Đề cương ôn tập Học kì 2 Ngữ Văn 9 Cánh diều

Bộ đề cương ôn tập Học kì 2 Ngữ Văn 9 Cánh diều với các dạng bài đa dạng có lời giải chi tiết giúp học sinh lớp 9 nắm vững được kiến thức cần ôn tập để đạt điểm cao trong bài thi Văn 9 Học kì 2.

Đề cương ôn tập Học kì 2 Ngữ Văn 9 Cánh diều

Xem thử

Chỉ từ 80k mua trọn bộ đề cương ôn tập Học kì 2 Ngữ Văn 9 Cánh diều theo cấu trúc mới bản word có lời giải chi tiết:

Quảng cáo

Nội dung kiến thức Văn 9 Học kì 2 Cánh diều

I. NỘI DUNG KIẾN THỨC CẦN ÔN TẬP

1. Văn bản:

- Nhận biết và phân tích được chủ đề, thông điệp mà văn bản truyện truyền kì, truyện trinh thám muốn gửi đến người đọc thông qua một số yếu tố hình thức nghệ thuật như: không gian, thời gian, chi tiết, cốt truyện, nhân vật chính, lời người kể chuyện,…; thấy được tác động của văn bản đối với người đọc.

- Nhận biết và phân tích được nét độc đáo về hình thức của bài thơ tám chữ hoặc thơ tự do thể hiện qua kết cấu, bố cục, ngôn ngữ, biện pháp tu từ,…; nhận biết và phân tích được cảm hứng chủ đạo, tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của người viết trong văn bản.

- Nhận biết, phân tích được đặc điểm của văn bản, tác dụng của các trình bày thông tin trong các văn bản giới thiệu một di tích lịch sử và bài phỏng vấn; liên hệ, vận dụng được những điều đã đọc từ văn bản để giải quyết một vấn đề trong cuộc sống.

- Nhận biết và phân tích được một số yếu tố quan trọng (cốt truyện, xung đột, nhân vật, lời nhân vật, lời người kể chuyện,… và đề tài, chủ đề, tư tưởng, tình cảm, thái độ của tác giả,…) trong các văn bản bi kịch và truyện.

- Phân tích được mối liên hệ giữa luận đề, luận điểm, lí lẽ và bằng chứng; phân biệt được cách trình bày vấn đề khách quan và chủ quan của người viết. Hiểu được lí do người đọc có những cách tiếp nhận khác nhau về cùng một vấn đề đặt ra trong văn bản.

Quảng cáo

a. Truyện truyền kì

Nội dung

Kiến thức

1. Khái niệm

Truyện truyền kì là thể loại văn xuôi tự sự có nguồn gốc từ Trung Quốc, kể về những chuyện kì ảo, hoang đường.

2. Cốt truyện

Cốt truyện thường được xây dựng trên những câu chuyện trong dân gian.

3. Nhân vật

Nhân vật chính chủ yếu là những người bình dân, người trí thức, quan lại, thương nhân, ca nữ,... Có một số nhân vật như thần, phật, vua, quan, ma quỷ,... nhưng cũng được khắc hoạ ở phương diện con người cá nhân, đời thường,… 

4. Yếu tố kì ảo

- Điểm nổi bật ở truyện truyền kì là sử dụng nhiều yếu tố kì ảo nhưng nội dung của truyện lại thường là những vấn đề của đời sống nhân sinh (hạnh phúc gia đình, tình yêu nam nữ,...). 

- Không gian, thời gian, sự việc, con người,… có sự kết hợp giữa những chi tiết có thật với không có thật. 

5. Không gian, thời gian

Trong truyện, không gian cõi trần và cõi âm, con người và thánh thần, ma quỷ có sự hoà trộn, kết nối. Con người có thể chết đi, sống lại, khi ở dương gian, lúc ở địa phủ; có thể “phiêu diêu trong thế giới ảo huyền ở cả bốn cõi không gian… và hành trình trong thời gian phi tuyến tính”.

Quảng cáo

b. Truyện trinh thám

Nội dung

Kiến thức

1. Khái niệm

Truyện trinh thám là truyện viết về việc điều tra, khám phá các vụ án hoặc những bí mật cần được đưa ra ánh sáng. 

