(Siêu ngắn) Soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 2 (trang 118, 119, 120, 121 lớp 10) - Cánh diều

Bài viết soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 2 trang 118, 119, 120, 121 lớp 10 siêu ngắn gọn sách Ngữ văn 10 Cánh diều giúp học sinh lớp 10 dễ dàng soạn văn 10.

(Siêu ngắn) Soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 2 (trang 118, 119, 120, 121 lớp 10) - Cánh diều

Quảng cáo

I. Đọc hiểu:

Yêu cầu (trang 118 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2):

a) Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu (từ câu 1 đến câu 6) bên dưới:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất nước có từ ngày đó…

(Trích trường ca “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm)

Quảng cáo

Câu 1 (trang 119 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Đặc điểm nổi bật của mạch cảm xúc trong đoạn thơ trên là gì?

A. Giàu tính tự sự

B. Thiên về giới thiệu

C. Đậm màu sắc miêu tả

D. Giàu chất triết lí, suy tưởng

Đáp án: D.

Câu 2 (trang 119 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Đoạn thơ trên có đặc điểm như thế nào?

A. Không vần, có nhịp, không có hình ảnh

B. Không vần, có nhip, giàu chất liệu dân gian

C. Không vần, không nhịp, không biện pháp tu từ

D. Không vần, không nhịp, nhiều biện pháp tu từ

Đáp án: B.

Quảng cáo

Câu 3 (trang 119 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Cải “ngày xửa ngày xưa” trong câu thơ “Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể” được hiểu là gì?

A. Là câu chuyện cổ mẹ thường hay kể

B. Là câu chuyện hằng ngày của mẹ

C. Là lời ru của mẹ khi con còn nhỏ

D. Là câu ca xưa cũ mẹ khuyên nhủ con

Đáp án: A.

Câu 4 (trang 119 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Hai câu thơ “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn / Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” nhắc ta nhớ đến câu chuyện cổ nào?

A. Sự tích trầu cau và Sự tích ông bình vôi

B. Truyện Thánh Gióng và Cây tre trăm đốt

Quảng cáo

C. Sự tích ông bình vôi và Cây tre trăm đốt

D. Sự tích trầu cau và truyện Thánh Gióng

Đáp án: D.

Câu 5 (trang 120 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Dòng thơ nào sử dụng thành ngữ?

A. Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

B Cái kèo, cái cột thành tên

C. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

D. Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đáp án: C.

Câu 6 (trang 120 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Nêu nội dung chính của đoạn thơ trên trong khoảng 3 – 4 dòng.

Trả lời:

Lí giải nguồn gốc của đất nước. Đó là một Đất Nước không trừu tượng mà cụ thể, chứa đựng mơ ước, khát vọng, quan niệm về vẻ đẹp phẩm chất của tâm hồn dân tộc. Gương mặt Đất Nước hiện lên thật sống động, lung linh: trong cuộc sống, trong lao động và trong chiến đấu…

b) Đọc đoạn trích sau và làm các bài tập ở bên dưới:

Nguyễn Trãi đã dùng văn học phục vụ chiến đấu, viết văn để đánh giặc. Văn chính luận của ông có nội dung yêu nước sâu sắc và tính chiến đấu cao, Quân trung từ mệnh tập “có sức mạnh như mười vạn quân” (Phan Huy Chú), từng đợt tiến công mãnh liệt vào kẻ thù. Bình Ngô đại cáo cháy bỏng khát vọng chiến đấu cho độc lập dân tộc, bừng dậy hung khí của những năm “đoạt sáo, cầm Hồ”, trào dâng khí thế chiến đấu và chiến thắng của những năm tháng “Bình Ngô phục quốc”. Trong Quân trung từ mệnh tập, Nguyễn Trãi đã dùng trí mưu để phân tích thời – thế – lực nhằm chứng minh ta nhất định thắng, địch nhất định thua. Nguyễn Trãi đã vận dụng đạo lí lên án vua quan triều Minh về tội ác xâm lược, dối trá, tàn bạo,... tuyên dương nghĩa quân về việc làm chính nghĩa, quang minh chính đại, trung thực, khoan hồng,... Sức mạnh chiến đấu của văn chính luận Nguyễn Trãi là sức mạnh của chiến lược “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”, của sự ưu thắng khi phân tích về thời – thế – lực. Từ nhu cầu “tâm công” và từ nhận thức về tính năng chiến đấu của văn chương, với tinh thần chiến đấu không mệt mỏi, không khoan nhượng, trên những điểm căn bản và tuân theo một sách lược linh hoạt, Nguyễn Trãi đã viết thư giảng cho địch những đòn tới tấp, đánh cho kẻ địch phải thua trên mặt trận tư tưởng. Chiến đấu là tính đặc thù của văn chính luận dân tộc. Nhưng chiến đấu ngoan cường, trực diện, tập trung, thường xuyên và có hiệu quả cao, xuất phát từ trí tuệ nhạy bén, tình cảm chân thành và nhất là từ ý thức dùng văn chương làm vũ khí “mạnh như vũ bão, sắc như gươm dao” (Phạm Văn Đồng), thì chỉ có thể tìm thấy sớm nhất trong văn chính luận Nguyễn Trãi.

