Phân tích nghệ thuật kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong văn bản

Câu hỏi Phân tích nghệ thuật kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong tác phẩm Nỗi buồn làng chiếu thuộc bộ Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 đầy đủ câu hỏi đọc hiểu và viết có hướng dẫn chi tiết giúp Giáo viên có thêm tài liệu ôn tập cho học sinh ôn thi Văn Tốt nghiệp THPT đạt kết quả cao. Mời các bạn đón đọc:

Phân tích nghệ thuật kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong văn bản

Xem thử

Chỉ từ 150k mua trọn bộ Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Kí bản word có lời giải chi tiết:

Quảng cáo

Nội dung tác phẩm Nỗi buồn làng chiếu

NỖI BUỒN LÀNG CHIẾU (trích)

(Tiêu Dao – Bảo Anh)

Từng suy rồi thịnh, từng có cả trăm hộ làm nghề nhưng rồi bây giờ khung dệt bụi phủ, tay người chênh chao. Nỗi niềm của làng chiếu chẳng mấy người thấu tỏ khi chỉ duy nhất một bà lão còn dệt chiếu, nhưng cũng đầy chông chênh.

Gió buồn lay đồng cói

Làng Cẩm Nê (xã Hoà Tiến, Hoà Vang, Đà Nẵng) giờ đã khác khi đời sống người dẫn khấm khá hơn rất nhiều, bao quanh vẫn là đồng lúa đang chín vàng và chon von những ngôi nhà 2 – 3 tầng rợp bóng cây xanh. Làng từng nổi tiếng với nghề dệt chiếu, có những chiếc chiếu đặc biệt dệt để tiến vua. Người làng trong câu chuyện mỗi tối, vẫn cứ nhớ về cha ông mình với câu chuyện về một chiếc chiếu hoa được tiến kinh ngày trước. Chiếu rộng 2,5 mét và dài tới 25 mét, được những người dệt chiếu lão luyện làm trong gần một tháng. Nhờ chiếc chiếu ấy, người làng đã được ban thưởng trọng hậu và sau kì tích đó, tiếng tăm chiếu Cẩm Nê đã bay đi khắp nước.

[...] Nhưng làng chiếu bây giờ dường như chỉ còn cái tên, bởi chẳng còn những lách cách thoi đưa, những sợi cói rực rỡ trong nắng, những bãi đay bãi lúc rì rào trong gió, tất cả chỉ là một thời quả vãng. Những cơn lốc của thị trường đã cuốn làng chiếu lao đao. Nào là những sản phẩm đệm, rồi chiếu nhựa, chiếu công nghiệp, thảm các loại với giá rẻ đã đánh sập cái nghề truyền thống mấy trăm năm của làng.

Quả trưa, bà Dương Thị Thông (65 tuổi) mới tất tả đạp xe về. Bà là con gái cụ Ngô Thị Thân – một nghệ nhân dệt chiếu hơn 70 năm làm nghề của làng. Bà Thông, con gái cụ, cũng là một nghệ nhân, nhưng lại là người cuối cùng còn dệt chiếu ở làng. Trước cửa, tấm biển giới thiệu sản phẩm làng nghề chiếu Cẩm Nê của bà đã bạc như cái nghề của cha ông đang lay lắt ở chính nơi này. Giờ bà Thông chỉ thi thoảng mới dệt chiếu, khi có khách đặt hàng, hay khi có đoàn du lịch tới thăm và chỉ những dịp cuối năm, khi việc nông đã vãn, việc làm thuê cũng vơi, còn lại ngày ngày bà đi phụ hồ, đi nấu đám tiệc, hay làm các công việc lặt vặt khác. Bởi, nghề gia truyền giờ không còn nuôi sống nổi thân mình, bỏ thì cũng tiếc lắm chứ! Cái nghề dệt chiếu như máu như thịt, là nghề gia truyền khi ông bà nội và cha mẹ bà cũng là những nghệ nhân dệt chiếu trong làng. Tuy trải nhiều giai đoạn thăng trầm, gia đình bà vẫn cố gắng giữ cho được nghề. Ngay từ năm 10 tuổi, bà Thông đã được cha mẹ truyền lại và cho đến nay, bà đã gắn bó với nghề hơn 55 năm qua.

Trong mạch ngầm trí nhớ, bà Thông vẫn mường tượng ra cảnh người làng từ già đến trẻ, người trồng lác, người chăm đay, người xe sợi, người nhuộm cói,... tiếng gọi tiếng cười, tiếng thoi tiếng cửu rộn ràng với cả tiếng mua bán giăng kín cả làng chiếu này. [...]

