Phân tích văn bản ngữ liệu Tàu đi hòn gai của Nguyễn Quang Thân

Câu hỏi Phân tích văn bản ngữ liệu Tàu đi hòn gai của Nguyễn Quang Thân thuộc bộ Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 đầy đủ câu hỏi đọc hiểu và viết có hướng dẫn chi tiết giúp Giáo viên có thêm tài liệu ôn tập cho học sinh ôn thi Văn Tốt nghiệp THPT đạt kết quả cao. Mời các bạn đón đọc:

Phân tích văn bản ngữ liệu Tàu đi hòn gai của Nguyễn Quang Thân

Xem thử

Chỉ từ 150k mua trọn bộ 70 Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Truyện bản word có lời giải chi tiết:

Quảng cáo

Nội dung truyện Tàu đi Hòn Gai

TÀU ĐI HÒN GAI

(Nguyễn Quang Thân)

Tàu của những người nghèo.

Những tâm trạng và nỗi buồn không có cách gột bỏ nào rẻ tiền và dễ dàng hơn là rải nó dọc một tuyến đường biển dài, khi tiếng xế địp(1) lục bục đẩy anh xê dịch chỉ 4 hải lý một giờ đi sâu mãi vào cái hư ảo của Hạ Long.

Ngồi đối diện với tôi là người đàn ông luống tuổi, tóc bạc một cách cục cằn. Những đường nhăn không quy luật khó đoán định kẻ lên bộ mặt xạm đen vì nắng gió. Ông bảo ra Trà Cổ “tìm thằng con bất hiếu”. Nó về xin ông chia gia tài để cấp vốn cho con vợ đi buôn hàng Trung Quốc. Ông từ chối. Nó đào trộm nền nhà, cuỗm sạch của ông số vàng dưỡng lão. “Năm cây vàng của tôi chứ có ít ỏi gì” – Ông nói.

Bên cạnh tôi là một bà mù, đi với đứa con út đang ngủ gà ngủ gật. Bà còn trẻ, mắt mở to như mắt người sáng, nét mặt không một nếp nhăn và bình thản. Không thể tưởng tượng được đôi mắt ấy không còn nhận được ánh sáng, và mặt biểu chiều rực rỡ trên vịnh Hạ Long đối với bà chỉ còn là đêm tối mênh mông. Bà chăm chú nghe chuyện của chúng tôi theo cung cách và điệu bộ của người mù, sự chăm chú của toàn bộ cơ thể. Bà nói: “Thưa các ông, mỗi cây mỗi hoa mới gọi là đời. Tôi xin kể các ông nghe một chuyện mắt thấy tai nghe từ thời tôi còn nhỏ… – Bà hướng về người đàn ông – Xin ông đừng buồn, thiên hạ còn có người bất hiếu hơn thằng con ông”.

Câu nói như an ủi được phần nào người cha đau khổ, ông nghiêng người ra phía trước, lắng nghe. Người đàn bà mù kể:

- Hồi lên mười, mắt tôi còn sáng. Cạnh nhà tôi có một bà cụ mù. Bà góa chồng từ lúc còn trẻ nhưng ở vậy nuôi con. Rồi bị một cơn thiên đầu thống(2) thế là mù hẳn. Anh con trai cưới vợ. Cả xóm nghèo ai cũng có tiền mừng, mọi người tự đặt vào bàn tay bà cụ. Ở chỗ tôi những người sáng mắt cũng còn chật vật lắm mới kiếm được miếng ăn, huống gì bà. Cưới được nàng dâu tốt nết, chắc đời bà đỡ khổ. Nhưng có ai ngờ anh con! Sau ngày anh có vợ, người ta đã xì xầm về anh những chuyện tày trời. Thế rồi một hôm, sang nhà con bạn chơi, tôi thấy nó đang chúi mũi vào một lỗ thủng trên vách đất, nhìn sang gian nhà của bà cụ mù. Nó vẫy tay tôi lại. Các chư ông có biết tôi nhìn thấy chuyện gì không? Cả nhà bà cụ đang ngồi bên mâm cơm.

Trên mâm có một đĩa rau luộc, một đĩa thịt kho vàng. Bà cụ ngồi nhai cơm. Anh con trai đang bặm môi dùng hai chiếc đũa đẩy đĩa thịt về phía vợ. Còn chị con dâu, mặt đỏ bừng vì xấu hổ, chống lại chồng bằng cách lấy đũa đẩy cái đĩa sang phía mẹ chồng. Cả hai giằng co nhau trên cái mâm, trong im lặng. Chỉ còn nghe tiếng nhai trệu trạo của bà mẹ. Lúc đó tôi nghĩ bà không biết gì. Trước mắt bà chỉ là đêm tối, như trước mắt tôi bây giờ cũng chỉ là đêm tối… Cầu trời cho các chư ông đừng bao giờ phải nhìn thấy cái cảnh tôi nhìn thấy đó. Hai năm sau, bà mẹ treo cổ tự vẫn ngay trong nhà, chị con dâu đẻ được một đứa con trai thì ôm con về nhà mẹ. Nhưng anh con trai lại làm ăn tấn tới, mua được nhà khác và dọn đi. Giờ đây, khi đã bị mù, tôi mới biết là mình đã nhầm. Người mù nhìn thấy mọi thứ trong bóng đêm!

Người đàn ông nức to lên một tiếng. Mặt ông tái xám đi trong nắng chiều. Tôi nghĩ là câu chuyện đau buồn kia đã chạm đến vết thương lòng của ông. Tôi đưa ông lọ dầu gió: “Bác khó ở?...”. Ông xua tay rồi đứng dậy, bước tới phía mũi tàu. Đôi vai to bè oằn xuống trên tấm lưng mềm nhũn như không còn cột sống chống đỡ. Tôi bỗng nghĩ đến cái chết của bà mẹ mù trong câu chuyện đang làm tôi run cả người lên. Đàn ông cũng chẳng cứng rắn gì hơn đàn bà. Trên đường ra vịnh đã có bao nhiêu cuộc đời tìm cách tự giải thoát vào làn nước xanh thẫm này. Tôi quả quyết đứng dậy, đi theo người đàn ông. Ông đã ngồi xuống đống dây chão trên lỗ neo. Tôi bước lại gần, cố nghĩ cách làm ông khuây khỏa: “Ngày mai mới có tàu ra Trà Cổ. Nhà tôi ở gần núi Bài Thơ, nếu tiện xin mời bác…”.

Người bạn đường nhìn tôi với đôi mắt biết ơn. Nhưng một khoảng trống mênh mông hiện ra trong mắt ông, trong cái nhìn mà tôi không thể nào mô tả nổi, một nỗi xót xa, ân hận hay thứ tình cảm gì gần như thế đang làm đôi đồng tử mắt ông to ra, như ông đang hấp hối. Linh tính mách bảo tôi một điều: người đàn ông này phải nói câu gì đó với tôi hay bất kỳ ai khác. Nếu không ông sẽ gục xuống. Tôi đã không nhầm. Ông nói:

- Cám ơn ông. Nhưng tôi không ra Trà Cổ làm gì nữa. Tôi thế là đáng đời. Ông biết không, tôi đã nhận ra bà mù ấy. Bốn mươi năm trước bà ta là cô bé hàng xóm của hai mẹ con tôi.

(Nguyễn Quang Thân, 100 truyện hay cực ngắn, Tạp chí Thế giới mới - NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1999)

* Chú thích:

(1) xế địp: tiếng động cơ tàu thủy

(2) thiên đầu thống: một bệnh về mắt, dễ dẫn tới tổn hại dây thần kinh thị giác

Câu hỏi: Anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích văn bản ngữ liệu “Tàu đi hòn gai” của Nguyễn Quang Thân

Hướng dẫn trả lời:

Quảng cáo

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích văn bản ngữ liệu “Tàu đi hòn gai” của Nguyễn Quang Thân.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Quang Thân: một cây bút hiện đại giàu chất nhân văn, nổi bật với những truyện ngắn ngắn gọn, sắc sảo.