2. Cốt truyện

Truyện thường bắt đầu bằng một sự việc bất ngờ hoặc tình huống gay cấn (ví dụ: án mạng, mất tích, mất trộm,…), kế đó là những diễn biến căng thẳng, kịch tính để rồi tất cả được giải quyết ở phần cuối của câu chuyện.  Đó cũng là thời điểm sự thật được hé lộ, bản chất của sự việc được phơi bày và kẻ gây án sẽ bị vạch trần, bắt giữa hoặc thậm chí bị tiêu diệt. 

3. Nhân vật

Nhân vật chính của truyện trinh thám thường là các thám tử hoặc điều tra viên. Nhìn chung, họ là những người có khát vọng truy tìm sự thật, dám đấu tranh cho lẽ phải, kiên quyết chống lại cái ác, cái xấu; đặc biệt, họ có óc quan sát tinh tường, rất giàu trí tưởng tượng, biết tìm kiếm, kết nối, tổng hợp thông tin và giỏi phán đoán, suy luận lô gích.

c. Thơ tám chữ

Nội dung

Kiến thức

1. Khái niệm

Thơ tám chữ là thể thơ trong đó mỗi dòng thơ có tám chữ (tiếng), ngắt nhịp đa dạng, gieo vần theo nhiều cách khác nhau nhưng phổ biến nhất là vần chân. Bài thơ tám chữ có thể gồm nhiều đoạn dài với số dòng không hạn định hoặc có thể được chia thành các khổ.

2. Ví dụ

Ở đoạn thơ dưới đây, mỗi dòng thơ đều có tám chữ; các dòng thơ chủ yếu gieo vần chân; nhịp thơ linh hoạt, có thể là nhịp 2/6, 3/5, 4/4, 3/2/3…

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

(Thế Lữ)

Quảng cáo

d. Thơ tự do

Nội dung

Kiến thức

1. Khái niệm

Thơ tự do là thể thơ không có quy định bắt buộc về số dòng trong bài và số chữ ở mỗi dòng, về vần, luật bằng trắc và nghịp điệu. Tất cả các yếu tố này đều có thể thay đổi tuỳ thuộc vào mục đích của người viết.

2. Ví dụ

Trong đoạn thơ sau, số chữ trong mỗi dòng thơ không đều nhau, các dòng thơ gieo vần hỗn hợp; nhịp thơ thay đổi qua từng dòng thơ và bỏ qua các nguyên tắc viết hoa thông thường:

chúng tôi qua cái khắc nghiệt mùa khô

qua mùa mưa mùa mưa dai dẳng

võng mắc cột tràm đêm ướt sũng

xuồng vượt sông dưới pháo sáng nhạt nhoà

đôi lúc ngẩn người một ráng đỏ chiều xa

quên đời mình thêm tuổi mới

chân dép lốp đạp mòn trăm ngọn núi

mà không hề rợp bóng xuống tương lai

(Thanh Thảo)

................................

................................

................................

Các dạng bài Văn 9 Học kì 2 Cánh diều

II. MỘT SỐ DẠNG BÀI TẬP MINH HỌA

1. Dạng 1: Đọc – hiểu

Bài tập 1. Đọc ngữ liệu sau và trả lời câu hỏi:

NGƯỜI PHẢI CHẾT

Lược dẫn: Mọi người tập trung rất đông ở trước Đông Dương đại học đường để chờ đón vị bác sĩ trẻ tài ba Trần Thế Đoàn nhưng đã quá giờ mà chưa thấy anh ta đâu. Có người cho rằng “Anh này có vẻ một danh nhân muốn cho mọi người chờ đợi mình...” Trong số những người đứng chờ ở đó có một phóng viên trẻ tuổi – Lê Phong. Không để ý đến vẻ náo động của đám đông, anh ta cứ đi đi lại lại một cách lơ đãng, thỉnh thoảng đứng lại biên mấy chữ lên một cuốn sổ tay. Rồi lại thản nhiên lững thững đi trong phòng như đi giữa chỗ vắng. Tuy vậy, ai nhận kỹ, cũng thấy đôi mắt anh ta vẫn tinh nhanh và quan sát từng cử chỉ của mọi người, quan sát rất chóng nhưng rất chu đáo. Nét mặt linh động với cái miệng mím lại chốc chốc thoáng qua. Rồi người bác sĩ họ Trần cũng đến, một cuộc phỏng vấn chớp nhoáng trong 3 phút đã diễn ra….

