết:

Quảng cáo

Tài liệu ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 gồm: Thơ; Truyện; Kịch; Kí; Văn bản nghị luận; Văn bản thông tin:

Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Kịch

Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Văn bản nghị luận

Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Văn bản thông tin

Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Thơ

Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Truyện

Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Kí

Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Thơ Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Truyện Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Kí Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Kịch Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Văn bản nghị luận Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Văn bản thông tin

1. Ngữ liệu 1:

1.1. Văn bản ngữ liệu

VŨ NHƯ TÔ (Trích)

[Giới thiệu: Vở kịch Vũ Như Tô lấy bối cảnh lịch sử Triều Lê đang trên đà suy tàn. Vũ Như Tô là người thợ tài hoa, ham thích kiến trúc. Ông có khát vọng muốn xây cho đất nước một toà lầu tráng lệ, trường tồn với thời gian. Tuy nhiên, khi được giao nhiệm vụ xây Cửu Trùng Đài cho vua Lê Tương Dực, Vũ Như Tô đã kiên quyết từ chối vì không muốn phục vụ hôn quân. Dù bị ép buộc, Vũ (Vũ Như Tô) vẫn thà chết chứ không chịu khuất phục nhưng người cung nữ có tên Đan Thiềm khuyên Vũ nhân đó mà xây đài, thoả mãn đam mê nghệ thuật của mình. Vũ nghe theo và dốc hết tâm huyết xây dựng Cửu Trùng Đài. Toà lầu này xây lên càng cao, càng tốn tiền của, xương máu của nhân dân. Vũ Như Tô bị nhân dân căm ghét. Lợi dụng mâu thuẫn ấy, Quận công Trịnh Duy Sản dấy binh, lôi kéo thợ làm phản giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm và thiêu huỷ Cửu Trùng Đài.

Phần văn bản dưới đây trích từ Hồi I, Lớp VII của vở kịch, kể về cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Đan Thiềm và Vũ Như Tô.]

Đan Thiềm: - Trời xui khiến tôi gặp ông ở chốn này. Thực là duyên kì ngộ.

Vũ Như Tô: - Tôi là một kẻ quê mùa, không biết những nhời mỉa mai bóng gió.

Đan Thiềm: - Đây là thực tình. Ông đừng nghi kị. Chính tôi đang muốn gặp ông để nói chuyện.

Vũ Như Tô: - Hỏi chuyện tôi! Để làm gì? Các người không thể nào hiểu được chuyện tôi, các người nông nổi...

Đan Thiềm: - Ông mới gặp tôi, lấy cớ gì mà bảo tôi nông nổi?

Vũ Như Tô: - Người ăn chơi thì đều nông nổi.

Đan Thiềm: - Sao ông bảo tôi là người ăn chơi?

Vũ Như Tô: - Cung nữ đều là tuồng ăn chơi. Huống chi trông quầng mắt thâm kia, tôi đoán chắc là người trong tuý hương mộng cảnh.

Đan Thiềm: - Ông nhầm lắm. Đôi mắt thâm quầng này là do những lúc thức khi người ngủ, khóc khi người cười, thương khi người ghét.

Vũ Như Tô: - Ủa? Bà nói như một người đồng bệnh.

Đan Thiềm: - Chính là một người đồng bệnh, nên chưa biết ông, tôi đã ái ngại cho ông. Tài làm luỵ ông, cũng như nhan sắc phụ người.

Vũ Như Tô: - Thực mang tội với bà. Xin cho nghe chuyện.

Đan Thiềm: - Ông tạm ngồi xuống cái đôn kia cũng được. Ông có mỏi không? Rõ khổ. Tài bao nhiêu luỵ bấy nhiêu! Gông xích, trông ông tiều tuỵ quá, tôi lại càng thương số phận tôi. Tôi bị tuyển vào cung từ năm 17 tuổi. Hồi ấy, tôi đã có người dạm hỏi. Tôi bị giam trong cung ngày ngày bạn với cảnh già. Rồi từ đấy đến nay, ngót 20 năm tôi chỉ đóng vai thị nữ hầu hạ từ vua cho đến các phi tần, nhiều kẻ kém cả tài lẫn sắc.

