Kiến thức trọng tâm tác giả tác phẩm Ngữ văn 9 đầy đủ

Kiến thức trọng tâm tác giả tác phẩm Ngữ văn 9 đầy đủ

Nhằm mục đích giúp học sinh nắm vững kiến thức các tác phẩm Ngữ văn lớp 9, VietJack biên soạn bản tổng hợp kiến thức trọng tâm tác giả tác phẩm Ngữ văn 9 đầy đủ về nội dung tác phẩm, đôi nét về tác giả, bố cục, tóm tắt, dàn ý, sơ đồ tư duy, ...

Tác giả - Tác phẩm Ngữ văn 9 Học kì 1

Tác giả - Tác phẩm Ngữ văn 9 Học kì 2

Tác giả - Tác phẩm: Chuyện người con gái Nam Xương

A. Nội dung tác phẩm

Chuyện người con gái Nam Xương kể về Vũ Nương (Vũ Thị Thiết), một người con gái nết na, đức hạnh lại thêm tư dung tốt đẹp. Trương sinh mến vẻ đẹp của Vũ Nương bèn mang trăm lạng vàng cưới về. Chẳng bao lâu, Trương Sinh đi lính, Vũ Nương ở nhà sinh một đứa con trai đặt tên là Đản. Mẹ Trương sinh cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm, mặc dù Vũ Nương hết sức thuốc thang, chăm sóc nhưng bà vẫn không qua khỏi. Trương Sinh đi lính về, bé Đản không nhận cha. Nghe con nói tối nào cha cũng đến, Trương Sinh cho rằng vợ mình mất nết bèn đánh đuổi Vũ Nương. Vũ Nương cố gắng thanh minh nhưng không được nên đành gieo mình xuống xông Hoàng Giang để giữ sự trong sạch. Vũ Nương được Linh Phi cứu và sống dưới thủy cung. Ở đây nàng đã gặp Phan Lang - người cùng làng. Nàng đã nhờ Phan Lang nhắn gửi với Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình. Nghe lời Phan Lang, Trương Sinh lập đàn giả oan, Vũ Nương hiện về nói lời tạ từ rồi biến mất.

B. Đôi nét về tác phẩm

1. Tác giả

Nguyễn Dữ:

- Quê: Thanh Miện, Hải Dương.

- Xuất thân trong một gia đình bình dân nghèo

- Nguyễn Dữ sống vào nửa đầu thế kỷ XVI, là thời kỳ Triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền lực, gây ra những cuộc nội chiến kéo dài.

- Ông học rộng, tài cao nhưng chỉ làm quan một năm rồi cáo về, sống ẩn dật ở vùng núi Thanh Hoá. Đó là cách phản kháng của nhiều trí thức tâm huyết đương thời.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ

   “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 trong tổng số 20 truyện của “thiên cổ tùy bút” Truyền kì mạn lục. Truyện có nguồn gốc từ một truyện cổ tích Việt Nam có tên là “Vợ chàng Trương”.

b. Thể loại

Truyện truyền kì

c. Ý nghĩa nhan đề

- Truyền kỳ: thể loại văn viết bằng chữ Hán có nguồn gốc từ Trung Quốc, thịnh hành từ thời Đường. Các nhà văn nước ta về sau đã tiếp nhận thể loại này để viết những tác phẩm phản ánh cuốc sống và con người của đất nước mình.

- Mạn lục: ghi chép tản mạn những truyện kỳ lạ vẫn được lưu truyền

- Chuyện người con gái Nam Xương:

Câu chuyện kể về người phụ nữ ở Nam Xương

+ Đây không chỉ là câu chuyện của riêng Vũ Nương mà còn là câu chuyện chung của những người phụ nữ trong xã hội xưa.

d. Bố cục

Truyện gồm 3 phần:

    + Phần 1 (Từ đầu → như mẹ đẻ): Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương; sự xa các vì chiến tranh và phẩm hạnh của Vũ Nương.

   + Phần 2 (Từ qua năm sau → đã qua rồi): Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương.

   + Phần 3 (còn lại): Cuộc gặp gỡ giữa Phan Lang và Vũ Nương trong động Linh Phi. Vũ Nương được giả oan.

e. Giá trị nội dung

- Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam

- Niềm cảm thương cho số phận bi kịch của người phụ nữ đồng thời lên án các lễ giáo phong kiến, các hủ tục hà khắc trong xã hội đương thời.

g. Giá trị nghệ thuật

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặc biệt là chi tiết chiếc bóng → tạo nên tính bất ngờ, tăng thêm tính bi kịch.

- Xây dựng nhân vật (qua lời nói, hành động)

 - Sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ; yếu tố kỳ ảo.

C. Đọc hiểu văn bản

1. Nhân vật Vũ Nương

a. Vẻ đẹp

*  Trước khi về làm dâu: 

Lời giới thiệu “tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” → vẻ đẹp ven toàn, kết hợp hài hòa giữa dung nhan và phẩm hạnh. 

