Viết một bài văn nghị luận phân tích truyện ngắn Đá trổ bông của Nguyễn Ngọc Tư

Câu hỏi Viết một bài văn nghị luận phân tích truyện ngắn Đá trổ bông của Nguyễn Ngọc Tư thuộc bộ Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 đầy đủ câu hỏi đọc hiểu và viết có hướng dẫn chi tiết giúp Giáo viên có thêm tài liệu ôn tập cho học sinh ôn thi Văn Tốt nghiệp THPT đạt kết quả cao. Mời các bạn đón đọc:

Viết một bài văn nghị luận phân tích truyện ngắn Đá trổ bông của Nguyễn Ngọc Tư

Xem thử

Chỉ từ 150k mua trọn bộ Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Truyện bản word có lời giải chi tiết:

Quảng cáo
Cài đặt app vietjack

Nội dung truyện Đá trổ bông

ĐÁ TRỔ BÔNG

(Nguyễn Ngọc Tư(1))

Khờ, thằng nhỏ gánh nước đi đằng trước tôi, đang bốc khói. Bằng mắt thường cũng thấy một làn hơi mỏng bả lả gợn quanh nó, nhất là từ đôi ống quần ướt mèm. Nước trong thùng ở hai đầu quang gánh dù không sánh ra chút nào, nhưng cứ nghĩ lên đến đỉnh núi chắc chỉ còn lưng lửng, vì nước bốc hơi. Mình thì có hơn gì, tôi nghĩ, cũng sắp bốc cháy tới nơi rồi…

[…]

Năm Khờ chín tuổi, mẹ dắt nó lên ngọn núi Trời này, bảo ngồi đó đợi đá trổ bông mẹ lên đón. Rồi bà mẹ trẻ xuống núi, biệt dạng. Chị chủ quán nước ngay bên sườn núi vẫn còn nhớ gương mặt cô gái đó, “trẻ măng, đem con đi bỏ mà mặt tỉnh bơ, trửng giỡn(2) với mấy thằng kiếm củi”. Chắc là sớm làm mẹ đơn thân, không mang vác nổi thằng nhỏ khờ căm đặt đâu ngồi đó. Chắc là ngủ quên trên cỏ rồi đẻ Khờ, như những bà mẹ Việt cổ xưa vẫn cấn bầu(3) nhờ uống nước trong gáo dừa, ướm chân vào dấu chân lạ.

Thằng nhỏ từng có cái tên tử tế, nhưng người xóm núi quên mất rồi. Nói cho cùng, làm gì có tên nào hợp với nó, bằng tên Khờ. Trong thân xác thằng con trai sắp ba mươi, là một trí khôn của trẻ con năm bảy tuổi. Thời gian không làm mai một cái niềm tin rồi đá trổ bông, mẹ đón về.

Sống nhờ chén cơm của cư dân triền núi, nhưng Khờ chưa bao giờ làm họ tiếc vì đã nuôi dưỡng mình. Nhờ chi thằng nhỏ cũng làm, và nặng nhọc cỡ nào cũng không than vãn. Mưa nó đi cọ rửa những bậc đá đóng rêu, che giúp mái nhà ai đó, cõng bà Chín Sầu Đâu đi hốt thuốc nam chữa đau khớp, đón thằng Đen kẹt ở trường trong giông gió. Hạn qua nó kiếm củi phơi khô chất đầy miễu(4) hoang, cả xóm xài mút mùa không hết. Mùa khô nào họ cũng uống nước mưa một tay Khờ gánh, từ ngôi chùa gần chân núi Xanh.

Suốt ba chục năm, duy nhất một lần Khờ rời núi chừng tuần lễ. Nó bị sét đánh. Cái đầu trọc của núi mà nó đang chăn giữ, không hiểu sao hay bị sét xuống thăm, đến cây cối không mọc nổi. Bữa đó giông khô, Khờ lom khom gom mớ thuốc nam chùa gửi phơi, thì bị sét quật lăn ra, tóc cháy xém. Câu đầu tiên nó nói khi tỉnh dậy, “đá trổ bông chưa?”

