Viết một bài văn phân tích văn bản ngữ liệu Thi Thành Hoàng của Bồ Tùng Linh

Câu hỏi Viết một bài văn phân tích văn bản ngữ liệu Thi Thành Hoàng của Bồ Tùng Linh thuộc bộ Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 đầy đủ câu hỏi đọc hiểu và viết có hướng dẫn chi tiết giúp Giáo viên có thêm tài liệu ôn tập cho học sinh ôn thi Văn Tốt nghiệp THPT đạt kết quả cao. Mời các bạn đón đọc:

Viết một bài văn phân tích văn bản ngữ liệu Thi Thành Hoàng của Bồ Tùng Linh

Xem thử

Chỉ từ 150k mua trọn bộ 70 Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Truyện bản word có lời giải chi tiết:

Quảng cáo

Nội dung truyện Thi Thành Hoàng

THI THÀNH HOÀNG

(Nguyên tác: Khảo Thành Hoàng(1))

Ông tổ của anh rể tôi, Tống Công là một sinh viên ăn học bổng của ấp. Một hôm nằm bệnh, thấy có viên lại cầm văn thư, dắt một con ngựa trán có đốm trắng đến nói rằng:

- Xin mời ông đi thi

Ông nói:

- Quan giám khảo chưa đến, sao vội thi được?

Viên lại không nói gì, chỉ thúc đi. Ông bèn cố gượng cưỡi ngựa đi theo, thấy một con đường rất xa lạ đến một toà thành quách như nơi kinh đô. Một lát vào giải vũ(2), cung điện tráng lệ, ngồi trên có hơn mười vị quan, đều không biết là ai, chỉ biết có một vị là Quan Vũ(3). Dưới thêm bày hai đôn hai kỷ, trước mình đã có một vị tú tài ngồi trên một đôn. Ông bèn ngồi hai bên cạnh. Trên kỷ có đặt bút và giấy. Giây lát có đề thi đưa xuống nhìn xem thì có tám chữ: “Nhất nhân, nhị nhân, hữu tâm, vô tâm”.

Hai ông làm bài xong, trình lên điện, trong bài văn của ông có câu:

“Hữu tâm vi thiện, tuy thiện bất thưởng,

Vô tâm vi ác, tuy ác bất phạt”.

(Làm việc thiện mà có chủ ý thì không được thưởng,

Làm việc ác mà không có chủ ý thì không bị phạt).

Các thần đưa nhau xem, khen mãi không thôi, gọi lên báo rằng:

- Ở Hà Nam khuyết một chức Thành Hoàng, ông đáng giữ chức ấy.

Ông hiểu ra, đập đầu khóc mà thưa rằng:

- Được ân ban sủng đâu dám từ nan, chỉ hiềm một nỗi còn mẹ già bảy mươi tuổi, không ai phụng dưỡng. Xin được đến hết tuổi trời lúc ấy lục dụng(4) sẽ vâng theo.

Trên toà có vị vương giả truyền rằng:

- Tra sổ xem người mẹ thọ bao nhiêu?

Có một viên quan lại râu dài, lấy sổ ra xem, rồi bẩm:

- Theo sổ còn được ở dương gian chín năm nữa.

Trong lúc các quan còn dùng dằng thì quan đế nói:

- Không hề gì, cho Trương Sinh thay giữ chức ấy chín năm cũng được.

Một ông nói rằng:

- Đáng lẽ phải đi nhận chức ngay. Nay xét có lòng hiếu cho nghỉ chín năm. Đến kì hạn phải nghe vâng lệnh triệu.

Đoạn cũng phủ dụ ông tú tài kia vài lời. Hai ông cúi đầu chào lui xuống […] Ông lên ngựa từ biệt mà về, tới làng chợt như tỉnh mộng. Ông chết đã ba ngày rồi, bà mẹ bỗng nghe trong quan tài có tiếng rên rỉ, bèn mở ra, nửa ngày thì nói được. Hỏi đến Trường Sơn thì có Trương Sinh chết vào ngày hôm đó thật.

Chín năm sau, quả nhiên bà mẹ chết. Chôn cất mẹ xong, ông tắm gội vào nhà trong cũng mất luôn. Bên nhà vợ, ở trong cửa thành phía tây chợt thấy ông cưỡi ngựa choàng ngù đỏ, rất đông xe ngựa đi theo, lên nhà trên làm lễ rồi ra đi. Cả nhà lạ lùng, kinh ngạc, không biết rằng đã thành thần rồi. Chạy đi hỏi thăm tin tức trong làng, thì ông đã mất.

(Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh, Biên dịch Đại Lãn, NXB Thanh Hoá, trang 638,639, năm 2004)

* Chú thích:

(1) Thành Hoàng: vị thần coi giữ, bảo trợ cho một vùng đất nào đó.

(2) Giải vũ: phòng ốc, sở quan, quan xá

(3) Quan Công: quan Vân Trường là một vị tướng nổi tiếng thời kì cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc

(4) Lục dụng: ghi tên để bổ dụng

Câu hỏi: Anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích văn bản ngữ liệu “Thi Thành Hoàng” của Bồ Tùng Linh

Hướng dẫn trả lời:

Quảng cáo

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích văn bản ngữ liệu “Thi Thành Hoàng” của Bồ Tùng Linh.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Bồ Tùng Linh (1640–1715), một nhà văn nổi tiếng đời Thanh (Trung Quốc) với tập Liêu trai chí dị, chuyên viết truyện ngắn kì ảo, vừa giải trí vừa gửi gắm tư tưởng nhân sinh.

- Dẫn dắt giới thiệu truyện Thi Thành Hoàng – một thiên truyện tiêu biểu, phản ánh quan niệm đạo đức truyền thống, ca ngợi nhân cách, lòng hiếu thảo và tài năng của con người.

* Thân bài:

a. Tóm tắt ngắn gọn văn bản

- Nhân vật chính: Tống Công – một nho sinh, có học, có đức.

- Câu chuyện kì ảo: Tống Công được gọi đi thi ở “cõi âm”, làm bài văn xuất sắc, được giao chức Thành Hoàng Hà Nam.

Quảng cáo

- Do hiếu thảo, ông xin khất để chăm sóc mẹ già, được chấp thuận; chín năm sau, sau khi mẹ mất, ông mới chính thức nhậm chức thần linh.

b. Phân tích các chi tiết, hình tượng nghệ thuật

- Yếu tố kì ảo: Cuộc “đi thi” ở âm phủ, giấc mộng – thực, sự gặp gỡ Quan Vũ và các vị thần → tạo sự hấp dẫn, huyền bí, đồng thời phản ánh quan niệm “trần sao âm vậy” trong dân gian.

- Bài thi và tư tưởng nhân sinh: Câu văn “Hữu tâm vi thiện… vô tâm vi ác…” thể hiện cái nhìn công bằng, minh triết: thiện – ác phải xét đến động cơ, không chỉ hành vi. Đây cũng là thước đo để đánh giá con người.

- Nhân vật Tống Công:

+ Con người tài năng, học vấn uyên thâm (làm văn xuất sắc).

+ Con người có đức độ, hiếu thảo, đặt chữ hiếu lên trên vinh hoa chức tước.

+ Trở thành Thành Hoàng – vị thần bảo hộ, khẳng định giá trị của tài năng và đạo đức.

- Ý nghĩa biểu tượng:

+ Tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp (hiếu thảo, tài năng, nhân cách thanh liêm).

+ Thể hiện quan niệm “ở hiền gặp lành”, “người có tài có đức tất được trọng dụng”.

Quảng cáo

c. Giá trị tư tưởng – nghệ thuật của truyện

- Tư tưởng: Đề cao đạo hiếu, ca ngợi tài năng và phẩm chất tốt đẹp của con người.

- Nghệ thuật:

+ Kết hợp yếu tố kì ảo và hiện thực, tạo nên sự hấp dẫn.

+ Cách kể chuyện tự nhiên, mạch lạc, dẫn dắt người đọc từ cái lạ đến ý nghĩa nhân sinh.

- Truyện cho thấy mối liên hệ văn hoá, văn học giữa Trung Quốc và Việt Nam: quan niệm về thần linh, về đạo hiếu, về sự công bằng của thiện – ác đều có điểm tương đồng.

* Kết bài:

- Khẳng định giá trị của Thi Thành Hoàng: không chỉ là một truyện kì ảo li kì, mà còn gửi gắm triết lí nhân sinh sâu sắc, khẳng định quy luật “ở hiền gặp lành, thiện ác hữu báo”.

- Liên hệ: Truyện vẫn còn nguyên ý nghĩa trong xã hội hôm nay, nhắc nhở con người sống có hiếu, có đức, có tài để được trân trọng, dù ở bất cứ thời đại nào.