* Trong khi về làm dâu: 

- Là người mẹ thương con: chỉ vào bóng mình trên vách, nói đó là cha Đản.

→ Am hiểu tâm lý trẻ thơ, yêu thương con.

- Là người con dâu hiếu thảo: 

+ Khi mẹ chồng ốm: thuốc thang, lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn.

+ Khi bà mất: lo ma chay chu đáo như mẹ đẻ của mình.

→ Mẹ chồng cảm động: “Xanh kia quyết chẳng phụ con ...”.

- Là người vợ thủy chung:

+ Khi chồng ở nhà: Giữ gìn khuôn phép, không để xảy ra bất hòa.

Khi tiễn chồng đi lính: rót chén rượu đầy, nói lời tình nghĩa; không mong chức tước, chiến công, chỉ mong chồng được bình yên; thấu hiểu, cảm thông với nỗi vất vả gian lao của chồng; bày tỏ nỗi nhớ mong, khắc khoải.

Khi xa chồng: nhớ da diết “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn ... không thể nào ngăn được”.

-   Khi bị chồng nghi oan: tìm mọi cách để xóa bỏ ngờ vực, cứu hạnh phúc gia đình. 

=> Vũ Nương là người mẹ thương con, nàng dâu hiếu thảo, người vợ thủy chung luôn trân trọng hạnh phúc gia đình.

* Sau khi chết (Khi sống dưới thủy cung)

- Là người nặng tình, nặng nghĩa, vị tha:

+ Sống đầy đủ, sung sướng dưới thủy cung → nhớ về quê hương, phần mộ tổ tiên.

+ Được Trương Sinh lập đàn giải oan → trở về: không oán trách, nói lời cảm tạ. 

- Là người trọng danh dự: khao khát được giải oan.

- Là người trọng ân nghĩa: hứa với Linh Phi sống chết không bỏ → không quay về dương thế.

=> Vũ Nương mang vẻ đẹp lý tưởng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

b. Số phận bất hạnh

* Khi về làm dâu

- Lấy chồng chưa được bao lâu thì chồng đi lính

 → sống cảnh cô đơn.

- Chồng đi lính: gánh vác toàn bộ công việc.

- Khi chồng trở về: bị hiểu lầm, mắng nhiếc, đánh đập, đuổi đi.

* Cái chết oan khuất

Nguyên nhân

- Trực tiếp: lời nói ngây thơ của bé Đản → Trương Sinh đinh ninh là vợ mình hư.

- Gián tiếp:

+ Trương Sinh đa nghi, hay ghen, cư xử hồ đồ, phũ phàng, thô bạo…

+ Cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối: Trương Sinh vốn “con nhà hào phú”, Vũ Nương “con kẻ khóTạo thế cho Trương Sinh: có tiền và có quyền.

+ Chiến tranh phong kiến gây nên cảnh sinh li tử biệt.

+ Chế độ nam quyền độc đoán, bất công.

Ý nghĩa

- Khẳng định phẩm hạnh của Vũ Nương.

- Thể hiện sự cảm thương trước số phận đầy bi kịch của nhân vật.

- Tố cáo chiến tranh phong kiến, chế độ nam quyền đã tước đoạt quyền sống, quyền hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ.

2. Nhân vật Trương Sinh

- Con nhà hào phú nhưng không có học.

- Đa nghi, hay ghen, cư xử hồ đồ, độc đoán:

  + Đối với vợ phòng ngừa quá mức.

 + Nghe lời con trẻ → cho rằng vợ mình thất tiết.

 + Bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ → mắng nhiếc, đánh đuổi vợ.

 + Không tin những lời bênh vực vợ.

  + Không nói duyên cớ để vợ có cơ hội minh oan.

→ cố chấp, bảo thủ. 

- Khi vỡ lẽ mọi chuyện, biết mình đã nghi oan cho vợ → vẫn không có ý hối lỗi.

- Khi Phan Lang đưa kỉ vật của Vũ Nương → nhớ lại chuyện năm xưa, lập đàn giải oan.

3. Những yếu tố kỷ ảo trong truyện

a. Các chi tiết kì ảo

- Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.

- Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi → gặp Vũ Nương → được đưa về dương thế.

- Vũ Nương tự tử → được tiên nữ cứu, sống dưới thủy cung.

- Trương Sinh lập đàn giải oan → Vũ Nương hiện về nói lời tạ từ rồi biến mất.

b. Cách đưa các yếu tố kì ảo vào truyện

Yếu tố kì ảo xen kẽ, lồng ghép với những yếu tố có thật (về địa danh, thời điểm lịch sử, sự kiện lịch sử, về nhân vật, về tình cảnh nhà Vũ Nương) → tính chân thực, thuyết phục.

c. Ý nghĩa các chi tiết kì ảo

- Làm nên đặc trưng của thể lại truyện truyền kì

- Hoàn thiện nét đẹp vốn có của Vũ Nương.

