11 Chuyên đề ôn thi Văn vào lớp 10 năm 2025

Bài viết cập nhật bộ 11 chuyên đề ôn thi Văn vào lớp 10 năm 2025 có lời giải chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Văn.

11 Chuyên đề ôn thi Văn vào lớp 10 năm 2025

Xem thử

Chỉ từ 500k mua trọn bộ 11 Chuyên đề ôn thi Ngữ Văn vào lớp 10 năm 2025 theo cấu trúc mới bản word có lời giải chi tiết:

Quảng cáo

CHUYÊN ĐỀ 1: TÌM HIỂU TRI THỨC THỂ LOẠI ĐỌC HIỂU

PHẦN 1: TRUYỆN

I. KHÁI LƯỢC VỀ TRUYỆN

1. Khái niệm

    Truyện là loại tác phẩm văn học kể lại một câu chuyện, có cốt truyện, nhân vật, không gian, thời gian, hoàn cảnh diễn ra các sự việc.

2. Một số yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của truyện

    - Câu chuyện (truyện gốc) là một trong những yếu tố cơ bản của tác phẩm truyện, bao gồm nhân vật, bối cảnh và chuỗi sự kiện đã được sắp xếp, tổ chức theo dụng ý nghệ thuật của nhà văn, được trình bày thông qua một người kể, một điểm nhìn, với một giọng điệu cụ thể. Câu chuyện là phương tiện để nhà văn miêu tả tính cách, thể hiện số phận nhân vật, trình bày gương mặt đời sống theo quan niệm của mình. Diễn biến của câu chuyện vừa có tác dụng lôi cuốn người đọc vừa góp phần tạo ra ý nghĩa nhân sinh cho truyện kể. Câu chuyện vốn hết sức phong phú về chi tiết, do vậy, không phải lúc nào người đọc cũng dễ dàng nắm được mạch vận động chính của nó.

    - Chi tiết là những sự việc nhỏ trong văn bản, tạo nên sự sinh động của tác phẩm.

    ⮚ Ví dụ:

    Chi tiết cậu bé lên ba mà vẫn không biết nói, biết cười trong truyện Thánh Gióng.

    Chi tiết cái bóng trong truyện Người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ).

    - Cốt truyện là yếu tố quan trọng của truyện kể, gồm các sự việc, sự kiện xảy ra trong câu chuyện (gắn liền với hình tượng nhân vật chính) được sắp xếp theo một trật tự nhất định; có mở đầu, diễn biến và kết thúc. Các sự kiện then chốt có thể được người đọc sắp xếp lại theo trật tự nhân quả hoặc tuyến tính, không còn giống hoàn toàn với trật tự mà người kể chuyện đã thực hiện.

    + Cốt truyện đơn tuyến là kiểu cốt truyện chỉ có một mạch sự kiện. Trong cốt truyện đơn tuyến, hệ thống sự kiện thường tương đối đơn giản, tập trung thể hiện quá trình phát triển tính cách của một hoặc một vài nhân vật chính, có khi chỉ là một giai đoạn trong cuộc đời nhân vật chính.

    + Cốt truyện đơn tuyến thường có dung lượng nhỏ hoặc vừa; thường là cốt truyện của các truyện ngắn, truyện vừa, thậm chí cả tiểu thuyết.

    ⮚ Ví dụ:

    Toàn bộ tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố chỉ tập trung xoay quanh số phận nhân vật chị Dậu; tất cả những con người và sự kiện trong tác phẩm đều liên quan trực tiếp đến nhân vật chính này.

    + Cốt truyện đa tuyến là kiểu cốt truyện tồn tại đồng thời ít nhất hai mạch sự kiện, nhằm phản ánh nhiều bình diện của đời sống; tái hiện những diễn biến phức tạp của nhiều nhân vật; có dung lượng lớn. Trong cốt truyện đa tuyến, hệ thống sự kiện thường phức tạp, chồng chéo, tái hiện nhiều bình diện của đời sống gắn với số phận các nhân vật chính của tác phẩm có nhiều chủ đề.

    ⮚ Ví dụ:

    Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm có ít nhất hai tuyến: tuyến nhân vật và sự kiện phản ánh sự suy tàn của chế độ phong kiến, tiêu biểu là Lê Chiêu Thống; tuyến nhân vật và sự kiện phản ánh hào khí của dân tộc, tiêu biểu là hình ảnh Quang Trung và khởi nghĩa Tây Sơn.

    Cốt truyện đa tuyến thường thấy ở các tiểu thuyết có dung lượng lớn như Chiến tranh và hoà bình của Lép Tôn-xtôi, Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô,... Ở Việt Nam, các tiểu thuyết như Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Cửa biển (Nguyên Hồng),... là tác phẩm có cốt truyện đa tuyến.