Bài văn tham khảo

Bồ Tùng Linh (1640–1715) là một cây bút đặc sắc của văn học Trung Quốc thời Thanh, nổi tiếng với tập truyện ngắn Liêu trai chí dị. Bằng bút pháp kì ảo, ông đã sáng tạo nên nhiều thiên truyện vừa hấp dẫn vừa chứa đựng tư tưởng nhân sinh sâu sắc. Trong đó, Thi Thành Hoàng là một truyện tiêu biểu, phản ánh quan niệm đạo đức truyền thống, đồng thời ca ngợi tài năng và đức hạnh của con người.

Câu chuyện kể về Tống Công, một nho sinh trong lúc bệnh tật bỗng được gọi đi “thi” ở cõi âm. Ông làm bài thi xuất sắc với câu văn nổi bật: “Hữu tâm vi thiện, tuy thiện bất thưởng; vô tâm vi ác, tuy ác bất phạt”, được các vị thần khen ngợi và dự định bổ làm Thành Hoàng ở Hà Nam. Tuy nhiên, ông xin khất vì muốn phụng dưỡng mẹ già, nhờ vậy được chấp thuận. Sau chín năm, khi mẹ mất, ông cũng qua đời và chính thức nhậm chức thần linh.

Truyện gây ấn tượng trước hết ở yếu tố kì ảo. Người đọc bị cuốn hút bởi hành trình “dự thi” của nhân vật tại một thế giới khác – nơi có thành quách, điện ngọc, quan lại, thậm chí có sự xuất hiện của Quan Vũ. Hình ảnh ấy vừa kì bí vừa gần gũi, bởi nó phản ánh niềm tin dân gian rằng cõi âm cũng có tổ chức giống như trần gian. Cách xây dựng không gian và tình huống lạ lùng này làm nổi bật tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm.

Điểm sáng trong tác phẩm chính là bài văn của Tống Công. Quan niệm “thiện – ác” ở đây không chỉ dựa trên hành vi bề ngoài, mà phải xét đến động cơ bên trong: làm việc thiện mà có tính toán thì chưa hẳn đáng thưởng, làm việc ác nhưng vô tình thì cũng không thể hoàn toàn trách phạt. Đó là một tư tưởng tiến bộ, nhấn mạnh sự công bằng và bản chất thực của đạo đức con người.

Nhân vật Tống Công hiện lên là con người vừa có tài vừa có đức. Tài năng thể hiện qua bài văn xuất sắc khiến các vị thần ngưỡng mộ. Đức hạnh bộc lộ qua lòng hiếu thảo, khi ông sẵn sàng từ chối vinh dự lớn lao để ở lại phụng dưỡng mẹ già. Trong xã hội truyền thống Á Đông, chữ hiếu là nền tảng đạo lý, và qua nhân vật này, Bồ Tùng Linh đã khẳng định: người có hiếu mới xứng đáng được trọng dụng và ghi nhớ muôn đời. Việc Tống Công sau đó trở thành Thành Hoàng càng cho thấy sự đền đáp xứng đáng dành cho người có tài năng và đạo đức.

Về giá trị nghệ thuật, Thi Thành Hoàng kết hợp hài hòa yếu tố kì ảo và hiện thực, khiến câu chuyện vừa hấp dẫn, vừa dễ khắc sâu trong trí nhớ. Lối kể mạch lạc, dẫn dắt tự nhiên, tạo nên một câu chuyện kì dị nhưng chứa đựng những bài học đạo lý quen thuộc. Đằng sau lớp vỏ huyền bí là một thông điệp rõ ràng: con người cần sống có hiếu, có đức, làm việc thiện bằng cái tâm trong sáng.

Tóm lại, Thi Thành Hoàng không chỉ là một thiên truyện li kì trong Liêu trai chí dị, mà còn mang giá trị nhân sinh bền vững. Bằng việc xây dựng nhân vật Tống Công hiếu thảo, tài năng, tác giả đã khẳng định đạo lý truyền thống và quy luật muôn đời: “ở hiền gặp lành, thiện ác hữu báo”. Trong xã hội hôm nay, câu chuyện vẫn nhắc nhở mỗi người hãy sống bằng sự tử tế, chân thành, đặt tình thân và đạo đức lên trên mọi vinh hoa lợi lộc.

Xem thêm các câu hỏi Đọc hiểu và Viết trong truyện Thi Thành Hoàng chọn lọc, hay khác:

Xem thêm bộ ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 phần Truyện chọn lọc, hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Đề thi, giáo án các lớp các môn học