- Tăng tính bi kịch của câu chuyện. 

- Tạo nên kết thúc phần nào có hậu, thể hiện ước mơ của nhân dân về lẽ công bằng. 

- Thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm

D. Sơ đồ tư duy

Chuyện người con gái Nam Xương

E. Bài văn phân tích

    Nguyễn Dữ là một gương mặt tiêu biểu điển hình cho nền văn học trung đại Việt Nam ở thế kỉ thứ XVI. Mặc dù, sự nghiệp sáng tác văn chương của Nguyễn Dữ chỉ vẻn vẹn có tập truyện "Truyền kì mạn lục" nhưng tập truyện lại có một vị trí đặc biệt, được đánh giá là "thiên cổ kì bút" (bút lạ nghìn đời), "là áng văn hay của bậc đại gia". Đây là tập truyện viết bằng chữ Hán, khai thác các truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lịch sử, dã sử Việt Nam. "Chuyện người con gái Nam Xương" là thiên thứ 16, trong tổng số 20 truyện của "Truyền kì mạn lục". Thông qua bi kịch Vũ Nương, truyện thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm là một áng văn độc đáo, đánh dấu sự thành công về nghệ thuật dựng truyện; khắc họa miêu tả nhân vật và sự kết hợp giữa tự sự với trữ tình, giữa yếu tố hiện thực và kì ảo.

    Trước hết, "Chuyện người con gái Nam Xương" đã khắc họa thành công vẻ đẹp truyền thống và số phận oan nghiệt của người phụ nữ đương thời. Điều này được thể hiện qua nghệ thuật dựng truyện và xây dựng hình tượng nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương là một người con gái đẹp người, đẹp nết, đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ thời kì phong kiến: "tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp". Trương Sinh vì cảm mến cái dung hạnh ấy nên đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về làm vợ. Sau đó, nhà văn tập trung làm nổi bật vẻ đẹp đức hạnh của nàng, bằng việc đặt Vũ Nương vào rất nhiều hoàn cảnh, tình huống và các mối quan hệ xung quanh như với chồng, với mẹ chồng và với đứa con trai tên là Đản, từ đó góp phần bộc lộ trọn vẹn tính cách, phẩm hạnh của nàng.

    Trong mối quan hệ với người chồng - Trương Sinh, Vũ Nương là một người vợ nhất mực thủy chung, yêu thương chồng tha thiết. Biết chồng có tính đa nghi, thường đề phòng vợ quá mức nên Vũ Nương đã cư xử khéo léo, đúng mực, nhường nhịn và giữ đúng khuôn phép, không bao giờ xảy ra bất hòa. Khi người chồng chuẩn bị đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò Trương Sinh những lời tình nghĩa. Nàng không mong vinh hiển, chỉ mong chồng "bình yên" trở về. Khi xa chồng, Vũ Nương nhớ thương chồng da diết. Mỗi khi thấy "bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi" nàng lại thấy "thổn thức tâm tình", nhớ chồng nơi biên ải. Tiết hạnh của nàng còn được khẳng định khi nàng bị chồng nghi oan: "cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót...". Khi Trương Sinh đi lính trở về, một mực khăng khăng cho rằng nàng thất tiết, Vũ Nương đã ra sức phân trần để cho chồng hiểu, nói lên thân phận của mình, nhắc tới tình nghĩa phu thê và khẳng định tấm lòng nhất mực thủy chung. Vũ Nương ra sức giữ gìn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.

    Trong mối quan hệ với mẹ chồng và bé Đản.Vũ Nương hiện lên là một người con hiếu thảo, một người mẹ rất mực tâm lí, yêu thương con cái. Chồng đi lính, ở nhà, nàng một mình sinh con, nuôi dạy con, vừa đóng vai trò là một nguời mẹ, lại vừa đóng vai trò là một nguời cha. Nàng sợ con mình thiếu thốn tình cảm của người cha nên đêm đêm thường mượn bóng mình, chỉ vào tường mà bảo là cha Đản. Nàng thay chồng làm tròn bổn phận, trách nhiệm của một người mẹ hiền, dâu thảo: chăm sóc, thuốc thang, lễ bái thần Phật, hết lòng khuyên lơn mẹ chồng. Đến khi mẹ chồng mất, nàng tổ chức ma chay tế lễ chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình. Vì thế, bà mẹ chồng đã viện cả trời xanh để chứng minh cho lòng hiếu thảo của cô con dâu: "Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Điều đó đã cho thấy nhân cách tuyệt vời và công lao to lớn của Vũ Nương đối với gia đình chồng.