Người thiếu niên bỗng hỏi một câu đột nhiên:

- Lúc nãy ông ở nhà viết một bức thư dài phải không? Ông cần viết đến nỗi chút nữa thì lỡ mất một việc quan trọng là hôm nay có cuộc phát bằng long trọng.

Đoàn kinh ngạc nhìn người thiếu niên thì anh ta tiếp:

- Mà lại vừa nhận được một bức thư lạ, một bức thư làm cho ông bối rối có phải không?

Vẻ kinh ngạc của Đoàn lại càng rõ rệt, nhưng người thiếu niên cứ bình tĩnh nói, tiếng hạ thấp, có ý chỉ riêng Đoàn nghe.

- Thưa ông, bức thư ấy nói những gì, xin ông cho biết.

Bây giờ Đoàn mới trấn định được tâm trí, hỏi lại người thiếu niên:

- Những điều ấy có liên lạc gì với việc ông phỏng vấn tôi?

- Vâng! Không có liên lạc gì, hay chỉ liên lạc ít thôi, nhưng đó là điều rất quan hệ. Thưa ông Trần Thế Đoàn, xin ông nghe tôi và trả lời cho tôi rành mạch. Ông có những kẻ thù ghê gớm toan hại ông, những kẻ thù ấy ông có biết không và nếu biết, ông có rõ được một chút gì về mưu mô của họ không?

Đoàn lúc ấy lại nhìn người thiếu niên một cách rất kỳ dị,chưa kịp đáp thì anh ta lại nói:

- Xin ông cho biết, đó là những điều cực kỳ quan trọng, vì. . .

Đoàn bỗng hỏi:

- Nhưng ông là ai?

- Tôi là phóng viên báo “Thời Thế”.

- Vâng. Nhưng là người... Tên ông là gì?

- Tên tôi là Lê Phong, và là người rất có cảm tình với ông.

- Ông Lê Phong! Tôi vẫn biết tiếng ông... Tôi định đến thăm ông để hỏi những việc riêng và cần ông giúp.

Lê Phong đáp:

- Càng hay, vì những việc riêng ấy chính lúc này là lúc ông nên nói ra.

- Không, tôi không nói ở đây được xin mời ông lại chơi nhà hay chốc nữa ra, tôi sẽ xin đến báo "Thời Thế”. Bây giờ (Đoàn nhìn đồng hồ) bây giờ gần đến giờ rồi, xin lỗi ông. À mà tại sao ông biết?

- Biết gì kia?

- Biết các điều ông hỏi tôi. Ông biết từ bao giờ?

-Vừa rồi.

-...?...

- Vâng. Vết mực ở ngón tay ông, ông viết bức thư dài, ông chưa kịp rửa tay, và đến muộn, còn bức thư mới nhận được, ông nhét nó vào túi áo một cách cũng vội vã đến nỗi để tôi trông thấy mé phong bì nhô lên. . . Còn về những kẻ thù của ông thì tôi cũng vừa mới thấy trong lúc tôi nói chuyện với ông, tôi vẫn để ý đến hai người lạ mặt đứng cách đây ngót 10 thước và nhìn ông một cách hằn học không biết ngần nào. Chúng lẩn xa rồi.

Nhưng tôi vẫn nhận được: một người ăn vận quần áo tím thẫm, đeo kính trắng, quấn phu la tuy trời không rét lắm, còn người kia thì rỗ hoa mặc quần áo màu tro, cao lớn, và cụt một tay.

Đoàn kêu sẽ lên một tiếng:

- Trời ơi! Người cụt tay?

- Vâng cụt tay trái, tay ấn thọc luôn vào túi, nhưng tôi vẫn chú ý nên không giấu được tôi...

Đoàn nhắc đi nhắc lại:

- Người cụt tay? Trời ơi! Tôi hiểu rồi, suốt mấy ngày nay, khi ở trường ra, khi sắp bước vào nhà, khi đi xem chiếu bóng hay ở hiệu cao lâu, lúc nào cũng vậy, ở đâu cũng vậy, tôi thường gặp hắn, tôi cũng chú ý đến cái tay cụt ấy, nhưng tôi không ngờ gì... Đến bây giờ...