Vũ Như Tô: - Tôi không ngờ lại được biết một đời cung oán nhãn tiền.

Đan Thiềm: - Thân tôi không đáng kể đã đành, nhưng còn ông?

Vũ Như Tô: - Cũng là thân không đáng kể.

Đan Thiềm: - Sao lại không đáng kể? Hữu tài tất hữu dụng.

Vũ Như Tô: - Cảnh ngộ chúng tôi có khác chi cảnh ngộ bà? Có phần khổ nhục hơn nữa. Chế độ thì nghiệt ngã vô lí: nhà không cho làm cao, áo không cho mặc đẹp. Ai xây một kiểu nhà mới khả quan, thì lập tức kết vào tội lộng hành đem chém. Thành thử không ai dám vượt ngoài khuôn sáo nghìn xưa, nghề kiến trúc đọng lại như một vũng ao tù. Người có tài không được thi thố đành phải tiến về mặt tiểu xảo. Mà nói ngay đến những bọn này nào họ có được yên thân. Họ phải lẩn lút, giấu giếm. Vô phúc mà triều đình biết, thế là gia đình tan nát. Họ bị đóng cũi giải kinh, để làm những công việc nhà vua, thân giam trong nội như một tên trọng phạm, mãi đến khi mắt mờ, tay chậm, họ mới được thải hồi nguyên quán. Triều đình còn không ban cho họ một chút bổng nhỏ để mưu sống buổi tàn niên. Cách đối đãi như thế, thì nhân tài  nhiều sao được, mà ai chịu luyện tập cho thành tài? Thậm chí người ta nói kẻ có tài đã không giúp cho gia đình, còn là một cái vạ nữa.

Đan Thiềm: - Thảo nào mà nước ta không có lấy một lâu đài nào ra hồn, khả dĩ sánh với những lâu đài Trung Quốc. Ngay cả Chiêm Thành cũng hơn ta nhiều lắm...

Vũ Như Tô: - Tôi bẩm sinh có khiếu về kiến trúc. Tôi đã vào học văn, sau bỏ văn tập nghề, nhưng tập thì tập, vẫn lo nơm nớp, chỉ sợ triều đình biết, thì vợ con ở nhà nheo nhóc, mà mình cũng không biết bao giờ được tháo cũi, sổ lồng. Vua Hồng Thuận” ngày nay càng khinh rẻ chúng tôi, cách đối đãi lại bạc ác. Chẳng qua là cái nợ tài hoa, chứ thực ra theo nghề ở ta lợi chẳng có mà nhục thì nhiều.

Đan Thiềm: - Chính vì thế mà ông càng đáng trọng.

Vũ Như Tô: - Trọng để làm gì? Tìm danh vọng chúng tôi đã chặng chọn nghề này. Đời lẩn lút...

Đan Thiềm: - Vậy thì các ông luyện nghề làm gì, luyện mà không đem ra thi thố?

Vũ Như Tô: - Đó là nỗi khổ tâm của chúng tôi. Biết đa mang là khổ nhục mà không sao bỏ được. Như bóng theo hình. Chúng tôi vẫn chờ dịp.

Đan Thiềm: - Dịp đấy chứ? Cửu Trùng Đài...

Vũ Như Tô: - Bà đừng nói nữa cho tôi thêm đau lòng. Ngày ngày, tôi thấy các bạn thân bị bắt giải kinh, người nhà khóc như đưa ma. Còn tôi, mong manh tin quan đến bắt, tôi đem mẹ già, vợ và hai đứa con nhỏ đi trốn. Được một năm có kẻ tố giác, quan địa phương đem lính tráng đến vây kín nơi tôi ở. Tôi biết là tuyệt lộ, mặc cho họ gông cùm. (Chàng rơm rớm nước mắt) Mẹ tôi chạy ra bị lính đẩy ngã, chết ngay bên chân tôi. Bọn sai nha lộng quyền quá thể. Rồi tôi bị giải lên tỉnh, từ tỉnh lên kinh, ăn uống kham khổ, roi vọt như mưa trên mình, lắm khi tôi chết lặng đi. Mẹ cháu lẽo đẽo theo sau, khóc lóc nhếch nhác, tôi càng đau xót can tràng. Cũng vì thế mà tôi thể là đánh chết chứ không chịu làm gì.”