   Một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết, đảm đang, hiếu thảo, nhất mực thủy chung và hết lòng vun vén, trân trọng hạnh phúc gia đình như thế, đáng lẽ ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, tìm được một người chồng tâm lí, cảm thông và sẻ chia những nỗi lo toan cho vợ, nhưng thật éo le và nghịch lí thay, nàng lại phải chịu một cuộc sống gia đình bất hạnh và phải chết trong đau đớn, xót xa, đầy nước mắt. Đó là khi Trương Sinh sau ba năm đi lính trở về, bé Đản không chịu nhận cha, nghe lời nói của con: "Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, những chẳng bao giờ bế Đản cả", Trương Sinh nhất nhất cho rằng "vợ hư". Mặc dù Vũ Nương đã tìm cách để giải thích lại thêm họ hàng, làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng nhưng mối nghi ngờ vợ của Trương Sinh ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được. Cuối cùng "cái thú vui nghi gia nghi thất" đã không còn "bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió", cả nỗi đau chờ chồng đến hóa đá cũng không còn có thể được nữa "đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa". Nàng đã trẫm mình xuống dòng nước Hoàng Giang lạnh lẽo. Đó là hành động quyết liệt để bảo toàn danh dự.

    Vậy đâu là nguyên nhân dẫn tới cái chết oan nghiệt của Vũ Nương. Đó trước hết là do chi tiết cái bóng và những lời nói ngây thơ của bé Đản. Nhưng nguyên nhân sâu sa đằng sau đó là từ người chồng đa nghi, thô bạo. Ngay từ đầu truyện, nhà văn đã giới thiệu Trương Sinh là "con nhà hào phú nhưng không có học", lại có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá mức, thiếu cả lòng tin và tình thương với người tay ấp má kề với mình. Đó chính là mầm mống của bi kịch để rồi trong hoàn cảnh đi lính ba năm xa nhà, xa vợ, thói ghen tuông, ích kỉ của bản thân chàng nổi lên và giết chết người vợ của mình. Đồng thời, chế độ phong kiến hà khắc, nam quyền độc đoán đã dung túng cho thói gia trưởng của người đàn ông, cho phép người đàn ông có thể đối xử tệ bạc với người phụ nữ của mình. Và người phụ nữ không có quyền được lên tiếng, không có quyền tự bảo vệ ngay cả khi có "họ hàng, làng xóm bênh vực và biện bạch cho"... Tất cả đã đẩy Vũ Nương - người phụ nữ đẹp đương thời vào con đường bi kịch, phá tan đi những hạnh phúc gia đình của người phụ nữ, dồn đẩy họ vào con đường cùng không lối thoát.

   Cũng cần nói thêm, sự thành công của "Chuyện người con gái Nam Xương" còn được thể hiện ở chỗ, Nguyễn Dữ đã khéo léo dẫn dắt câu chuyện trên cơ sở cốt truyện có sẵn, ông đã xắp xếp lại, tô đậm, thêm bớt làm cho câu chuyện trở nên sinh động, mang tính kịch và tăng cường tính bi kịch. Có thể nói, dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, "Chuyện người con gái Nam Xương" đã có sự thành công vượt bậc so với bản kể dân gian "Vợ chàng Trương". Điều này được thể hiện qua chi tiết chiếc bóng và lời nói của bé Đản. Từ đó, tạo nên sự thắt nút và mở nút của câu chuyện, làm câu chuyện trở nên hấp dẫn, tình tiết lôi cuốn, chặt chẽ. Đầu tiên là "thắt nút" câu chuyện: chỉ một câu nói ngây thơ của một đứa trẻ lên ba nói với cha mà như một cơn bão dây chuyền, đã tạo nên biết bao nhiêu là giống lốc cuộc đời, lật nhào hết tất cả mọi sự bình yên. Để rồi, trong một chốc nóng giận, thói nghi kị trong lòng người đàn ông độc đoán, chuyên quyền đã phá tan đi hạnh phúc yên ấm mà mình đang có; đẩy cuộc đời của người phụ nữ đẹp người, đẹp nết vào cái chết thương tâm, thấm đẫm nước mắt. Và cũng thật bất ngờ thay, câu chuyện lại được "gỡ nút" bằng một câu nói trẻ thơ non dại. Khi thấy cái bóng của Trương Sinh in trên vách, bé Đản liền nói: "Cha Đản lại đến kia kìa!" thì bao nhiêu oan khuất lại được lật nhào sáng tỏ. Vũ Nương vô tội!

   Bên cạnh đó, truyện còn thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đối thoại, lời tự bạch của nhân vật được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc họa diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật: lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình - lời của người phụ nữ hiền thục, đoan chính; lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, thật thà.