Mặt Đoàn tái xanh đi. Chàng hốt hoảng nhìn ra, không trả lời những tiếng chào hỏi của những người bạn qua đấy như trước nữa. Chàng thốt nhiên nắm lấy tay Lê Phong:

- Ông Lê Phong, nếu vậy thì tính mệnh tôi nguy mất, tính mệnh tôi nguy thật, ông. . . Tôi nhờ ông tìm giúp kẻ thù tôi nhé . . .ông ngăn cản hộ, tôi biết chỉ ông ngăn cản nổi...

Giọng nói mỗi lúc một thêm van vỉ:

- Vâng, xin ông giúp tôi, ông cứu tôi... Trời! Đến lúc này,việc tôi sắp thành, kết quả gần thấy rồi, mà... Hôm nay là một ngày quan trọng trong đời tôi, nhưng tôi cũng không được vui mấy.

- Thế ra ông biết cách hành động của kẻ thù đã lâu.

- Tôi biết gì? Có lẽ tôi ngờ thôi... Tôi vẫn ngờ rằng có kẻ muốn hại tôi, nhưng mãi hôm nay, mãi lúc này, tôi mới biết rõ.

-Thế sao ông không đi trình sở Liêm phóng?

- Tôi cũng định thế, nhưng xét ra có điều bất tiện. Ông Lê Phong, ông tìm ra nhé! ông đi bắt ngay hộ hai đứa nhé. Tôi đến điên cuồng lên mất?

Lê Phong ôn tồn nói:

- Đi bắt! Tôi chỉ là người nhà báo. . . Vả lại chúng nó không ở đây nữa, chúng hẳn tránh xa rồi.

- Ông chắc không?

Lê Phong toan trả lời "Tôi đoán thế”. Nhưng muốn an ủi Đoàn, anh ta nói:

- Chắc. Nhưng ông vẫn phải đề phòng cẩn thận. Bây giờ xin ông cứ yên tâm vào giảng đường vì hình như đến giờ rồi. À quên, ông đứng lại để tôi chụp ông bức ảnh.

Bấm xong bức ảnh. Lê Phong bắt tay người thiếu niên bác sĩ lúc đó vừa có người ra gọi, rồi lững thững đến ngồi lên một cái ghế dài gần cửa, cặm cụi viết lên cuốn sổ tay.

Anh ta vừa viết được cái đầu đề:

- “Một cuộc phỏng vấn vội vàng. Mấy phút cùng thiếu niên bác sĩ Trần Thế Đoàn, một nhà thông thái kỳ dị...”

Bỗng đập tay xuống ghế chép miệng:

- Ồ ngốc chưa ! Vội gì thì vội, nhưng quên không xem bức thư lạ lùng kia thì ngu thực...

Ngẫm nghĩ một lát, lấy đồng hồ xem. Lê Phong toan đứng dậy, nhưng vẫn ngồi yên. Anh tắc lưỡi một cái, rồi viết rất nhanh, vừa viết vừa đưa mắt nhìn mấy người đến chậm vội vã bước vào giảng đường.

Lúc bốn trang giấy nhỏ đã đầy chữ. Lê Phong bước ra ngoài, đến bên một người ghếch xe đạp đợi ở vệ đường, đưa cái "Tin" mới xé ở sổ tay ra cho hắn và dặn:

- Anh về ngay tòa báo, bảo sửa qua bài tôi viết, rồi đăng ngay, cần lắm. Trang nhất, đầu đề rất to, mau lên cho kịp số hôm nay.

Rồi ngoắt quay vào, anh lẩm bẩm nói một cách rất sung sướng:

- Nào! Lê Phong, đem hết sức hết trí ra! Câu chuyện không đến nỗi tầm thường lắm.

Sắp bước lên thang để vào chỗ dành riêng cho các phóng viên, Lê Phong chợt để ý đến một mảnh giấy nhỏ rơi dưới đất. Anh nhặt lên và bất giác kêu lên một tiếng sẽ: “Ô! lạ chưa!”.Trên mảnh giấy có mấy hàng chữ này, lối chữ in hoa, vạch bằng bút chì:

“Lê Phong, anh coi chừng đó, đừng dúng tay vào việc này mà mang họa. Hôm nay Trần Thế Đoàn phải chết, nhưng anh không được tìm, được hiểu, được trông thấy, nghe thấy một điều gì”.