    - Sự kiện trong cốt truyện được triển khai hoặc liên kết với nhau theo một mạch kể nhất định. Mạch kể này thống nhất với hệ thống chi tiết và lời văn nghệ thuật (bao gồm các thành phần lời kể, lời tả, lời bình luận,...) tạo thành truyện kể.

    - Bối cảnh trong truyện thường chỉ hoàn cảnh xã hội của một thời kì lịch sử nói chung (bối cảnh lịch sử); thời gian và địa điểm, quang cảnh cụ thể xảy ra câu chuyện (bối cảnh riêng);...

    ⮚ Ví dụ: Bối cảnh lịch sử của câu chuyện Buổi học cuối cùng (Đô-đê) là thời kì sau chiến tranh Pháp - Phổ (1870 - 1871), hai vùng An-dát và Lo-ren của Pháp bị nhập vào nước Phổ. Các trường học thuộc hai vùng này phải bỏ tiếng Pháp, chuyển sang học tiếng Đức. Bối cảnh riêng của câu chuyện là quang cảnh và diễn biến của buổi học tiếng Pháp cuối cùng.

    - Tình huống truyện là yếu tố cốt lõi làm nên sức hút cho câu chuyện. Tình huống truyện gắn liền với sự kiện nổi bật nhất, với hoàn cảnh đặc biệt “bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi là khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người, một đời nhân loại”.

    ⮚ Ví dụ: Tình huống ông Hai nghe tin làng chợ Dầu theo giặc (Làng - Kim Lân); tình huống bé Thu nhận ông Sáu là cha đúng thời điểm ông Sáu phải về đơn vị (Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng);...

    - Người kể chuyện, ngôi kể, điểm nhìn

    + Người kể chuyện là một loại nhân vật do nhà văn tạo ra để thay mình kể câu chuyện. Đó là người chứng kiến, hoặc tham gia vào câu chuyện, phát hiện ý nghĩa của nó và có nhu cầu kể lại. Câu chuyện chỉ trở thành truyện kể khi có người kể chuyện. Người kể này không chỉ tạo nên truyện kể mà còn chỉ dẫn, gợi mở và đối thoại với người đọc.

    + Phân loại:

    • Xét về sự hiểu biết của người kể chuyện với cái được kể: người kể chuyện toàn trị, người kể chuyện hạn tri.

    • Xét về biểu hiện đánh giá: người kể chuyện chủ quan và người kể chuyện khách quan.

    • Xét theo tiêu chí ngôi kể: người kể chuyện ngôi thứ nhất (xưng “tôi”, trực tiếp xuất hiện trong tác phẩm) và người kể chuyện ngôi thứ ba (không trực tiếp tham gia nhưng thường có lợi thế “toàn tri” với khả năng “biết hết” câu chuyện, có thể “nhìn thấu” tính cách, số phận và thế giới nội tâm của nhân vật).

    Người kể chuyện ngôi thứ nhất xưng “tôi” hoặc dùng một hình thức tự xưng tương đương. Tùy theo mức độ tham gia vào mạch vận động cốt truyện, người kể chuyện ngôi thứ nhất hoặc là nhân vật chính (có thể là nhân vật trung tâm trong số các nhân vật chính), nhân vật phụ, người chứng kiến, người kể lại câu chuyện được nghe từ người khác hoặc xuất hiện với vai trò tác giả “lộ diện”.

    ⮚ Ví dụ: Người kể câu chuyện về tình cha con giữa ông Sáu với bé Thu - nhân vật bác Ba trong Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng); người kể chuyện phá án của thám tử Sơ-lốc Hôm - bác sĩ Oát-xơn trong Sơ-lốc Hôm (A-thơ Cô-nan Đoi-lơ); nhân vật “tôi” trong Chị tôi (Nguyễn Thị Thu Huệ);...

    Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất thường là người kể chuyện hạn tri (không biết hết mọi chuyện), trừ trường hợp vai trò tác giả “lộ diện” vận dụng quyền năng “biết hết” của mình.

    Khi nhận định về nhân vật, sự việc trong khả năng bao quát có hạn của mình, người kể chuyện ngôi thứ nhất thường thể hiện một điểm nhìn, một giọng kể, một thái độ đánh giá nhất định. Ngay cả khi người kể chuyện cố tỏ ra khách quan, cũng khó tránh được những yếu tố chủ quan thể hiện qua cách tổ chức điểm nhìn trong lời kể. Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất phần nhiều là người trần thuật chủ quan, song phương thức trần thuật với người kể chuyện ngôi thứ nhất chủ quan đó lại được gọi là trần thuật khách quan.

    Cùng với việc người sáng tác ý thức ngày càng rõ về tính ảo tưởng của vấn đề sở hữu chân lí tuyệt đối, tổ chức trần thuật với người kể chuyện ngôi thứ nhất đã trở thành một xu hướng phổ biến trong rất nhiều tác phẩm văn học hiện đại.

    Người kể chuyện ngôi thứ ba là người kể chuyện ẩn danh, không trực tiếp xuất hiện trong tác phẩm, không tham gia vào các sự việc, chỉ được nhận biết qua lời kể (ví dụ: người kể chuyện trong Những con cá cờ - Trần Đức Tiến; Chiếc lá cuối cùng - O’ Hen-ri,...). Song người kể chuyện ngôi thứ ba có khả năng nắm bắt tất cả những gì diễn ra trong câu chuyện, kể cả những biểu hiện sâu kín trong nội tâm nhân vật, do vậy trở thành người kể chuyện toàn tri. Mặc dù vậy, người kể chuyện ngôi thứ ba có sử dụng quyền năng toàn tri hay không còn tuỳ thuộc vào chiến lược trần thuật cụ thể của từng tác phẩm. Khi người kể chuyện ở ngôi thứ ba kể như một người “biết hết” về nhân vật, sự việc, tăng cường trực tiếp thể hiện thái độ đánh giá nhân vật, sự việc thì lời người kể chuyện trở thành một trong những phương tiện đặc biệt quan trọng triển khai tư tưởng chủ đề, cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Trong trường hợp này, phương thức trần thuật của tác phẩm được gọi là trần thuật chủ quan.

    Tuy nhiên, người kể chuyện ngôi thứ ba cũng có thể kể chuyện như một người “không biết hết” về nhân vật, sự việc, chỉ nương theo điểm nhìn (vật lí hay ý thức) của một hay một vài nhân vật, không trực tiếp thể hiện thái độ đánh giá nhân vật. Khi đó, phương thức trần thuật của tác phẩm được gọi là trần thuật khách quan. Trong trường hợp này, tư tưởng chủ đề, cảm hứng chủ đạo không thể hiện nhiều qua lời người kể chuyện, mà toát lên từ toàn bộ tổ chức tác phẩm.

    Thay đổi kiểu người kể chuyện

    Trong một truyện kể, nhà văn có thể sử dụng nhiều ngôi kể khác nhau. Có tác phẩm sử dụng hai, ba người kể chuyện ngôi thứ nhất; có tác phẩm lại kết hợp người kể chuyện ngôi thứ nhất và người kể chuyện ngôi thứ ba.

    Sự thay đổi kiểu người kể chuyện luôn thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả. Mỗi ngôi kể thường mang đến một cách nhìn nhận, đánh giá riêng, khiến câu chuyện được soi chiếu từ nhiều chiều, trở nên phong phú, hấp dẫn, chứa đựng nhiều ý nghĩa.

Trong truyện, ngôi kể có thể được tác giả thay đổi để nội dung phong phú hơn và cách kể linh hoạt hơn.

    ⮚ Ví dụ: Phần mở đầu đoạn trích Trái tim Đan-kô (trích Bà lão I-déc-ghin - M. Go-rơ- ki) được kể theo lời nhân vật “tôi” (ngôi thứ nhất). “Tôi” đã kể lại cuộc trò chuyện giữa nhân vật với bà lão I-déc-ghin trong một đêm trăng sáng. Trong cuộc trò chuyện đó, bà lão I-déc- ghin đã kể cho “tôi” nghe câu câu chuyện về Đan-kô. Phần chuyện về Đan-kô, bởi thế, được kể bằng lời nhân vật bà lão I-déc-ghin (ngôi thứ ba). Suốt dọc đoạn trích, hai ngôi kể này đan xen gắn liền với mỗi câu chuyện được kể.

    - Nhân vật văn học: yếu tố đặc biệt quan trọng trong tác phẩm tự sự

    + Nhân vật là con người cụ thể được khắc họa trong tác phẩm văn học qua các phương diện như ngoại hình, hành động, ngôn ngữ, thế giới nội tâm, quá trình sống,... của chính nhân vật; các mối liên hệ với thế giới xung quanh,...; qua nhận xét của người kể chuyện và các nhân vật khác;...

    Ngoại hình: dáng vẻ bề ngoài (thân hình, gương mặt, ánh mắt, làn da, mái tóc, trang phục,...) Hành động: cử chỉ, việc làm thể hiện cách ứng xử của nhân vật với bản thân và thế giới xung quanh

    Ngôn ngữ: lời nói của nhân vật, được xây dựng ở cả hai hình thức đối thoại và độc thoại Thế giới nội tâm: cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ của nhân vật

    ⮚ Ví dụ: Nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) không chỉ được miêu tả, thể hiện qua ngoại hình, lời nói, hành động, suy nghĩ mà còn được hiện lên qua lời của người kể chuyện xưng “tôi” - nhân vật Phùng và nhân vật Đẩu trong truyện.