Đan Thiềm: - Cảnh ngộ của ông thì đáng thương thực. Nhưng ông nghĩ thế thì không được.

Vũ Như Tô: - Sao vậy?

Đan Thiềm: - Không được. Vì đức Hồng Thuận sẽ bắt ông chịu cực hình và còn đem tru di chín họ nhà ông. Ông đã tu được bao nhiêu công quả mà phạm vào tội đại ác ấy?

Vũ Như Tô: - Tài đã không được trọng thì đem trả trời đất. Đó là lẽ thường. Cũng như nhan sắc....

Đan Thiềm: - Không thể ví thế được, sắc vất đi được, nhưng tài phải đem dùng.

Vũ Như Tô: - Bà đã thương tài xin giúp cho tôi trốn khỏi nơi này. Ơn đó xin...

Đan Thiềm: - Tôi giúp cũng không khó gì. Nhưng ra khỏi chốn này liệu ông có thoát hẳn được không? Hơn nữa, cái vạ tru di cửu tộc vẫn còn chờ chờ ra đó. Ông đừng tính nước ấy, không nên.

Vũ Như Tô: - Vậy bà khuyên tôi nên ở đây làm việc cho hôn quân sao?

Đan Thiềm: - Miễn là ông không bỏ phí tài trời. Ông nên lợi dụng cơ hội đem tài ra thi thố.

Vũ Như Tô: - Xây Cửu Trùng Đài?

Đan Thiềm: - Phải.

Vũ Như Tô: - Xây Cửu Trùng Đài cho một tên bạo chúa, một tên thoán nghịch, cho một lũ gái dâm ô? Tôi không thể đem tài ra làm một việc ô uế, muốn năm làm bia miệng cho người đời được.

Đan Thiềm: - Ông biết một mà không biết hai. Ông có tài, tài ấy phải đem cống hiến cho non sông, không nên để mục nát với cỏ cây. Ông không có tiền, ông không có thể dựng lấy một toà đài như ý nguyện. Chấp kinh, phải tòng quyền”. Đây là lúc ông nên mượn tay vua Hồng Thuận mà thực hành cái mộng lớn của ông... Ông khẽ tiếng. Đó là tiểu tiết. Ông cứ xây lấy một toà đài cao cả. Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi mất đi nhưng sự nghiệp của ông còn lại về muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh diện, không phải thẹn với những cung điện đẹp nước ngoài, thế là đủ. Hậu thế sẽ xét công cho ông, và nhớ ơn ông mãi mãi. Ông hãy nghe tôi làm cho đất Thăng Long này thành nơi kinh kì lộng lẫy nhất trần gian.

Vũ Như Tô: - Đa tạ. Bà đã khai cho cái óc u mê này. Thiếu chút nữa, tôi nhỡ cả. Những lời vàng ngọc tôi xin lĩnh giáo. Trời quá yêu nên tôi mới được gặp bà.

Đan Thiềm: - Tôi cũng may được gặp ông. Xin ông cố đi. Đức vua ngự tới.

(Trích Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng, NXB Sân khấu, 2006)

1.2. Bộ câu hỏi đọc hiểu và viết

1.2.1. Câu hỏi đọc hiểu

Câu 1: Trong đoạn trích trên, khi chưa hiểu nhau, Vũ Như Tô từng coi Đan Thiềm là người như thế nào?

Khi chưa hiểu nhau, Vũ Như Tô từng coi Đan Thiềm thuộc hạng người “ăn chơi”, “nông nổi”.

Câu 2: Theo đoạn trích, Vũ Như Tô có năng khiếu về lĩnh vực nào?

Theo đoạn trích, Vũ Như Tô có năng khiếu về lĩnh vực kiến trúc.