Công làm một chiếc chiếu không hề nhỏ, từ việc gặt lác, chặt đay về đem phơi, rồi nấu phẩm lên và nhúng sợi lác vào, nhúng từng nắm một và mang phơi nắng. [...] Mỗi khung dệt có hai người tham gia. Trong đó, một người luồn cói và người kia dùng go dệt cói vào đay cho chắc chắn. Chiếu dệt xong mang phơi khắp sân, rồi cuối cùng ghim các đầu dây đay để cho hai đầu chiếu khỏi bung ra. [...] Mỗi đôi chiếu đặt làm đặc biệt thì giá 700.000 – 800.000 đồng, tương đương với chiếu trúc làm máy. Sau khi trừ tiền thuê nhân công và nguyên vật liệu thì gần như không còn một đồng lời. Do không có nguồn nguyên liệu tại chỗ, người làng chiếu phải đặt mua sợi cói từ địa phương khác, lấy công phơi, nhuộm cói, dệt chiếu làm lời. Mỗi chiếc chiếu thủ công thông thường được bán với giá khoảng 250.000 300.000 đồng. Sau khi trừ các khoản chi phí, số tiền bán được có khi cũng không đủ trang trải cuộc sống. Bởi vậy, cái nghề cứ dần lụi đi trông thấy.

Người còn nhớ tiếng thoi đưa

Tôi đi khắp làng, ngang qua những xóm Đùng, xóm Đồng Khánh, xóm Bến Đò, xóm Bến Bắc, xóm Dinh, xóm Làng,... chẳng còn vang tiếng loạch xoạch của người làm chiếu nữa. Nhiều người già trong làng cũng đau đáu với cái nghề của cha ông. Nhưng, đành chịu. Cuộc sống của những người làm chiếu rơi vào khó khăn, người làng lần lượt bỏ nghề, những khung dệt dần đóng bụi. “Cách đây 5 – 7 năm, sau nhiều năm cất giữ với ước mong hồi sinh làng nghề, nhiều nhà đành phá khung dệt vì chật nhà. Người làng cái tay không còn quen đưa thoi, bàn chân không còn quen dập, con mắt không còn quen nhìn màu nhuộm nữa. Đau lòng lắm!”, bà Ngô Thị Mua (66 tuổi, trú thôn Cẩm Nê), người phụ làm chiếu với bà Thông bộc bạch.

Còn bà Thông gắn bó với nghề hơn 50 năm, trải qua biết bao những thăng trầm cùng khung dệt, bà Thông vẫn không nỡ rời xa. Ngày trước cả làng có khoảng 200 hộ nhưng hộ nào cũng dệt chiếu mưu sinh. Khung cảnh làng quê nhộn nhịp lắm. Còn bây giờ, gần 700 hộ dân mà chỉ còn mình bà Thông bám trụ. Nguyện vọng duy nhất của bà là giữ nghề cho đến khi nằm xuống. Không làm thường xuyên nữa nhưng cần thì vẫn dệt chiếu để giữ lấy thương hiệu làng nghề. Dù vậy, tuổi đã cao, thỉnh thoảng bà Thông mới ngồi vào khung dệt. Chiếc khung dệt hầu như nằm lặng lẽ ở góc sân mà nhớ bàn tay đưa thoi.

(Trích Nỗi buồn làng chiếu, https://antg.cand.com.vn/Phong-su/noi-buon-lang- chieu-i733372/, 06/06/2024)

Câu hỏi: Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích nghệ thuật kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong văn bản “Nỗi buồn làng chiếu” của Tiêu Dao – Bảo Anh.

Hướng dẫn trả lời:

Quảng cáo

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: nghệ thuật kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong văn bản “Nỗi buồn làng chiếu” của Tiêu Dao – Bảo Anh.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tiêu Dao – Bảo Anh với phóng sự ký giàu chất trữ tình.

- Khái quát vấn đề: “Nỗi buồn làng chiếu” đặc sắc ở nghệ thuật kết hợp hài hòa tự sự (ghi chép sự kiện, số liệu, câu chuyện) và trữ tình (cảm xúc, hoài niệm, xót xa).

* Thân bài:

1. Yếu tố tự sự (ghi chép, kể, phản ánh hiện thực):

Quảng cáo

- Ghi chép trung thực về làng Cẩm Nê: từng nổi tiếng với nghề dệt chiếu, nay chỉ còn lại bà Thông duy trì.

- Cung cấp chi tiết cụ thể: số hộ dệt chiếu xưa và nay, quy trình dệt chiếu, giá bán, sự cạnh tranh của chiếu công nghiệp, đời sống khó khăn của người thợ.

- Câu chuyện về những người làng: bà Thông, bà Mua – hình ảnh chân thực, đời thường.

⟶ Tạo tính xác thực, khách quan cho tác phẩm ký.

2. Yếu tố trữ tình (cảm xúc, suy tư, hoài niệm):

- Giọng văn giàu cảm xúc, gợi nỗi buồn: “khung dệt bụi phủ, tay người chênh chao”, “chiếc khung dệt nằm lặng lẽ ở góc sân mà nhớ bàn tay đưa thoi”.

- Nỗi tiếc nuối quá khứ vàng son: chiếu Cẩm Nê từng tiến vua, nay chỉ còn trong hoài niệm.