   Cuối truyện, Vũ Nương hiện về thấp thoáng trên chiếc kiệu hoa giữa dòng, võng lọng, cờ kiệu rực rỡ đầy sông, nàng nói lời đa tạ Linh Phi và tạ từ Trương Sinh rồi biến mất. Đây là những chi tiết, hình ảnh thể hiện sự sáng tạo của Nguyễn Dữ về mặt kết cấu truyện bằng việc sử dụng yếu tố kì ảo, hoang đường, góp phần tăng thêm giá trị hiện thực và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm, làm nên đặc trưng của thể loại truyền kì. Nếu như trong truyện kể dân gian, sau khi Vũ Nương chết, Trương Sinh tỉnh ngộ, nhận ra sai lầm của mình thì cũng là lúc truyện cổ tích khép lại, điều đó đã để lại niềm xót xa đau đớn cho người đọc về thân phận bất hạnh oan khiên của người phụ nữ tiết hạnh, thì trong "Chuyện người con gái Nam Xương", Nguyễn Dữ, đã sáng tạo thêm phần cuối của truyện, góp phần làm nên giá trị thẩm mĩ của truyện hoàn thiện thêm nét đẹp vốn có của Vũ Nương. Ở thế giới bên kia, nàng được đối xử xứng đáng với phẩm giá của mình. Vì thế, Nguyễn Dữ đã đáp ứng được ước mơ của con người về sự bất tử, sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp, thể hiện nỗi khát khao hạnh phúc trong một cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ đương thời.

   Tóm lại, "Truyền kì mạn lục" nói chung và "Chuyện người con gái Nam Xương" nói riêng của Nguyễn Dữ là một tác phẩm độc đáo, đánh dấu một bước phát triển đột khởi của nền văn xuôi tự sự chữ Hán trong nền văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm đã đạt được thành tựu nghệ thuật nổi bật trên ba phương diện: xây dựng tình tiết, kết cấu; xây dựng nhân vật; sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo. Thông qua cuộc đời và số phận bất hạnh của Vũ Nương, tác giả đã phản ánh số phận bi thương của người phụ nữ phong kiến, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của họ. Đồng thời, thể hiện thái độ phê phán đối với một xã hội phi nhân tính đã gây ra biết bao khổ đau cho con người. Mặc dù truyện cách xa chúng ta vài thế kỉ nhưng tính thời sự của truyện vẫn còn vang vọng tới ngày hôm nay!

Tác giả - Tác phẩm: Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh

A. Nội dung tác phẩm

    Đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh ghi lại cảnh sống xa hoa vô độ của chúa Trịnh và bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa.

     Khoảng năm Giáp Ngọ, Ất Mùi (1774 -1775) trong nước có chúa Trịnh Sâm thích chơi đèn đuốc thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Cuộc sống của chúa Trịnh rất xa hoa và tốn kém: xây dựng nhiều cung điện, đền đài liên tục lãng phí, thích đi chơi, ngắm cảnh đẹp, mỗi tháng vài ba lần Vương ra cung Thuỵ Liên. Việc tìm thú vui của chúa Trịnh thực chất là để cướp đoạt những của quý trong thiên hạ.

     Bọn hoạn quan thì được chúa sủng ái, chúng ngang nhiên ỷ thế hoành hành, vừa ăn cướp vừa la làng. Chúng dò xem nhà nào có cây cảnh, chim tốt, khướu hay hoặc đồ vật đẹp nào đều quy cho vào tội “phụng thủ”, người ta phải van xin chí chết mới được tha, có khi còn phải phá bỏ để tránh khỏi tai vạ. Nhà tác giả cũng có trồng một cây lê và hai cây lựu trắng, đỏ nở hoa rất đẹp nhưng cũng phải chặt đi vì cớ ấy.

B. Đôi nét về tác phẩm

1. Tác giả

Phạm Đình Hổ (1768 - 1839), tên chữ là Tùng Niên hoặc Bỉnh Trực hiệu là Đông Dã Tiều tục gọi là Chiêu Hổ.

- Ông là người làng Đan Loan - huyện Đường An - Hải Dương (nay là xã nhân Quyền - huyện Bình Giang - Hải Dương).

 - Ông sống vào thời buổi đất nước loạn lạc nên muốn ẩn cư. Đến thời Minh Mạng nhà Nguyễn, nhà vua mời ông ra làm quan, dù ông đã mấy lần từ chức nhưng vẫn bị mời ra.

- Để lại nhiều văn thơ viết bằng chữ Hán có giá trị lịch sử: “Vũ trung tùy bút”, “Tang thương ngũ lục”

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

Đoạn trích nằm trong tác phẩm “Vũ trung tùy bút”, viết khoảng đầu đời Nguyễn (đầu thế kỉ XIX). Đây là tác phẩm văn xuôi ghi lại một cách sinh động, hấp dẫn hiện thực đen tối của lịch sử nước ta, là tài liệu quý giá về sử học, địa lí, xã hội học.

b. Bố cục

Gồm 2 phần:

   + Phần 1 (Từ đầu đến “triệu bất tường”) → Cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của Trịnh Sâm

   + Phần 2 (còn lại): Sự nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới quyền

c. Giá trị nội dung

 “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” phản ánh đời sống xa hoa của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê - Trịnh, đưa đến một góc nhìn chân thực, phơi bày thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam dưới thời vua Lê – chúa Trịnh.

d. Giá trị nghệ thuật

- Thể loại tùy bút, sự ghi chép rất chân thực, sinh động mà lại giàu chất trữ tình. 