- Dẫn dắt đến văn bản Tàu đi Hòn Gai: khắc họa câu chuyện đầy ám ảnh về bi kịch gia đình và sự thức tỉnh của con người trước lỗi lầm quá khứ.

- Nêu luận đề: Văn bản thể hiện số phận bất hạnh của con người, lên án thói bất hiếu, đồng thời gửi gắm thông điệp về đạo hiếu và tình người.

* Thân bài:

Quảng cáo

1. Khái quát về văn bản

- Bối cảnh: Trên chuyến tàu nghèo ra Hòn Gai, những người hành khách trò chuyện, chia sẻ.

- Nhân vật chính: người đàn ông luống tuổi, người đàn bà mù và người kể chuyện.

- Câu chuyện được mở ra từ nỗi đau riêng, dẫn đến sự kết nối với nỗi đau chung của đời sống.

2. Phân tích nội dung

a. Nỗi đau của người đàn ông luống tuổi

- Có đứa con bất hiếu: vì tiền mà trộm vàng của cha.

- Ông cay đắng, tuyệt vọng, phải lên đường đi tìm.

→ Tái hiện hiện thực nhức nhối: đạo hiếu bị chà đạp trong một số gia đình.

b. Câu chuyện của người đàn bà mù

- Kể lại bi kịch người mẹ mù, bị con trai đối xử tàn nhẫn, cuối cùng treo cổ tự vẫn.

- Hình ảnh giằng co chiếc đĩa thịt giữa con trai và con dâu: một chi tiết hiện thực vừa xót xa vừa ám ảnh, tố cáo sự bất nhân.

- Lời chiêm nghiệm: “Người mù nhìn thấy mọi thứ trong bóng đêm” → sự thấu suốt bằng tâm can, bằng trải nghiệm đau đớn.

Quảng cáo

c. Sự thức tỉnh của người đàn ông

- Nhận ra mình chính là đứa con bất hiếu trong câu chuyện xưa.

- Diễn biến tâm trạng: bàng hoàng → đau đớn → ân hận, tự dằn vặt (“Tôi thế là đáng đời”).

→ Tác phẩm không chỉ kể nỗi đau hiện tại, mà còn cho thấy sức nặng của lương tâm và sự trừng phạt của quá khứ.

3. Nghệ thuật

- Kết cấu truyện lồng truyện, tạo sức gợi mở, bất ngờ.

- Miêu tả tâm lý tinh tế, chân thực.

- Giọng điệu giàu chất suy tư, vừa lạnh lùng vừa xót xa.

4. Ý nghĩa – giá trị

Lên án gay gắt sự bất hiếu, vô ơn với cha mẹ.

Khẳng định đạo hiếu là cội nguồn đạo lí, nền tảng nhân tính.

Gợi nhắc con người cần sống có trách nhiệm, biết trân trọng tình thân để tránh bi kịch muộn màng.

* Kết bài:

- Khái quát lại giá trị tác phẩm: Tàu đi Hòn Gai không chỉ là một câu chuyện đau lòng mà còn là lời cảnh tỉnh sâu sắc về lẽ sống làm người.

- Liên hệ: Mỗi người cần tự soi chiếu vào cách sống của mình, biết giữ gìn đạo hiếu và tình thương như nền tảng hạnh phúc gia đình.

 

Bài văn tham khảo

Nguyễn Quang Thân là một trong những cây bút văn xuôi hiện đại giàu tinh thần nhân văn. Ông đặc biệt thành công với thể loại truyện ngắn, nhiều tác phẩm để lại dư vị ám ảnh cho người đọc bởi sự giản dị trong lời kể nhưng hàm chứa những suy ngẫm sâu sắc về thân phận con người. Văn bản “Tàu đi Hòn Gai” là một minh chứng tiêu biểu, không chỉ tái hiện bi kịch gia đình mà còn gửi gắm thông điệp day dứt về đạo hiếu và tình người trong cuộc sống.