    Có thể tóm lược các phương diện khắc họa nhân vật qua bảng sau:

11 Chuyên đề ôn thi Văn vào lớp 10 năm 2025

    Cũng có những trường hợp nhân vật trong tác phẩm văn học là thần linh, ma quỷ, loài vật, đồ vật,... được nhà văn tạo dựng trong tác phẩm văn học bằng những phương tiện đặc thù của nghệ thuật ngôn từ. Khi ấy, chúng vẫn đại diện cho những tính cách, tâm lí, ý chí hay khát vọng của con người. Các nhân vật này luôn gắn với chủ đề tác phẩm và là sáng tạo nghệ thuật mang tính ước lệ nên không thể đồng nhất với con người thực ở ngoài đời. Theo đó, nhân vật là phương tiện để văn học khám phá và cắt nghĩa về con người.

    + Phân loại:

    • Xét từ vị trí trong cốt truyện: nhân vật chính - nhân vật phụ;

    • Xét từ chức năng xã hội: nhân vật chính diện - nhân vật phản diện;

    • Xét theo phương thức xây dựng nhân vật: nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng;

    • …

    - Lời người kể chuyện, lời nhân vật, sự kết nối giữa lời người kể chuyện và lời nhân vật

    + Lời người kể chuyện gắn với ngôi kể, điểm nhìn, ý thức và giọng điệu của người kể chuyện. Chức năng của nó là miêu tả, trần thuật, đưa ra những phán đoán, đánh giá đối với đối tượng được miêu tả, trần thuật (bối cảnh, thời gian, không gian, miêu tả sự việc, nhân vật) cũng như định hướng việc hình dung, theo dõi mạch kể của người đọc, thể hiện cách nhìn nhận, thái độ đánh giá đối với đối tượng được miêu tả, trần thuật.

    Quyền năng của người kể chuyện thể hiện ở phạm vi miêu tả, phân tích, lí giải và mức độ định hướng đọc qua việc cắt nghĩa, đánh giá sự kiện, nhân vật được khắc hoạ trong tác phẩm văn học.

    + Lời nhân vật, được hiểu là lời nói gắn với ý thức và cách thể hiện của nhân vật trong hình thức lời nói trực tiếp hay gián tiếp; là phương tiện bộc lộ ý nghĩ, tâm trạng, cá tính của nhân vật trong từng tình huống cụ thể, góp phần thể hiện phẩm chất, tính cách nhân vật.

    Lời nhân vật là ngôn ngữ độc thoại hay đối thoại gắn với ý thức, quan điểm, giọng điệu của chính nhân vật.

    • Lời đối thoại là lời các nhân vật trao đổi với nhau trong một cuộc hội thoại. Trong ngôn ngữ viết, lời đối thoại thường được đặt sau dấu gạch ngang đầu dòng hoặc đặt trong dấu ngoặc kép.

    • Lời độc thoại là lời của nhân vật nói với chính mình hoặc nói với một người nào đó trong tưởng tượng. Độc thoại thường diễn tả suy nghĩ, tình cảm đang diễn ra trong nội tâm nhân vật. Nếu văn bản dẫn trực tiếp lời độc thoại thì lời độc thoại được đặt sau dấu gạch ngang đầu dòng hoặc đặt trong dấu ngoặc kép. Nếu lời độc thoại chỉ được dẫn gián tiếp thì không dùng các dấu gạch ngang đầu dòng hoặc ngoặc kép.

    Lời đối thoại và lời độc thoại đều góp phần thể hiện rõ thái độ, tình cảm, đặc điểm và tính cách nhân vật.

    Từ điểm nhìn và hệ thống lời người kể chuyện, lời nhân vật, các phương diện của bức tranh đời sống và nhân vật được hiển hiện để người đọc tri nhận.

    + Trong văn bản tự sự, đặc biệt ở các thể loại tự sự hiện đại, lời người kể chuyện và lời nhân vật có khả năng kết nối, cộng hưởng, giao thoa với nhau tạo nên một số hiện tượng đặc biệt về lời văn như:

    • Lời nửa trực tiếp (lời của người kể chuyện nhưng tái hiện ý thức, giọng điệu của nhân vật),

    • Lời độc thoại nội tâm (tái hiện tiếng nói bên trong của nhân vật),

    • Lời nhại (lời mô phỏng quan điểm, ý thức của nhân vật với chủ ý mỉa mai hay bông đùa,...).

................................

................................

................................

Xem thử

Để học tốt lớp 10 các môn học sách mới:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH ĐỀ THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Bộ đề ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn có đáp án chi tiết của chúng tôi được biên soạn bám sát cấu trúc đề thi vào 10 môn Văn của các tỉnh, thành phố trên cả nước.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Đề thi, giáo án lớp 9 sách mới các môn học