- Các chi tiết miêu tả chọn lọc kĩ càng, đắt giá, giàu sức thuyết phục

- Giọng điệu gần như khách quan nhưng cũng rất khéo léo, thể hiện thái độ lên án bọn vua quan qua thủ pháp liệt kê.

C. Đọc hiểu văn bản

1. Cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của Trịnh Sâm

Sự xa hoa trong cuộc sống của chúa Trịnh Sâm đã được ghi chép lại chân thực, tỉ mỉ:

    + Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài chỉ để thỏa mong muốn “thích chơi đèn đuốc”

    → Xây dựng đền đài vì mục đích cá nhân → nhân dân hao tiền tốn của. 

    + Chúa thường xuyên tổ chức các cuộc dạo chơi Tây Hồ ba bốn lần một tháng → huy động rất nhiều người hầu hạ cùng những trò giải trí lố lăng, tốn kém

    + Tìm thu vật “phụng thủ” → cướp đoạt những vật quý giá trong thiên hạ. 

   + Đưa một cây đa cổ thụ về từ bên kia sông, cần tới cơ binh hàng trăm người → kì công, xa hoa tốn kém. 

=> Lối ghi chép tỉ mỉ, chân thực, khách quan, không đưa thêm bất cứ một lời bình luận nào → sự xa xỉ, ăn chơi, không màng đến quốc gia đại sự của một người nắm binh quyền → sự sụp đổ, suy vong là điều không tránh khỏi.

2. Sự nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới quyền

Sự xa hoa hưởng lạc của người đứng đầu → thói nhũng nhiễu của quan lại dưới trướng:

    + Bọn hoạn quan được sủng ái vì giúp vua trong những trò chơi xa hoa nên ỷ thế hoành hành, tác oai tác quái

    + Chúng tìm thu vật “phụng thủ” → vừa ăn cướp, vừa la làng.

     Người dân: bị cướp đến hai lần → phải tự hủy bỏ những sản vật quý giá của mình. 

      Quan lại: vơ vét làm của riêng → được tiếng mẫn cán

    + Phạm Đình Hổ kể câu chuyện từ chính gia đình mình khi bà mẹ ông phải sai chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý chỉ vì muốn tránh tai họa → tăng sức thuyết phục, chân thực.

         Tác giả kín đáo bộc lộ thái độ bất bình, phê phán.

D. Sơ đồ tư duy

Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh


E. Bài văn phân tích

   Trong các áng văn xuôi thời kì trung đại ở nước ta, bên cạnh Truyền kì mạn lục - một "Thiên cổ kì bút" - người đời thường nhắc tới Vũ trung tuỳ bút (Theo ngọn bút viết trong khi mưa) của Phạm Đình Hổ. Tác phẩm ra đời vào đầu thế kỉ XIX. Khác với Truyền kì mạn lục, tập sách "viết trong mưa" ấy thuộc thể loại tuỳ bút. Dùng văn tuỳ bút, danh nho Phạm Đình Hổ đã tuỳ theo hứng thú và suy nghĩ của riêng mình, ghi chép lại những sự việc, những câu chuyện cụ thể chân thực, những điều tai nghe, mắt thấy trong cuộc sống. Khi đọc Truyền kì mạn lục, chúng ta bắt gặp đây đó những yếu tố lãng mạn, huyền ảo, còn trong Vũ trung tuỳ bút thì đậm đặc chất hiện thực. Một trong những bức tranh hiện thực ấy là những chuyện trong phủ chúa Trịnh Sâm. Viết lại những câu chuyện cũ ấy, tác giả dự báo "đó là triệu bất tường", là những dấu hiệu không lành, những điềm gở.