Tới ông trời còn không bứng thằng Khờ ra khỏi mớ đá đó, người núi Xanh nói. Đúng lúc Khờ lại thêm một lượt gánh nữa ngang qua chỗ quán nước tôi ngồi cùng mấy bà trong xóm, nhe răng cười. Ở Khờ không có vẻ gì bơ vơ, dù đang một mình bơi giữa đá và nắng. Ngay khi nó bị che khuất bởi một cua gắt trên đường mòn, cũng để lại cảm giác ấm áp, chắc nịch. Khó giải thích, nhất là nhân vật ấy mang trong mình một câu chuyện mủi lòng.

Hỏi mẹ Khờ có từng quay lại không, người núi Xanh nói biết đâu, giờ nhiều du khách lên đây, mặt mũi ai cũng dáo dác như ai, nhớ sao nổi người phụ nữ mấy chục năm về trước. Thằng nhỏ hay bị du khách ghẹo, họ xưng mẹ nè con, mau về với mẹ. “Mẹ tui nói chừng đá trổ bông mới lên đón, giờ có trổ xíu nào đâu”, Khờ nói. Chỉ một lời dối ầu ơ(5), nhưng với bộ não ngờ nghệch của Khờ, đã thành một thứ dây trói bền dai, buộc nó mãi trên đỉnh núi. Mẹ Khờ có ở đây, chắc gì lay chuyển được nó, đá chưa nở bông nào.

Dân núi Xanh có lần hối tiếc, khi xúm nhau thuyết phục Khờ, rằng đám đá đó đâu thể trổ bông được, sét đánh quá chừng mà, nhìn thì biết, tới cỏ còn không mọc nổi. Khờ nói luôn, vậy mấy cục đá hong bị trời đánh thể nào cũng có bông. Từ bữa đó nó leo trèo khắp núi. Lo bông đá đang trổ ở hang hốc nào đó, nơi nó chưa mò tới. Còn cả xóm thì phấp phỏng sợ nó trượt chân.

Mình mà nói núi này đá đực khó ra bông, Khờ sẽ hỏi, vậy núi nào mới có? Tôi hình dung vậy, khi ngó thằng nhỏ vừa gánh xong đôi nước cuối cùng trong ngày, đổ vào cái khạp da bò đặt ngay đỉnh trọc. Nước ấy dành cho du khách uống đỡ khát. Dù họ chỉ dùng rửa mặt, rửa chân, hắt vào người nhau cho vui.

Nắng vẫn xéo xắt, chưa chịu nguội. Tôi quay lại đúng cái chân núi mà vài tiếng đồng hồ trước mình đứng ngán ngẩm vì nắng và hồ Xanh cạn đáy. Nghĩ chắc cũng không cần trèo lên chi, quá biết trên đó có những thứ gì, lại miễu cậu miễu cô, lại những quán xá đu theo vách đá, lại bày bán mấy thứ thần dược từ cỏ cây meo mốc chớ đâu.

Nhưng Khờ xuất hiện, với đôi thùng nước treo đầu gánh, rủ khơi khơi, lên núi chơi, bông đá nay mai sẽ trổ.

(In trong Tạp chí Nhà văn và Tác phẩm, số Xuân Đinh Dậu, 2017)

(1) Nguyễn Ngọc Tư: sinh năm 1976 tại Đầm Dơi, Cà Mau; là nữ nhà văn trẻ của Hội nhà văn Việt Nam. Với niềm đam mê viết lách, chị miệt mài viết về những điều gần gũi nhất xung quanh cuộc sống của mình. Giọng văn chị đậm chất Nam bộ, là giọng kể mềm mại mà sâu cay về những cuộc đời éo le, những số phận chìm nổi. Cái chất miền quê sông nước ngấm vào các tác phẩm, thấm đẫm cái tình của làng, của đất, của những con người chân chất hồn hậu nhưng ít nhiều gặp những bất hạnh.

(2) Trửng giỡn: đùa cho vui

(3) Cấn bầu: có thai

(4)Miễu: miếu nhỏ

(5) Lời dối ầu ơ: nói cho qua

Câu hỏi: Anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích truyện ngắn “Đá trổ bông” của Nguyễn Ngọc Tư

Hướng dẫn trả lời:

Quảng cáo

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích truyện ngắn “Đá trổ bông” của Nguyễn Ngọc Tư.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Ngọc Tư: nhà văn Nam Bộ với phong cách dung dị, sâu sắc, giàu nhân văn.

