Viết một bài văn nghị luận phân tích văn bản ngữ liệu Trại bảy chú lùn của Bảo Ninh

Câu hỏi Viết một bài văn nghị luận phân tích văn bản ngữ liệu Trại bảy chú lùn của Bảo Ninh thuộc bộ Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 đầy đủ câu hỏi đọc hiểu và viết có hướng dẫn chi tiết giúp Giáo viên có thêm tài liệu ôn tập cho học sinh ôn thi Văn Tốt nghiệp THPT đạt kết quả cao. Mời các bạn đón đọc:

Viết một bài văn nghị luận phân tích văn bản ngữ liệu Trại bảy chú lùn của Bảo Ninh

Xem thử

Chỉ từ 150k mua trọn bộ 70 Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Truyện bản word có lời giải chi tiết:

Quảng cáo

Nội dung truyện Trại bảy chú lùn

TRẠI “BẢY CHÚ LÙN” (trích)

(Bảo Ninh)

“Một hôm, chiều tối, từ ngoài rẫy một mình trở về muộn, tôi sững ra, không tin vào mắt mình nữa. Căn nhà chúng tôi đầy sáng ánh đuốc. Tiếng đàn ghita, rồi một giọng con gái cất cao, hát lên bài hát của thanh niên xung phong: “Đời chiến đấu, đời gian nan... nhưng hỡi tuổi trẻ đẹp tươi, hạnh phúc trong đời là chiến đấu...”. Tôi dừng ở ngưỡng cửa. Cuộc vui kéo dài có lẽ đã khá lâu rồi. “Đồng chí Nga, giao liên T65, từ nay là hàng xóm của chúng mình”, Huy giới thiệu cô gái lạ với tôi. Một cô gái trẻ măng, người cao, cân đối, nước da bánh mật, tóc tết đuôi sam. Cô ngừng hát. Khuôn mặt thanh tú hết sức ưa nhìn thoáng vẻ bên lên. “Ôi, từ nay những gì rồi sẽ đến với cánh ta đây hả các bạn?”, tôi thầm nghĩ. “Năm tháng vinh quang, khổ đau bất tận...”, cô ta lại bật dây đàn và hát, người uốn éo, mặt tái đi, mắt vừa rực lên vừa tối lại, và giọng hát thì tuyệt hay, khi vút cao khi bất ngờ tắt lặng.

Cho đến tận bây giờ, những chiều từ rừng trở về muộn, tôi lại thỉnh thoảng thình lình trông thấy buổi tối ấy, nghe thấy tiếng hát ấy, và nhắm mắt lại tôi nhìn thấy các đồng chí, nhìn thấy Nga...

Cuối năm 67, trong một chuyển đưa khách về Ân Cốc, hai đồng chí nam ở 765 bị bọn thám báo Mỹ phục kích giết chết. Cũng thời gian đó ở đây xảy ra trận cháy rừng, chúng tôi mắt Hình. Lửa cũng hủy luôn toàn bộ nhà cửa lán trại của trạm T65. Tôi mời Nga chuyển vị trí trạm vào trong trại ở chung với chúng tôi. Nhưng Nga từ chối, và như là giận gì chúng tôi, cô đi hắn vị trị của cô sang bờ đông. Và thừa hắn đi lại.

Giữa tôi và Huy, ai buồn hơn, khó mà biết được. Nhưng có lẽ tôi thì cứng rắn hơn một chút, còn Huy mềm yếu hơn. Huy vốn thổi tiêu rất hay, nhưng ít thổi và từ lâu đã không thấy nhìn ngó đến. Vậy mà bây giờ, tiếng tiêu của Huy ngày ngày nghe cất lên bên bờ sông trong bóng chiều chạng vạng, làm nhau ứa nước mắt. Tỉnh đã lặng lẽ, Huy càng trở nên lặng lẽ hơn. Và tôi thì còn thỉnh thoảng sang sông thăm Nga, làm việc này việc nọ giúp cô, chứ Huy thì không một lần. Những khi họa hoằn có Nga sang chơi, y như rằng Huy bỏ đi cố tình tránh mặt.

Mùa mưa 68, Nga không rút qua Lào như mọi năm. Cô được lệnh chốt lại, nhưng trên chẳng còn người nữa để điều thêm về trạm. Một mình Nga một cung trạm giao liên. Bữa Huy qua đời, tôi không thể kịp báo tin cho Nga. Nhưng, không hiểu bằng cách nào mà Nga vẫn hay tin. Chiều hôm sau, mặc dù đang lũ lớn, Nga qua sông. Trước tiên, Nga vào khu nghĩa trang của trại viếng mộ Huy và những người anh em đã khuất của tôi. Rồi cô vào trại tìm đối. Cô nói: “Từ nay, em sang ở cùng anh”. Từ đấy, trại Bảy Chú Lùn và trạm T65 là một.