- Xót xa, cảm thông với bà Thông – người nghệ nhân cuối cùng giữ nghề.

⟶ Gợi đồng cảm sâu xa trong lòng người đọc.

3. Nghệ thuật kết hợp tự sự – trữ tình:

- Tự sự là khung xương, giúp tái hiện hiện thực khách quan.

Quảng cáo

- Trữ tình thổi hồn vào sự kiện, tạo chiều sâu cảm xúc.

- Sự hòa quyện này khiến văn bản vừa có giá trị tư liệu, vừa giàu giá trị nhân văn, khơi dậy ý thức bảo tồn văn hóa truyền thống.

* Kết bài:

- Khẳng định: Sự kết hợp tự sự và trữ tình là thành công nghệ thuật của “Nỗi buồn làng chiếu”.

- Mở rộng: Văn bản gợi cho thế hệ hôm nay trách nhiệm giữ gìn di sản văn hóa dân tộc.

Bài văn tham khảo

“Nỗi buồn làng chiếu” của Tiêu Dao – Bảo Anh là một thiên ký đặc sắc viết về làng nghề dệt chiếu Cẩm Nê (Đà Nẵng). Nếu yếu tố hiện thực làm cho tác phẩm có sức nặng về thông tin, thì yếu tố cảm xúc lại giúp nó chạm đến trái tim người đọc. Thành công nổi bật của văn bản chính là nghệ thuật kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự và trữ tình, khiến câu chuyện về một làng nghề thất truyền trở thành nỗi niềm chung của nhiều thế hệ.

Trước hết, yếu tố tự sự được thể hiện qua việc ghi chép sự kiện, phản ánh chân thực hiện trạng nghề chiếu Cẩm Nê. Tác giả tái hiện hành trình từ “thời vàng son” –từng dệt chiếu tiến vua, chiếu khắp làng rộn tiếng thoi đưa, đến hiện tại chỉ còn một mình bà Thông âm thầm bám nghề. Văn bản đưa ra nhiều chi tiết cụ thể: làng từng có hàng trăm hộ làm nghề, nay còn lại một nghệ nhân cuối cùng; quy trình dệt chiếu tỉ mỉ, công phu; giá chiếu thủ công không cạnh tranh nổi với sản phẩm công nghiệp. Câu chuyện về bà Thông, bà Mua hay những khung dệt phủ bụi đã cung cấp cho người đọc những tư liệu sống động, tạo tính xác thực cao. Đây là phẩm chất không thể thiếu của thể ký.

Bên cạnh tự sự, văn bản còn đậm chất trữ tình, thể hiện qua cảm xúc tiếc nuối, xót xa, day dứt. Những câu văn như “khung dệt bụi phủ, tay người chênh chao”, “chiếc khung dệt nằm lặng lẽ ở góc sân mà nhớ bàn tay đưa thoi” không chỉ miêu tả hiện thực mà còn chứa đựng một nỗi buồn man mác. Đó là nỗi buồn về sự mai một của một nghề truyền thống, nỗi thương cảm dành cho người nghệ nhân cuối cùng vẫn cố níu giữ nghề tổ. Đồng thời, tác giả khơi dậy hoài niệm về một thời vang bóng khi chiếu Cẩm Nê từng là niềm tự hào của quê hương. Chính cảm hứng trữ tình đã khiến phóng sự này vượt ra ngoài một bản ghi chép khô khan, trở thành tiếng lòng đầy nhân văn.

Sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình chính là điểm độc đáo của “Nỗi buồn làng chiếu”. Tự sự giúp tác phẩm đứng vững trên hiện thực, còn trữ tình đem lại sức lay động, khơi gợi đồng cảm. Nếu chỉ có tự sự, tác phẩm sẽ khô cứng; nếu chỉ có trữ tình, tác phẩm dễ mất đi độ tin cậy. Ở đây, cả hai yếu tố hòa quyện, làm nổi bật thông điệp: nghề truyền thống không chỉ là kế sinh nhai, mà còn là di sản văn hóa cần được bảo tồn.

Có thể nói, bằng bút pháp kết hợp tự sự và trữ tình, Tiêu Dao – Bảo Anh đã để lại một áng ký giàu sức gợi, khiến người đọc không chỉ hiểu hơn về nghề chiếu Cẩm Nê mà còn lắng lại với nhiều trăn trở về việc giữ gìn giá trị văn hóa dân tộc. “Nỗi buồn làng chiếu” vì thế không chỉ là nỗi niềm riêng của một làng quê, mà còn là lời nhắc nhở đầy tha thiết đối với hôm nay và mai sau.

Xem thêm các câu hỏi Đọc hiểu và Viết trong tác phẩm Nỗi buồn làng chiếu chọn lọc, hay khác:

Xem thêm bộ ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 phần Kí chọn lọc, hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Đề thi, giáo án các lớp các môn học