- Dẫn dắt truyện ngắn “Đá trổ bông” – một câu chuyện buồn nhưng đầy tính thức tỉnh về niềm tin, tình thương và thân phận con người.

- Khẳng định vấn đề: “Truyện khắc họa thành công nhân vật Khờ – một người có số phận bất hạnh nhưng mang trong mình vẻ đẹp nội tâm cao cả, qua đó thể hiện cái nhìn nhân văn và giọng văn nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư.”

Quảng cáo

* Thân bài:

1. Nhân vật Khờ – biểu tượng của một kiếp người bất hạnh

- Về trí tuệ: Trí khôn của một đứa trẻ 5–7 tuổi trong thân xác của người đàn ông ba mươi.

- Về hoàn cảnh: Năm lên chín tuổi, bị mẹ bỏ rơi trên đỉnh núi với lời hứa “đợi đá trổ bông mẹ sẽ lên đón”.

- Về cuộc đời: Cả đời luẩn quẩn nơi núi non, sống trong chờ đợi mỏi mòn một điều không thật – đá trổ bông, mẹ trở lại.

=> Hình ảnh của những kiếp người bị bỏ quên, đơn độc và hoang hoải giữa đời.

2. Khờ – con người của những vẻ đẹp tinh thần đáng trân trọng

- Hiền lành, chất phác: Luôn vui vẻ, nhe răng cười với mọi người, không bơ vơ dù một mình giữa nắng đá.

- Tốt bụng, chăm chỉ: Gánh nước, cọ đá, chẻ củi, cõng người già… giúp đỡ xóm núi không quản mệt nhọc.

- Kiên định, kiên cường: Dù bị sét đánh vẫn không rời núi, vẫn hỏi “đá trổ bông chưa?”, vẫn tìm từng ngách đá để chắc rằng mình không bỏ sót.

Quảng cáo

- Niềm tin hồn nhiên nhưng tha thiết: Tin đá sẽ nở hoa, tin mẹ sẽ quay về – một niềm tin vừa trẻ con vừa bi hùng.

=> Khờ là hiện thân của phẩm chất lương thiện, thủy chung, của một tình yêu thương không điều kiện và đức tin không vụ lợi.

3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật và giọng văn đặc sắc

- Ngôi kể thứ nhất: nhân vật “tôi” làm cầu nối giữa người đọc và nhân vật Khờ, tạo cảm giác gần gũi, chân thực.

- Điểm nhìn đa chiều: vừa là cái nhìn cảm thông của người kể chuyện, vừa là cái nhìn thương mến của dân núi Xanh, vừa là cái nhìn vô tâm của du khách.

- Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, mang đậm chất Nam Bộ: gần gũi như giọng kể dân gian, làm tăng thêm tính chân thực và cảm xúc.

- Giọng điệu nhẹ nhàng, trầm tĩnh: không lên án, không bi lụy, nhưng để lại dư âm xót xa, day dứt.

* Kết bài:

- Khẳng định lại: Khờ là nhân vật tiêu biểu cho nghệ thuật kể chuyện giàu tính nhân văn của Nguyễn Ngọc Tư.

- Truyện ngắn không chỉ là bi kịch cá nhân, mà còn gợi suy tư về những thân phận yếu thế, những đức tin sai chỗ, những tình thương thiếu hụt trong cuộc sống hiện đại.

- Liên hệ mở rộng: “Đá trổ bông” không chỉ là giấc mộng của Khờ, mà là giấc mộng thức tỉnh lòng trắc ẩn, nhắc nhở con người đừng vô cảm với những phận đời nhỏ nhoi quanh mình.

Bài văn tham khảo

Nguyễn Ngọc Tư – cây bút Nam Bộ luôn lặng lẽ mở ra trước mắt chúng ta những cánh đồng bát ngát của ký ức và những kiếp người nhỏ nhoi – trong truyện ngắn “Đá trổ bông” đã thổi vào văn đàn đương đại một nốt lặng nghẹn ngào. Câu chuyện về Khờ – chàng trai sống vắt vẻo trên ngọn núi Trời với lời hứa “chờ đá trổ bông mẹ sẽ về” – không chỉ gợi xót xa cho một phận đời bất hạnh, mà còn trở thành tấm gương soi chiếu lòng nhân và niềm tin của con người giữa bể dâu cuộc sống.