(BÙI DUY TÂN, in trong Nguyễn Trãi, Về tác gia tác phẩm,

NXB Giáo dục, 1999)

Câu 1 (trang 120 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Văn bản trên viết về vấn đề gì? Tóm tắt trong khoảng 3 – 4 dòng.

Trả lời

Nguyễn Trãi đã dùng văn học để phục vụ vào công cuộc chiến đấu. Những tác phẩm như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo đều thể hiện khát khao chiến đấu giành lại độc lập của dân tộc.

Câu 2 (trang 120 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Nêu các biểu hiện cụ thể giúp em nhận biết được phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.

Trả lời:

Tác giả đưa ra ý kiến đánh giá, bàn luận để thuyết phục người đọc.

Câu 3 (trang 121 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Đoạn trích trên được triển khai theo kiểu diễn dịch, quy nạp hay tổng - phân - hợp? Em dựa vào đâu để xác định cấu trúc ấy?

Trả lời:

- Đoạn trích trên được triển khai theo kiểu diễn dịch.

- Em dựa vào cách tác giả trình bày đâu để xác định cấu trúc: tác giả nêu câu chủ đề, lấy dẫn chứng chứng minh cho vấn đề.

Câu 4 (trang 121 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Nêu nhận xét của em về nội dung và hình thức của đoạn trích (trình bày khong khoảng 8 – 10 dòng).

Trả lời:

Đoạn văn đã thể hiện được tài năng của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi đã dùng văn học để phục vụ vào công cuộc chiến đấu. Những tác phẩm như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo đều thể hiện khát khao chiến đấu giành lại độc lập của dân tộc. Những tác phẩm ra đời với mục đích đánh cho địch phải thua trên mặt trận tư tưởng, Nguyễn Trãi đã dùng ngòi bút, dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu.

II. Viết:

Yêu cầu (trang 121 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Chọn một trong hai để sau để viết thành bài văn ngắn:

Đề 1. Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai.

Đề 2. Phân tích một vấn đề xã hội mà em thấy có ý nghĩa đặt ra trong các tác phẩm truyện hoặc thơ đã học trong sách Ngữ văn 10, tập hai.

Bài viết mẫu tham khảo:

Đề 1. Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai.

"Kiêu binh nổi loạn" là một trong những đoạn trích nổi bật của tiểu thuyết chương hồi "Hoàng Lê nhất thống chí" do nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái sáng tác. Trích đoạn "Kiêu binh nổi loạn" thuộc hồi thứ hai của tác phẩm, xoay quanh việc kiêu binh làm loạn, giết chết anh em nhà Quận Huy, phế truất Trịnh Cán và đưa Trịnh Tông lên ngôi chúa. Văn bản đã tái hiện lại một cách sinh động tình cảnh khủng hoảng của xã hội lúc bấy giờ.

Mở đầu đoạn trích, Trịnh Tông hỏi Dự Vũ về việc bên ngoài lòng người ra sao. Vốn có thù với Quận Huy, Dự Vũ thuận nước, đẩy thuyền "Nhà chúa bỏ con cả, lập con út, thiên hạ đều căm ghét, nhất là quân lính lại càng bất bình". Câu nói của Dự Vũ đã phơi bày toàn bộ hiện thực trong phủ chúa cũng như xã hội. Trong triều đại phong kiến, ngôi vua thường được trao truyền cho con cả, cũng là đích tử. Tuy nhiên, hành động "bỏ trưởng lập thứ" của chúa Trịnh khiến lòng người không phục, lại thêm hành động đàn áp của Quận Huy càng thổi bùng lên cơn tức giận của dân chúng. Cũng như Dự Vũ, Gia Thọ bày kế cho thế tử: "Lòng người như thế, nếu lấy nghĩa khí mà khích động, khiến cho họ một lòng tôn phù, thì việc lớn ắt thành". Nghe theo lời hai người, Trịnh Trông cho Dự Vũ làm cơm rồi khích động tinh thần của đám kiêu binh. Hành động của Trịnh Tông, Dự Vũ và Gia Thọ chỉ chứng minh họ là những kẻ hèn nhát, "ném đá giấu tay", mượn tay người để làm được việc của mình.