Câu 3: Câu nói nào của Đan Thiềm khiến Vũ Như Tô cảm thấy nàng “như một người đồng bệnh” với mình?

Câu nói khiến Vũ Như Tô cảm thấy Đan Thiềm như một người đồng bệnh: “Đôi mắt thâm quầng này là do những lúc thức khi người ngủ, khóc khi người cười, thương khi người ghét”.

Câu 4: Trong đoạn trích, lời nói nào của Đan Thiềm cho người đọc trực tiếp nhận xét nhân cách của Vũ Như Tô?

Trong đoạn trích, Đan Thiềm đã trực tiếp nhận xét về nhân cách của Vũ Như Tô qua câu nói: Chính vì thế mà ông càng đáng trọng.

Câu 5: Tại sao Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô đồng ý xây Cửu Trùng Đài?

Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô đồng ý xây Cửu Trùng Đài vì biết Vũ không thể trốn chạy mà không bị phát hiện, không làm liên luỵ đến gia đình. Mặt khác, muốn thoả mãn đam mê của mình, để không uổng phí tài năng, đem tài năng “cống hiến cho non sông” nhằm để lại cho đời công trình “lộng lẫy nhất thế gian”, Vũ Như Tô chỉ có cách duy nhất là lợi dụng tiền của và quyền hành của bạo chúa.

Câu 6: Bi kịch của Vũ Như Tô được thể hiện trong đoạn trích là gì?

Bi kịch của Vũ Như Tô được thể hiện trong đoạn trích là bi kịch nghề nghiệp của người nghệ sĩ tài năng nhưng sinh không gặp thời.

Câu 7: Nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích gặp những mâu thuẫn nào?

Những mâu thuẫn (đặc điểm của nhân vật bi kịch) mà Vũ Như Tô gặp phải:

- Mâu thuẫn giữa khát vọng sáng tạo và những điều kiện để sáng tạo: Vũ là người có tài, đam mê kiến trúc nhưng lại không có đủ điều kiện để xây dựng một công trình  vĩ đại, tương xứng với tài năng của mình.

- Mâu thuẫn giữa nhân cách cao cả và hoàn cảnh sống dung tục: nếu muốn sống đàng hoàng theo đúng khí tiết của mình, Vũ Như Tô phải chấp nhận uổng phí tài năng và những tai hoạ thảm khốc; nếu muốn đem tài năng ra giúp đời thì lại phải khuất thân phục vụ bạo chúa.

Câu 8: “Dịp đấy chứ? Cửu Trùng Đài...”

Đan Thiềm muốn khuyên Vũ Như Tô điều gì qua lời thoại trên?

Đan Thiềm muốn khuyên Vũ Như Tô nhận lấy cơ hội thể hiện tài năng, đó là (nhận lời vua Lê Tương Dực xây dựng) Cửu Trùng Đài - một tòa lâu đài, một công trình kiến trúc có thể giúp Vũ Như Tô bộc lộ năng lực của bản thân.

Câu 9: Anh/ chị có đồng tình với câu nói của Đan Thiềm: “Tài bao nhiêu luy bấy nhiêu” hay không? Vì sao?

Học sinh có thể trả lời theo nhiều cách nhưng cần giải thích được ý nghĩa của câu nói thể hiện quan niệm về tài mệnh tương đố trong văn học trung đại (người càng tài hoa thì càng chịu nhiều khổ luy, tai ương); bày tỏ rõ quan niệm (đồng tình/ không đồng tình/ đồng tình một phần) và giải thích rõ lí do vì sao nêu quan điểm như vậy.

Câu 10: Cảm nhận của anh/chị về tình cảm Đan Thiềm dành cho nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích (trình bày khoảng 5 - 7 dòng).

- Tình cảm Đan Thiềm dành cho nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích: thấu hiểu cảnh ngộ của Vũ Như Tô; đồng cảm với nỗi lòng, tâm sự của Vũ Như Tô; coi trọng, ngưỡng mộ, suy tôn tài năng của vị kiến trúc sư tài ba; thành thực mong muốn tài năng ấy được tỏa rạng.