   Trước hết là những câu chuyện về thói ăn chơi xa xỉ, vô độ của chúa Trịnh Sâm và các quan lại hầu cận trong phủ chúa. Tác giả Phạm Đình Hổ kể ba sự việc tiêu biểu. Việc thứ nhất: Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đình đài ở các nơi để thỏa mãn ý thích "đi chơi ngắm cảnh đẹp", ý thích đó cứ triền miên, nối tiếp tưởng đến không cùng. Vì vậy, nhà văn viết "Việc xây dựng đình đài cứ liên miên". Nghĩa là việc huy động sức dân, thu tiền bạc, chiếm đất đai, bắt nhân công liên tục diễn ra hàng tháng, hàng năm, nơi này, nơi khác. Việc thứ hai: Những cuộc rong chơi của chúa Thịnh Vương (Trịnh Sâm). Chúa thường thích đi chơi, thường ngự - tới ăn ngủ, ngắm cảnh đẹp, hưởng của ngon, vật lạ, thỏa mãn thú vui cả thể xác lẫn tinh thần - ở các li cung (cung điện, lâu đài xa kinh thành) trên Hồ Tây, núi Tử Trầm, núi Dũng Thuý. Trong những chuyến du lịch ấy của chúa đặc biệt nhất là cuộc dạo chơi trên Hồ Tây. Vòng quanh bốn mặt hồ, binh lính phải "dàn hầu", vừa để bảo vệ vừa sẵn sàng làm theo lời chúa sai bảo. Cũng vòng quanh bốn mặt hồ, các quan trong triều phải "đầu bịt khăn, mặc áo đàn bà" cải trang là những thị dân buôn bán, bày hàng hoá như một khu chợ sầm uất, đông vui, vui cho thiên hạ thì ít mà vui cho chúa thì nhiều. Thuyền ngự đến đâu thì chúa và các hỗ tụng đại thần tuỳ ý ghé vào bờ mua bán. Chúa và cận thần tới, thì nhạc công phải tấu lên những khúc nhạc dặt dìu gần xa vẳng từ dưới bóng cây, bến đá nào đó. Đúng là bức tranh cuộc sống phồn hoa mà giả dối. Tác giả chỉ ghi chép khách quan, không một lời nhận xét, mà sự việc nó cứ tự phơi bày những nét rởm hợm, nực cười, đáng chê trách. Việc thứ ba - đáng chê trách hơn - là câu chuyện chúa "sức thu lấy" - ra lệnh bằng văn bản - cướp đoạt một cách trắng trợn tất cả "những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh" trong nhân dân. Chọn một cảnh điển hình của những cuộc cướp đoạt ấy - cảnh lính tráng chở một cây đa cổ thụ về phủ chúa - tác giả miêu tả bằng những từ ngữ sống động, một giọng văn thật nặng nề. Cây đa to, cành lá rườm rà, được rước qua sông"... như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại bốn người đi kèm, đều cầm gươm đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay". Đó là một đám rước công phu, tốn kém. Cây đa ấy vốn ở đầu non hốc đá tự do - phóng khoáng giữa rừng núi nay bị rước về vườn nhà chúa bề ngoài có vẻ oai phong, song nhìn kĩ thấy tội nghiệp quá. Bởi vì từ nay, đa đâu còn là biểu tượng trường tồn, bất diệt, biểu tượng cho sức sống của con người, của quê hương, đất nước. Đa đã bị ép buộc để "điểm xuyết, bày vẽ" thành thứ đồ chơi riêng của nhà chúa. Cây đa cũng giống như thân phận của muôn loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch, chậu hoa cây cảnh trong dân gian đã bị cầm tù, bị tha hoá. Bao nhiêu cái đẹp của tự nhiên, những thú vui tao nhã, chính đáng của nhân dân đã bị nhà chúa chiếm đoạt. Số phận của cây trời, đá núi, hoa lá, ... vô tri thì như thế, hỏi số phận con người ra sao? Người viết tùy bút, danh nho Phạm Đình Hổ đã đưa ra những sự việc cụ thể chân thực và khách quan, không bình luận mà các hình ảnh, chi tiết cứ hiện lên đầy ấn tượng. Ấn tượng nhất là cảnh đêm nơi vườn nhà chúa: "Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường"...

   Tiếng chim kêu, vượn hót khắp bốn bề giữa đêm khuya thanh vắng, hay là tiếng muôn loài than thở? Trận mưa sa gió táp ồn ào hay sự giận dữ của trời đất? Những âm thanh ấy gợi cảm giác ghê rợn như một điều gì đó đang tan tác đổ vỡ, suy sụp đau đớn, chứ không phải là một cảnh đẹp bình yên, phồn thực, no ấm. Nghe những âm thanh ấy "kẻ thức giả" - nhà nho Phạm Đình Hổ biết "đó là triệu bất tường". Đến dòng văn cuối của những câu chuyện nhà chúa, cảm nghĩ của tác giả bộc lộ trực tiếp, nhưng lời văn vẫn nhẹ nhàng, tế nhị, gián tiếp bằng một danh từ chung là "kẻ thức giả". Kẻ thức giả là những người có học vấn, có hiểu biết sâu rộng. Viết câu văn ấy, Phạm Đình Hổ là một người có tầm phán đoán, dự cảm chính xác. Ông đã thấy rõ những cuộc ăn chơi xa hoa, vô độ của chúa Trịnh Sâm là "triệu bất tường", những dấu hiệu không lành, những điềm gở. Nó báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ chăm lo việc ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của dân lành. Quả thực, điều đó đã xảy ra không lâu sau khi Trịnh Sâm mất.