Đúng như dự đoán, những lời của Trịnh Tông đã đánh trúng vào suy nghĩ và mong muốn của đám kiêu binh. Mọi người ai nấy đều đồng thuận "Nay vương tử đã ngỏ ý cho biết như thế, thì việc này chẳng khó gì.". Trước lúc nổi loạn, quân lính họp bàn, Bằng Vũ đứng ra khởi xướng. Thấy lời Bằng Vũ thuyết phục, cả bọn bầu hắn làm chủ mưu, "giao cho gã đánh trống trước để thúc giục ba quân". Lời nói của Bằng Vũ càng khiến cho tinh thần của đám kiêu binh trở nên sục sôi. Trong lúc đó, Quận Huy biết tai họa sắp xảy ra nhưng vẫn không chút phòng bị. Người nhà khuyên hắn nên bế tân chúa đi trốn, "rồi gọi quân bên ngoài vào bắt bọn gian" nhưng Quận Huy để ngoài tai, cho đó là tin đồn nhảm. Quận Huy vì thiếu phòng bị và mưu lược nên mới nhận kết cục bi thảm sau đó.

Theo kế hoạch đã bàn tính trước, Bằng Vũ mở màn cuộc nổi loạn bằng ba hồi trống. Đám kiêu binh nghe thấy thì "nhảy nhót hăng hái, cùng câm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ". Khung cảnh lúc này trở nên hỗn loạn hơn bao giờ hết. Lúc ấy, cửa đóng then cài, đám người bị nhốt bên trong vẫn không ngừng hò reo, "quát tháo long trời lở đất". Quận Huy sai Quận Châu ra kiểm soát tình hình. Châu chỉ biết sợ hãi mà làm theo. Đứng trước lời đe dọa của đám người, Quân Châu sợ hãi mở cửa. Quận Huy làm tướng mà lực bất tòng tâm trước mũi nhọn của kẻ thù. Quả là hèn nhát làm sao. Được thời, đám người xông vào đập phá, tấn công vô cùng mạnh bạo. Để đàn áp quân lính, Quận Huy "giương cung định bắn nhưng bị đứt dây, vớ súng nạp đạn nhưng mồi lửa tịt không cháy". Rõ ràng, Quận Huy biết được mọi việc sẽ diễn ra nhưng không đề phòng, chuẩn bị, coi thường kẻ địch và đám đông. Quân lính được dịp dùng câu liếm móc cổ Quận Huy kéo xuống, đánh đấm túi bụi, giết chết tại chỗ. Đồng thời, lấy gạch đập vỡ đầu Hoàng Lương rồi vứt xuống hồ Thủy Quân. Có thể thấy, cuộc chiến đã được đẩy lên đỉnh điểm cùng với sự tức giận, bất mãn của đám người. Họ ra tay không chút đắn đo, vô cùng ghê rợn, tàn nhẫn. Những chi tiết trên đã cho thấy sức mạnh kinh hoàng của đám đông.

Kết cục, anh em Quận Huy chết, Trịnh Tông lên ngôi chúa. Tuy nhiên, sau khi cuộc nổi loạn diễn ra, đám kiêu binh vẫn ngang nhiên làm càn, cưỡng bách chúa cũ, trả thù các đại thần một cách tàn nhẫn. Trịnh Tông bất lực, không thể kiểm soát, sai người lén đến bắt phứa dân thường để chém ra oai. Tuy nhiên, việc lùng người để giết vẫn xảy ra. Trịnh Tông lên làm chúa, đứng đầu thiên hạ nhưng không có tài cán, không thể kiểm soát được tình hình khiến cho xã hội vẫn không ngừng biến loạn, đảo điên.

Như vậy, tác phẩm đã tái hiện lại một giai đoạn lịch sử đầy hỗn loạn vào thời Trịnh Sâm. Đồng thời, cho thấy sức mạnh của đám đông. Đám đông có thể đưa một người lên cao nhưng cũng có thể phế truất họ bất cứ lúc nào. Ngoài ra, đoạn trích còn gửi gắm bài học về sự đề phòng, cảnh giác trước nanh vuốt của kẻ thù. Bên cạnh nội dung, các yếu tố nghệ thuật cùng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm. Tác giả đã vận dụng linh hoạt yếu tố tự sự kết hợp với miêu tả cùng lối kể hấp dẫn để câu chuyện hiện lên một cách sinh động, cụ thể. Các sự kiện được kể theo trình tự hợp lí, rành mạch. Biện pháp nghệ thuật so sánh, đối lập độc đáo. Tính cách, đặc điểm của nhân vật được khắc họa thông qua lời nói và hành động.