Ngay từ những dòng mở đầu, nhân vật Khờ hiện ra bằng nét phác giản dị: “thằng nhỏ gánh nước… đang bốc khói”. Trong thân xác một người đàn ông gần ba mươi lại ẩn chứa trí tuệ của đứa trẻ lên năm. Tuổi thơ của Khờ khép lại từ ngày mẹ dắt cậu lên ngọn núi rồi bỏ đi biệt dạng. Hình ảnh “đá trổ bông” – vốn là lời dối ỡm ờ của người mẹ trẻ – biến thành sợi dây vô hình trói Khờ vào đỉnh núi hoang vu suốt ba mươi năm dài. Cuộc đời ấy là vòng tròn khép kín của chờ đợi: chờ đá nở hoa, chờ mẹ trở về, chờ điều không thể thành hiện thực. Ở Khờ, Nguyễn Ngọc Tư đã gửi gắm bóng dáng của biết bao mảnh đời thiệt thòi: bị bỏ quên, bị cắt đứt khỏi dòng chảy xã hội, chỉ bám víu vào một niềm tin mong manh để tồn tại.

Nhưng “Đá trổ bông” không dừng ở nỗi bi thương. Sau lớp sương khốn khổ, Khờ tỏa sáng một vẻ đẹp tinh thần hiếm có. Cậu hiền lành, chất phác như cỏ dại: gánh từng thùng nước mưa cho cả xóm, cọ đá trơn bậc thang, cõng bà Chín Sầu Đâu đi hốt thuốc, hái củi chất đầy miễu hoang cho dân núi dùng quanh năm. Dẫu nghèo đói cả vật chất lẫn yêu thương, Khờ vẫn gieo vào người khác hơi ấm “chắc nịch” khó lí giải. Niềm tin hồn nhiên – tưởng chừng trẻ con – lại là sức mạnh phi thường giúp cậu vượt qua bão sét, vượt qua hoang hoải của kiếp người. Thứ niềm tin “ngây khờ” ấy hóa thành niềm thủy chung tuyệt đối: Khờ không đi đâu, bởi “đá chưa nở bông nào”. Chính sự kiên định thuần khiết ấy khiến người đọc vừa thương cảm vừa kính phục: Khờ đã chọn yêu thương vô điều kiện, chọn ở lại để canh giữ một lời hứa, dù người hứa từ lâu đã quay lưng.

Thành công của truyện còn đến từ bút pháp kể chuyện tinh tế. Tác giả để “tôi”  quan sát Khờ, nhờ thế nhân vật được khắc họa gián tiếp, chân thực. Điểm nhìn đan xen: cái tò mò của người lạ, cái thương mến của cư dân núi Xanh, cái hờ hững trêu ngươi của du khách – tất cả hợp thành bức tranh đa thanh, giúp Khờ hiện lên vừa ngô nghê vừa quật cường. Giọng văn Nam Bộ mộc mạc, tiết chế: “trửng giỡn”, “miễu”, “hong bị trời đánh”…, hệt hơi thở đời sống thô mộc nhưng đậm tình. Không bi lụy, không lên án, Nguyễn Ngọc Tư để câu chữ lặng lẽ chảy, đủ lâu để dư vị buồn ngấm vào người đọc.

Khép trang truyện, bóng Khờ lững thững khuất sau mô đá khô khốc, còn độc giả thì bỗng ngẫm: mỗi chúng ta liệu có đang ôm ấp một “đá trổ bông” nào đó – một ảo vọng xa vời nhưng giúp ta đứng vững giữa đời? “Đá trổ bông” không chỉ kể bi kịch của kẻ thiểu năng bị bỏ rơi; truyện đánh thức lòng trắc ẩn trong mỗi người, nhắn gửi rằng: nếu đời còn những Khờ tin đá sẽ nở hoa, thì đời càng cần những tấm lòng biết nở hoa trước tiên. Và khi con người biết nuôi dưỡng nhân ái, biết chịu trách nhiệm với lời hứa, đá vô tri dẫu không kết nhụy, vẫn sẽ bừng nở những bông hoa của tình thương trong trái tim người ở lại.

Xem thêm các câu hỏi Đọc hiểu và Viết trong truyện Đá trổ bông chọn lọc, hay khác:

Xem thêm bộ ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 phần Truyện chọn lọc, hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Đề thi, giáo án các lớp các môn học