Trên chuyến tàu nghèo ra Hòn Gai, những con người khốn khổ tình cờ gặp gỡ, trò chuyện để giãi bày nỗi lòng. Người đàn ông luống tuổi ngồi đối diện nhân vật kể chuyện, mang trên mình gương mặt hằn sâu vết nhăn và mái tóc bạc vì nắng gió. Nỗi đau của ông là đứa con bất hiếu: sau khi bị cha từ chối chia gia tài, hắn đã trộm sạch số vàng dưỡng lão. Câu chuyện của ông là một lát cắt hiện thực đầy nhức nhối: ngay trong gia đình, mối quan hệ máu mủ thiêng liêng cũng có thể bị chà đạp bởi lòng tham và sự vô ơn.

Ngồi bên cạnh là người đàn bà mù, lắng nghe câu chuyện với sự chăm chú của cả cơ thể. Từ sự đồng cảm, bà kể lại bi kịch của một bà mẹ mù năm xưa: người con trai sau khi cưới vợ đã tàn nhẫn giành giật từng miếng thịt với mẹ ngay trên mâm cơm, mặc kệ sự xấu hổ và đau khổ của người vợ. Chi tiết giằng co chiếc đĩa thịt là một hình ảnh hiện thực ám ảnh, phơi bày tận cùng sự bất nhân và bất hiếu. Cuối cùng, bà mẹ mù treo cổ tự vẫn, để lại đứa con dâu ôm con nhỏ trở về nhà mẹ. Câu chuyện được khép lại bằng lời chiêm nghiệm: “Người mù nhìn thấy mọi thứ trong bóng đêm” – đó là cái nhìn xuyên thấu bằng tâm can, bằng nỗi đau khôn cùng, chứ không cần đến đôi mắt sáng.

Những lời kể ấy khiến người đàn ông luống tuổi như sụp đổ. Ông nhận ra mình chính là đứa con trai bất hiếu trong câu chuyện bốn mươi năm về trước. Diễn biến tâm trạng được miêu tả chân thực: từ bàng hoàng đến đau đớn, rồi rơi vào hố sâu ân hận. Lời thốt ra “Tôi thế là đáng đời” là một bản án nghiêm khắc mà chính lương tâm ông dành cho bản thân. Như vậy, tác phẩm không chỉ phơi bày những bi kịch gia đình mà còn cho thấy sức nặng của lương tri – sự trừng phạt khốc liệt nhất mà con người phải gánh chịu khi đánh mất đạo hiếu.

Nghệ thuật truyện ngắn ở đây cũng rất độc đáo: kết cấu truyện lồng truyện tạo kịch tính, giọng văn vừa khách quan vừa xót xa, đặc biệt là khả năng khắc họa tâm lí tinh tế khiến nhân vật trở nên sống động. Qua đó, tác phẩm khẳng định một giá trị bền vững: đạo hiếu là nền tảng của nhân tính, là gốc rễ của hạnh phúc gia đình.

Tàu đi Hòn Gai không chỉ là một câu chuyện đau buồn mà còn là lời cảnh tỉnh sâu sắc. Nó nhắc nhở mỗi người hãy biết trân trọng tình thân, sống có trách nhiệm với cha mẹ và gia đình, để không phải trả giá bằng sự ân hận muộn màng. Giữa dòng đời nhiều biến động, đạo hiếu vẫn mãi là thước đo căn bản nhất của nhân cách con người.

Xem thêm các câu hỏi Đọc hiểu và Viết trong truyện Tàu đi Hòn Gai chọn lọc, hay khác:

Quảng cáo

Xem thêm bộ ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 phần Truyện chọn lọc, hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Đề thi, giáo án các lớp các môn học