Như vậy, đoạn trích "Kiêu binh nổi loạn" đã phơi bày sự thối nát của phủ chúa và thái độ căm phẫn của đoàn kiêu binh với chúa Trịnh và Quận Huy. Chỉ qua một đoạn trích ngắn nhưng tác giả đã phản ánh được tình hình xã hội dưới thời chúa Trịnh. Đồng thời, gửi đến những bài học lớn lao, ý nghĩa.

Đề 2. Phân tích một vấn đề xã hội mà em thấy có ý nghĩa đặt ra trong các tác phẩm truyện hoặc thơ đã học trong sách Ngữ văn 10, tập hai.

Trả lời:

Mẫu 1: Văn bản “Bản sắc là hành trang” là văn bản nghị luận để tôn vinh những nét đặc sắc trong bản sắc văn hóa dân tộc. Bên cạnh việc tiếp thu văn hóa, hội nhập và toàn cầu hóa, chúng ta vẫn phải giữ được những nét riêng biệt, giữ gìn bản sắc riêng cho dân tộc là nhiệm vụ của tất cả chúng ta. Văn bản cũng đặt ra nhiều vấn đề xã hội có ý nghĩa. Qua văn bản chúng ta ý thức được rõ ràng hơn về tầm quan trọng của vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng thời có cái nhìn mới mẻ về việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu: coi bản sắc là một giá trị, lợi thế để hội nhập, cạnh tranh. Mượn xu hướng toàn cầu hóa, hiện đại hóa để bảo tồn và khơi dậy tiềm năng của bản sắc văn hóa dân tộc. Nương vào xu thế hội nhập để trường tồn hóa, vĩnh cửu hóa bản sắc văn hóa của cộng đồng. Mỗi chúng ra cần biết học tập, rèn luyện để trở thành một công dân toàn cầu, nhưng trước hết phải là một con người Việt Nam. Hai con người trong một con người này không được xung đột mà phải tương hỗ để cùng phát triển. Cần học để hiểu chính mình cũng như cần học để hiểu thế giới. Cần biết rõ lợi thế cũng như hạn chế của bản thân và cộng đồng một cách trung thực, khách quan; nắm được những mặt tích cực và tiêu cực của toàn cầu hóa để có phương châm và hành động phù hợp, hiệu quả.

Mẫu 2: Bản sắc văn hóa dân tộc là giá trị cốt lõi nhất của nền văn hóa, thể hiện tâm hồn, cốt cách, tình cảm, lý trí, sức mạnh của dân tộc, tạo nên chất keo kết nối các cộng đồng người gắn bó, đoàn kết với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Những giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những động lực to lớn đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của quốc gia dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành, phát triển gắn liền với lịch sử dựng nước, giữ nước và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng hòa những giá trị văn hóa bền vững, phản ánh diện mạo, sắc thái, cốt cách, tâm hồn, tâm lý ... của một dân tộc, được thường xuyên hun đúc, bổ sung và lan tỏa trong lịch sử dân tộc, trở thành tài sản tinh thần đặc sắc, tạo nên sức mạnh gắn kết cộng đồng và để phân biệt sự khác nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác trong cộng đồng nhân loại. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực còn có mặt tiêu cực của nó đó là nguy cơ xói mòn, phai nhạt và biến dạng hệ thống giá trị trong bản sắc văn hóa dân tộc, sự du nhập của lối sống tư sản, suy giảm thuần phong mĩ tục, sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Những giá trị tinh hoa văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc được xây dựng và ghi nhận bởi những chiến công hi sinh thầm lặng của biết bao thế hệ người dân Việt Nam. Nó là kết tinh những gì là tinh túy nhất của dân tộc để rồi chính những giá trị đó lại lung linh tỏa sáng, soi sáng con đường chúng ta đi. Không chỉ bây giờ mà mãi mãi về sau những giá trị tinh hoa văn hóa của dân tộc sẽ là hành trang, động lực để cho thanh niên Việt Nam chúng ta tiến vào kỷ nguyên mới tô thắm nên truyền thống ngàn năm văn hiến của dân tộc.

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 10 Cánh diều siêu ngắn, hay khác:

Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 10 hay khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH LUYỆN THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 10

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi, sách dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 10 Cánh diều khác
Tài liệu giáo viên