   Sách xưa có câu "Thượng bất chính, hạ tắc loạn" - cấp trên không chân chính, nghiêm túc thì cấp dưới tất sẽ làm loạn. Chúa ở ngôi cao mải mê ăn chơi, sa đọa, tất yếu các quan cấp dưới ỷ thế làm càn. Do đó, từ những câu chuyện của chúa, Phạm Đình Hổ chuyển ý, kể đến chuyện các quan "bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm...". Ở đoạn văn thứ hai này, tác giả tập trung kể một sự việc. Đó là việc bọn hoạn quan bày trò cướp đoạt, vu cáo, phá hoại tài sản của nhân dân một cách trắng trợn, tàn ác. Chúng thực hiện công việc rất "bài bản". Động tác một: "Dò xem" nhà nào có vật quý, thì biên vào hai chữ "phụng thủ" nghĩa là lấy để dâng chúa. Động tác thứ hai: "Trèo qua tường thành lẻn ra"... "lấy phăng đi"... Động tác thứ ba: Nếu nhà nào phản ứng, thì "buộc cho tội giấu vật báu" của vua chúa... Ở đoạn văn tùy bút này nhà văn sử dụng liên tục các động từ miêu tả thái độ và hành động bọn hoạn quan trong ba câu văn đặc tả với những từ ngữ nhấn mạnh: "Dò xem", "trèo", "lẻn", "lấy phăng", "buộc tội", "dọa dẫm", ... Đúng là những thái độ, hành động của một lũ đầu trâu mặt ngựa, vừa ăn cướp, vừa la làng, "Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham" (Truyện Kiều). Hậu quả của những vụ cướp bóc trắng trợn ấy là: Người dân bị buộc tội phải nộp tiền, phải "phá nhà huỷ tường... bỏ của ra kêu van chí chết" và tự mình phải "đập bỏ núi non bộ hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ". Người dân phải chịu biết bao nhiêu cảnh đau đớn, bao nhiêu bất công, phi lí. Chính tại gia đình Phạm Đình Hổ - một gia đình quý tộc cận kề phủ chúa - cũng bị cái hoạ ăn cướp kia gieo xuống. Trước nhà tiền đường trồng một cây lê hoa trắng xoá thơm lừng, trước nhà trung đường trồng hai cây lựu ra quả trông rất đẹp ... "Bà cung nhân ta đều sai chặt đi cũng là vì cớ ấy". So với giọng văn kể chuyện các gia đình khác quanh kinh thành bị quấy nhiễu, giọng kể ở đoạn văn cuối này có vẻ như nhẹ nhàng hơn, song nó tô đậm thêm tính hiện thực, tăng thêm ý nghĩa phê phán, tố cáo. Bởi vì, nạn cướp bóc, sách nhiễu ở thời Trịnh Sâm đã trở thành cơn sốc trong xã hội, không chỉ gây đau khổ cho dân thường mà còn đe dọa cả những gia đình quyền quý, quan lại, không chỉ cướp bóc của cải vật chất mà còn huỷ diệt cả những thú vui tao nhã mang tính văn hoá truyền thống của biết bao gia đình Việt Nam chúng ta. Những từ ngữ cuối đoạn văn dừng lại, nhưng lời kể của tác giả vẫn còn vương vấn ngân nga trong lòng chúng ta những cảm giác xót xa, nuối tiếc, thương cho cây đẹp, hoa thơm, cảm thống với những con người phải sống trong một xã hội phong kiến hỗn loạn mục nát đến như vậy.

   Đoạn tùy bút “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” ấy không chỉ có giá trị hiện thực, phơi bày bộ mặt xấu xa của chúa, của bọn quan lại, lính tráng mà còn hấp dẫn bạn đọc bởi một ngòi bút tài hoa. Phạm Đình Hổ đã ghi chép người thực, việc thực rất cụ thể, chính xác, theo trí nhớ, cảm xúc, suy nghĩ của riêng mình. Từ ngữ câu văn tự nhiên, trôi chảy, không bị gò bó bởi cốt truyện, nhân vật...như trong truyện ngắn. Khi kể chuyện, lúc chuyển sang miêu tả, ngẫu hứng thì điểm vào một dự cảm, dự báo, nhịp văn lúc khoan thai, khi dồn dập nhấn mạnh, ... ngỡ như buông thả tự do nhưng tác phẩm vẫn tập trung vào một chủ đề, toát lên cảm xúc trữ tình rõ nét của tác giả.

   Nói tóm lại, bằng thể văn tùy bút ghi chép tùy hứng những sự việc một cách cụ thể, chân thực, sinh động, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh giúp chúng ta hiểu về đời sống xa hoa vô độ của bọn vua chúa, quan lại phong kiến thời vua Lê, chúa Trịnh suy tàn nửa cuối thế kỉ XVIII. Đó là một xã hội đầy rẫy những dấu hiệu không lành, những điềm gở đáng chê trách và đáng xóa bỏ. Lịch sử đã xóa bỏ cái xã hội ấy.

Xem thêm các loạt bài Để học tốt Ngữ văn 9 hay khác:

Săn SALE shopee tháng 12:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, KHÓA HỌC DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Soạn văn lớp 9 | Soạn bài lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Để học tốt ngữ văn 9 và bám sát nội dung sgk Ngữ văn 9 Tập 1 và Tập 2.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Các loạt bài lớp 9 khác
Tài liệu giáo viên