- Tình cảm Đan Thiềm dành cho Vũ Như Tô là tấm lòng của người yêu cái đẹp, trọng cái tài, là tấm lòng của một tri âm, của tình tri kỉ.

1.2.2. Câu hỏi viết

Câu 1: Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) bày tỏ suy nghĩ của anh/ chị về mối quan hệ giữa hai nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm trong đoạn trích trên.

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận

+ Suy nghĩ về mối quan hệ giữa hai nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm trong đoạn trích phần Đọc hiểu.

- Hệ thống ý: Mối quan hệ giữa hai nhân vật trong đoạn trích

+ Cuộc gặp gỡ là sự đồng cảm giữa hai “người đồng bệnh” – những cá nhân có tài, có tâm nhưng bị giam hãm, éo le trong chế độ phong kiến.

+ Đan Thiềm trở thành tri âm, khích lệ Vũ Như Tô dám đem tài năng ra cống hiến, vượt lên sự bi quan, sợ hãi.

+ Vũ Như Tô từ ngờ vực đến cảm phục, biết ơn, coi Đan Thiềm là người khai sáng, giúp mình nhận ra con đường để thực hiện khát vọng.

=> Ý nghĩa:

+ Thể hiện bi kịch muôn thuở giữa nghệ thuật – khát vọng sáng tạo và đời sống – hiện thực khắc nghiệt.

+ Cho thấy sự cần thiết của tri âm, tri kỉ trong cuộc đời: tài năng chỉ nảy nở khi có người thấu hiểu và nâng đỡ.

+ Từ đó gợi suy ngẫm: con người cần biết đặt đam mê cá nhân trong mối quan hệ hài hòa với đời sống, nhân dân.

- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục

+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.

+ Thể hiện rõ suy nghĩ về mối quan hệ giữa hai nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm trong văn bản đọc hiểu.

- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:

+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.

- Sáng tạo

+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Đoạn văn tham khảo

Đoạn trích trong vở kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng đã khắc họa rõ nét mối quan hệ đặc biệt giữa hai nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm. Vũ Như Tô là người thợ tài hoa, mang trong mình khát vọng xây dựng một công trình nghệ thuật vĩ đại, song lại chịu nhiều đắng cay vì thời cuộc. Đan Thiềm, một cung nữ sống trong cảnh ngộ éo le, vẫn giữ được trái tim nhân hậu và sự trân trọng dành cho tài năng. Cuộc gặp gỡ giữa họ là sự đồng cảm của hai “người đồng bệnh” – những con người có tài, có tâm nhưng bị giam hãm trong xã hội phong kiến mục nát. Chính Đan Thiềm đã trở thành tri âm, tri kỉ, khích lệ Vũ Như Tô mạnh dạn đem tài năng ra cống hiến cho đời, khơi dậy trong ông khát vọng sáng tạo lớn lao. Nhờ đó, từ ngờ vực, Vũ Như Tô chuyển sang cảm phục, biết ơn, coi Đan Thiềm là người khai sáng. Mối quan hệ ấy không chỉ làm nổi bật bi kịch giữa nghệ thuật và đời sống mà còn nhắc nhở rằng tài năng luôn cần sự thấu hiểu và định hướng để cống hiến cho cộng đồng. Trong cuộc sống hôm nay, mỗi người cũng cần vừa nuôi dưỡng đam mê, vừa biết gắn khát vọng cá nhân với lợi ích của nhân dân, đất nước.

Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Thơ Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Truyện Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Kí Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Kịch Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Văn bản nghị luận Xem thử Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Văn bản thông tin

Xem thêm bộ ngữ liệu ngoài sách giáo khoa các lớp hay khác:

Xem thêm chuyên đề Tập làm văn và tài liệu Tiếng Việt các lớp hay khác:

Xem thêm đề thi lớp 12 các môn học có đáp án hay khác:

Đề ôn thi Tốt nghiệp (các môn học), ĐGNL, ĐGTD các trường có đáp án hay khác:

Tài liệu giáo án lớp 12 các môn học chuẩn khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Đề thi, giáo án các lớp các môn học