Cũng căn nhà này đây, nhưng hồi ấy là nhà âm. Tôi gian bên phải, Nga gian trái. Gian giữa này dành cho khách. Khách vào, khách ra theo đường dây của Nga sống chủ yếu bằng nguồn lương thực của trại. Những ngày mưa lớn tôi chống đò đưa Nga và những người khách của cô vượt lũ Sa Thầy. Nhiều lần theo yêu cầu của Nga, tôi đi cả đò dọc. Nhưng càng ngày người nhập trạm vào khu Sáu càng thưa hơn, người từ đó ra lại càng ít nữa. Nga thường xuyên ở trại Cô đảm nhân tất tật những việc ở nhà để tôi chuyên tâm hoàn toàn chuyện nương rây. Những việc ở nhà vừa không kém cực nhọc vừa lách nhách: sấy sắn, sấy măng, phơi cá, tưới rau, tra mối mọt cho các sạp kho, trông nom gà lợn.. Những khi tôi ốm đau, mà dạo đó sức kiệt quá rồi, tôi ốm đau luôn, Nga chăm bẫm, nâng giấc cho tôi và đôi khi lên rẫy thay tôi. Thương nhau gần gũi nhau thế và trong cô đơn đè nặng, giữa hoang vắng đêm trường, vậy mà... Tôi rất hiểu. Không phải là không chịu đựng nổi nhưng Nga ngán vô cùng loại công việc của chúng tôi. Thêm nữa, tình hình chung trên chiến trường dằn ép nặng nề tâm trạng Nga. Thời kì sau Mậu Thân ở B3 ra sao có lẽ chẳng cần phải nói nữa, mà ở Khu Sáu thì thôi càng miễn phải luận bàn. Nói chung là tối tăm mù mịt. Tình hình ở đầu đường dây và ở cuối đường dây thế nào, tại đây chúng tôi chỉ có thể phỏng chừng. Và anh có thể tưởng tượng nổi là suốt cả một năm 1969, ba trăm sáu mươi lăm ngày đêm, chỉ có tôi với Nga, Nga với tôi. Lương thực tích trong kho, trong vựa không có đơn vị nào đến lĩnh. Bởi vì làm gì còn đơn vị nào nữa trên Cánh Bắc này. Tạt cả sang Miên, hoặc rút hết xuống Cánh Nam rồi.

(Trích Trại “bảy chú lùn”, theo Những truyện ngắn - Bảo Ninh, NXB Trẻ, 2021)

Câu hỏi: Anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích văn bản ngữ liệu “Trại “bảy chú lùn”” của Bảo Ninh

Hướng dẫn trả lời:

Quảng cáo

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích văn bản ngữ liệu “Trại “bảy chú lùn”” của Bảo Ninh.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Bảo Ninh – cây bút nổi bật của văn học thời hậu chiến, gắn liền với những trang viết giàu tính nhân bản về chiến tranh và con người.

- Giới thiệu tác phẩm Trại “Bảy chú lùn” và đoạn trích – tái hiện đời sống thầm lặng nhưng đầy gian khổ, mất mát của những người lính và cô giao liên trong chiến tranh.

- Nêu vấn đề nghị luận: Đoạn trích thể hiện rõ nét hiện thực chiến tranh khốc liệt và vẻ đẹp tâm hồn con người qua sự đan xen giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm.

Quảng cáo

* Thân bài:

a. Tóm lược nội dung đoạn trích

- Kể về cuộc sống của trại Bảy Chú Lùn và cô giao liên Nga: sự xuất hiện của Nga, sự hi sinh của đồng đội, những năm tháng sống cô đơn, âm thầm, lặng lẽ giữa rừng sâu.

- Qua đó, hiện lên bức tranh chân thực về đời sống chiến tranh: gian khổ, mất mát, cô đơn nhưng vẫn thấm đẫm tình đồng chí, đồng đội và tình người.

b. Phân tích nghệ thuật tự sự, miêu tả, biểu cảm trong đoạn trích

- Tự sự: mạch kể liền mạch, tái hiện chuỗi sự kiện từ khi Nga đến trại cho đến lúc ở lại cùng “tôi”; phản ánh một giai đoạn ác liệt, nhiều hi sinh.

- Miêu tả:

+ Miêu tả chân dung, vẻ đẹp khỏe khoắn, trẻ trung của Nga.

+ Miêu tả tiếng hát, tiếng đàn, tiếng tiêu gợi nỗi buồn thầm lặng.

+ Miêu tả khung cảnh rừng núi, ngôi nhà âm, những công việc đời thường… làm nổi bật sự gian nan, trống vắng.

- Biểu cảm:

Quảng cáo

+ Tình cảm của “tôi” dành cho Nga: thương yêu, thấu hiểu, sẻ chia.

+ Cảm xúc xót xa trước cái chết của Huy, sự cô độc của đồng đội.

+ Nỗi buồn, sự ngột ngạt trong những tháng ngày không còn liên lạc với các đơn vị chiến đấu.

c. Ý nghĩa nội dung và nghệ thuật

- Phản ánh hiện thực chiến tranh khốc liệt: hi sinh, mất mát, sự tan tác của đơn vị, sự cô đơn đến tận cùng.

- Khắc họa vẻ đẹp con người: Nga giàu sức sống, kiên cường, trách nhiệm, biết hi sinh và sẻ chia; Huy lặng lẽ, tình cảm; nhân vật “tôi” thấu hiểu, nhân hậu.

- Sự kết hợp tự sự – miêu tả – biểu cảm làm cho câu chuyện vừa chân thực vừa giàu chất trữ tình, lay động sâu sắc.

* Kết bài:

- Khẳng định lại giá trị đoạn trích: vừa là bức tranh hiện thực, vừa là bản trường ca bi thương và nhân văn về con người trong chiến tranh.

- Tác phẩm của Bảo Ninh nhắc nhở người đọc hôm nay biết trân trọng, biết ơn những con người đã sống, hi sinh và chịu đựng trong thầm lặng để bảo vệ Tổ quốc.

Bài văn tham khảo

Bảo Ninh là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam thời kì hậu chiến. Với phong cách viết giàu cảm xúc, ông thường khai thác chiến tranh từ góc nhìn của thân phận con người, để lại nhiều ám ảnh day dứt trong lòng người đọc. Truyện ngắn Trại “Bảy chú lùn” là minh chứng rõ nét, tái hiện đời sống gian khổ, âm thầm nhưng thấm đẫm tình người của những người lính và cô giao liên trong chiến tranh. Đoạn trích cho thấy rõ sự đan xen giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm, tạo nên sức hấp dẫn vừa chân thực vừa giàu chất trữ tình.

Đoạn trích kể lại cuộc sống của trại Bảy Chú Lùn với sự xuất hiện của Nga – cô giao liên trạm T65. Từ buổi tối đầu tiên đầy ánh đuốc, tiếng đàn, tiếng hát, Nga đã đem đến sức sống mới cho những người lính. Nhưng ngay sau đó là những mất mát đau thương: đồng đội ngã xuống, Huy âm thầm mang nỗi buồn và ra đi, còn Nga và “tôi” tiếp tục sống những tháng ngày cô độc giữa rừng sâu. Một năm 1969, “ba trăm sáu mươi lăm ngày đêm, chỉ có tôi với Nga, Nga với tôi” – câu văn gợi sự trống trải đến nhói lòng, phản ánh một giai đoạn bi thương của chiến tranh.

Trên nền tự sự ấy, Bảo Ninh kết hợp nhuần nhuyễn miêu tả và biểu cảm. Những dòng văn miêu tả gương mặt thanh tú, làn da bánh mật, giọng hát tuyệt hay của Nga khiến nhân vật hiện lên sống động, đầy sức hút. Tiếng tiêu của Huy mỗi chiều gợi nỗi buồn mênh mang, vừa như một tiếng khóc lặng lẽ, vừa như sự dồn nén của tình cảm không thể giãi bày. Những công việc thường nhật như sấy sắn, phơi cá, trông nom gà lợn hay cảnh vượt lũ Sa Thầy hiện ra chân thực, gợi lên sự vất vả, nhọc nhằn của cuộc sống chiến tranh. Bên cạnh đó, yếu tố biểu cảm bộc lộ rõ trong giọng điệu của nhân vật “tôi”: sự thương xót cho đồng đội, niềm đồng cảm sâu nặng với Nga, nỗi buồn cô độc đè nặng qua năm tháng. Chính những dòng hồi tưởng, trăn trở ấy làm câu chuyện không chỉ dừng lại ở việc kể, mà còn vang vọng một tiếng lòng day dứt.

Đoạn trích vì thế không chỉ phản ánh hiện thực chiến tranh khốc liệt mà còn tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn con người. Nga là hình ảnh của tuổi trẻ: giàu sức sống, giàu trách nhiệm, biết hi sinh và sẻ chia trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt. Huy hiện lên lặng lẽ, giàu tình cảm, để lại dư âm xót xa. Nhân vật “tôi” là người chứng kiến, thấu hiểu và đồng cảm, thể hiện cái nhìn nhân văn của tác giả. Nhờ sự đan xen của tự sự, miêu tả và biểu cảm, đoạn trích trở nên sinh động, giàu sức gợi hình, gợi cảm, vừa tái hiện hiện thực vừa chạm đến những cung bậc tình cảm sâu kín nhất của con người trong chiến tranh.

Tóm lại, đoạn trích Trại “Bảy chú lùn” của Bảo Ninh là một bức tranh hiện thực thấm đẫm nỗi buồn và chất nhân văn. Nó không miêu tả những trận đánh ác liệt mà đi sâu khắc họa cuộc sống, tâm trạng và những mất mát âm thầm của con người nơi hậu cứ. Qua đó, tác giả gửi đến người đọc hôm nay thông điệp: cần trân trọng và biết ơn những hi sinh thầm lặng của thế hệ đi trước. Chính sự kết hợp hài hòa giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm đã làm nên sức lay động đặc biệt cho tác phẩm, để mỗi trang văn của Bảo Ninh trở thành một bản trường ca vừa bi thương vừa nhân hậu về chiến tranh.

Xem thêm các câu hỏi Đọc hiểu và Viết trong truyện Trại bảy chú lùn chọn lọc, hay khác:

Xem thêm bộ ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 phần Truyện chọn lọc, hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Đề thi, giáo án các lớp các môn học