(Trích Thế Lữ, Mai Hương và Lê Phong, 1939)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Thể loại của văn bản có chứa đoạn trích trên? Cơ sở nào khiến em nhận định như vậy?

Câu 2. Truyện được kể bằng ngôi kể thứ mấy? Tác dụng của việc sử dụng ngôi kể đó?

Câu 3. Nhân vật chính trong đoạn truyện trên là ai? Dựa vào văn bản đọc, em hãy chia sẻ những hiểu biết của mình về nghề phóng viên?

Câu 4. Theo em nhan đề của văn bản hé lộ điều gì?

Câu 5. Nhân vật thám tử Lê Phong đã thể hiện những đặc điểm gì của nhân vật chính trong truyện trinh thám? Làm rõ ý kiến của em bằng những chi tiết trong văn bản.

Câu 6. Từ nội dung của câu chuyện, em rút ra bài học gì cho bản thân?

Bài tập 2. Đọc ngữ liệu sau và trả lời câu hỏi:

Mau với chứ, vội vàng lên với chứ,

Em, em ơi, tình non đã già rồi;

Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,

Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi.

Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới;

Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa.

Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ,

Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết!

Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt;

Những vườn xưa, nay đoạn tuyệt dấu hài;

Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai;

Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.

 

Vừa xịch gối chăn, mộng vàng tan biến;

Dung nhan xê động, sắc đẹp tan tành.

Vàng son đương lộng lẫy buổi chiều xanh,

Quay mặt lại: cả lầu chiều đã vỡ.

 

Vì chút mây đi, theo làn vút gió.

Biết thế nào mà chậm rãi, em ơi? 

(Trích “Giục giã”, Xuân Diệu, “Gửi hương cho gió”, NXB Hội nhà văn, 1992)

Câu 1. Xác định thể thơ được sử dụng trong đoạn trích trên.

Câu 2. Xác định cách ngắt nhịp chủ yếu được sử dụng trong đoạn thơ trên.

Câu 3. Chỉ ra những cặp hình ảnh, từ ngữ đối lập được sử dụng trong những câu thơ: 

Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới;

Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa.

Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ,

Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết!

Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt;

Những vườn xưa, nay đoạn tuyệt dấu hài;

Câu 4. Chỉ ra những từ ngữ thể hiện sự giục giã của “anh” trong đoạn thơ trên.

Câu 5. Ý nghĩa của việc sử dụng các cặp hình ảnh, từ ngữ đối lập được sử dụng trong những câu thơ sau:

Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới;

Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa.

Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ,

Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết!

Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt;

Những vườn xưa, nay đoạn tuyệt dấu hài;

Câu 6. Tác dụng của biện pháp nghệ thuật đối được sử dụng trong những câu thơ sau:

Vừa xịch gối chăn, mộng vàng tan biến;

Dung nhan xê động, sắc đẹp tan tành.

Vàng son đương lộng lẫy buổi chiều xanh,

Quay mặt lại: cả lầu chiều đã vỡ.

Câu 7. Trong đoạn thơ trên, nhân vật trữ tình đã bộc lộ những tình cảm, cảm xúc gì?

Câu 8. Anh/ chị có nhận xét gì về nhịp điệu, giọng điệu của đoạn thơ trên?

Câu 9. Qua đoạn thơ trên, tác giả muốn bộc lộ quan niệm sống như thế nào?

Câu 10. Anh/chị cần làm gì để quỹ thời gian của mình không trôi qua một cách hoài phí?

................................

................................

................................

Xem thử

Xem thêm đề cương ôn tập Ngữ Văn 9 Cánh diều có lời giải hay khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH ĐỀ THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Đề thi các môn học lớp 9 năm học 2023-2024 học kì 1 và học kì 2 được biên soạn bám sát cấu trúc ra đề thi mới Tự luận và Trắc nghiệm giúp bạn giành được điểm cao trong các bài thi lớp 9.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Đề thi, giáo án lớp 9 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên