Ôn thi vào lớp 10 Nói với con năm 2024

Ôn thi vào lớp 10 Nói với con năm 2024

Nhằm mục đích giúp học sinh nắm chắc kiến thức môn Ngữ văn lớp 9 để chuẩn bị tốt cho kì thi vào lớp 10 năm 2024, VietJack tổng hợp toàn bộ nội dung trọng tâm của tác phẩm Nói với con đầy đủ, chi tiết.

Bài thơ Nói với con 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Y Phương sinh năm 1948. Ông sinh ra và lớn lên trên mảnh đất thấm nhuần văn hóa, truyền thống của dân tộc Tày, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.

- Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu thuộc lớp các nhà thơ dân tộc miền núi.

- Cảm hứng chủ đạo trong thơ Y Phương là gia đình, quê hương, đất nước.

- Phong cách sáng tác: Ngôn ngữ thơ giản dị, hồn nhiên, in đậm lối tư duy của người vùng cao; hình ảnh phong phú, mang giá trị biểu tượng;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Nói với con” được sáng tác năm 1980, năm năm sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đó là giai đoạn mà đời sống vật chất lẫn tinh thần của nhân dân cả nước nói chung và đồng bào miền núi nói riêng còn rất nhiêu khó khăn, vất vả.

- Y Phương tâm sự: “Đó là thòi diêm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn... Bài thơ là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng. Tâm sự với con, còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lí do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bây giờ đang hối hả, gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực, vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa”. Từ hiện thực khó khăn ấy, nhà thơ đã viết nên bài thơ này. Bài thơ như một lời tâm sự với chính mình để động viên mình, đồng thời để nhắc nhở cho các thế hệ mai sau.

- Bài thơ được in trong tập thơ “Thơ Việt Nam” (1945 - 1975).

b. Bố cục: Hai phần

- Phần một: Đoạn 1: Những cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con.

- Phần hai: Đoạn 2: Những phẩm chất cao quỳ của người đồng mình và lời khuyên của người cha.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Những cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con

• Trong những lời tâm tình, tác giả nói với con cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con trước hết là gia đình:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”

- Sử dụng hệ thống từ ngữ giàu giá trị tạo hình: “chân phải”, “chân trái”, “một bước”, “hai bước” gợi cho chúng ta liên tưởng đến những bước chân chập chững đầu tiên của một em bé trong sự vui mừng của cha mẹ.

- Thủ pháp liệt kê thứ nhất qua hình ảnh “tiếng nói”, “tiếng cười”:

+ Tái hiện được hình ảnh của một em bé đang ở lứa tuổi bi bô tập nói.

+ Gợi đến khung cảnh của một gia đình đầm ấm, hòa thuận luôn tràn đầy niềm vui, hạnh phúc, tràn đầy tiếng nói, tiếng cười.

- Thủ pháp liệt kê thứ hai qua hình ảnh “tới cha”, “tới mẹ”.

+ Tái hiện hình ảnh em bé đang chập chững tập đi, lúc thì sà vào lòng mẹ, khi lại níu lấy tay cha.

+ Gợi lên ánh mắt như đang dõi theo và vòng tay dang rộng đón đợi của cha mẹ.

- Nhịp thơ 2/3 với cấu trúc đối xứng đã tạo nên một âm điệu, không khí tươi vui và gợi đến một mái ấm gia đình đề huề, hạnh phúc.

    Lời thơ giản dị như một lời tâm tình thủ thỉ, Y Phương đã nói với con, gia đình chính là cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con. Vì thế, trên hành trình vạn dặm của cuộc đời, con không được phép quên.

• Cùng với gia đình, thì quê hương chính là mạch nguồn không thể thiếu nuôi dưỡng con khôn lớn và trưởng thành:

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken cảu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng”

- Quê hương được giới thiệu qua lối nói hình ảnh của người vùng cao - "người đồng mình”.

- Cách giới thiệu hình ảnh ấy lại đi liền với hô ngữ “con ơi” khiến lời của cha với con thật trìu mến, thân thương.

- Hệ thống hình ảnh giàu sức gợi:

+ “Đan lờ cài nan hoa”: tả thực công cụ lao động còn thô sơ được “người đồng mình” trang trí trở nên đẹp đẽ; gợi đôi bàn tay cần cù, khéo léo, tài hoa và giàu sáng tạo của “người đồng mình”, đã khiến cho những nan nứa, nan tre đơn sơ, thô mộc trở thành “nan hoa”.

+ “Vách nhà ken cảu hát”, tả thực lối sinh hoạt văn hóa cộng đồng, gia đình của “người đồng mình”, khiến cho những vách nhà như được ken dầy trong những câu hát si, hát lượn; gợi một thế giới tâm hồn tinh tế và tràn đầy lạc quan của người miền cao.

- Các động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả được động tác khéo léo trong lao động vừa gợi sự gắn bó của những “người đồng mình” trong cuộc sống lao động.

- Thủ pháp nhân hóa:

+ “Rừng cho hoa”, tả thực vẻ đẹp của những rừng hoa mà thiên nhiên, quê hương ban tặng; gợi sự giàu có và hào phóng của thiên nhiên, quê hương.

+ “Con đường cho những tẩm lòng”, gợi liên tưởng đến những con đường trở về nhà, về bản; gợi đến tấm lòng, tình cảm của “người đồng mình” với gia đình, quê hương, xứ sở.

- Điệp từ “cho” cho thấy tấm lòng rộng mở, hào phóng, sẵn sàng ban tặng tất cả nhưng gì đẹp nhất, tuyệt vời nhất của quê hương, thiên nhiên.

    Nếu như gia đình là cội nguồn sinh thành và dưỡng dục con, thì quê hương bằng văn hóa, lao động đã nuôi dưỡng và che chở cho con thêm khôn lớn, trưởng thành.

• Cuối cùng, tác giả tâm sự với con về kỉ niệm êm đềm, hạnh phúc nhất của cha mẹ. Bởi đó cũng là cội nguồn để sinh thành nên con:

“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”

- “Nhớ về ngày cưới”, là nhớ về kỷ niệm cho sự khởi đầu của một gia đình. Nó là minh chứng cho tình yêu và con chính là kết tinh từ tình yêu ấy.

- “Ngày đầu tiên đẹp nhất” đó có thể là ngày cưới của cha mẹ, nhưng cũng có thể là ngày đầu tiên con chào đời.

    Đoạn thơ là lời dặn dò, nhắn nhủ tâm tình của người cha về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con: Gia đình, quê hương chính là những nền tảng cơ bản để tiếp bước cho con khôn lớn, trưởng thành. Bởi vậy, con phải luôn sống bằng tất cả tình yêu và niềm tự hào.

2. Những phẩm chất cao quý của người đồng mình và lời khuyên của cha

a. Những phẩm chất cao quý của người đồng mình

• Trong lời tâm tình về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con, người cha đã khéo léo “đan”, “cài” những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình:

“Người đông mình thương lắm con ơi!

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn”

- Vẫn sử dụng lối nói hình ảnh cúa người vùng cao: “người đồng mình” để gợi lên sự gần gũi, thân thương trong một gia đình.

- Động từ “thương” đi liền với từ chỉ mức độ “lắm” để bày tỏ sự đồng cảm với những nỗi vất vả, khó khăn của con người quê hương.

- Hệ thống từ ngữ giàu sức gợi qua hai tính từ “cao”, “xa”:

+ Gợi liên tưởng đến những dãy núi cao, trùng điệp là nơi cư trú của đồng bào vùng cao.

+ Những tính từ này được sắp xếp theo trình tự tăng tiến, gợi những khó khăn như chồng chất khó khăn để thử thách ý chí con người.

- Hệ thống hình ảnh mang tư duy của người miền núi, khi tác giả lấy cao của trời, của núi để đo nỗi buồn, lấy xa của đất để đo ý chí cúa con người.

    Câu thơ đượm chút ngậm ngùi, xót xa để diễn tả thực tại đời sống còn nhiều những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào vùng cao. Đồng thời, cũng đầy tự hào trước ý chí, nghị lực vươn lên của họ.

• Từ phẩm chất của người đồng mình, Y Phương tiếp tục nói với con về ý chí và vẻ đẹp truyền thống của người vùng cao:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương 

Còn quê hương thì làm phong tục”

- Nghệ thuật tương phản:

+ Hình ảnh “thô sơ dci thịt” đã tả thực vóc dáng, hình hài nhở bé của “người đồng mình”.

+ Cụm từ “chẳng mấy ai nhỏ bé” gợi ý chí, nghị lực phi thường, vượt lên hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của “người đồng mình”

    Nghệ thuật tương phản đã làm tôn lên “tầm vóc”, “vóc dáng” của “người đồng mình” họ có thể còn “thô sơ da thịt” nhưng họ không hề yếu đuổi.

- Hình ảnh “tự đúc đá kê cao quê hương” vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc:

+ Tả thực quá trình dụng nhà, dựng bản của người vùng cao, được kê trên những tảng đá lớn để tránh mối mọt.

+ Ẩn dụ cho tinh thần tự lực cánh sinh, họ đã dựng xây và nâng tầm quê hương.

- Trong quá trình dựng làng, dựng bản, dựng xây quê hương ấy, chính họ đã làm nên phong tục, bản sắc riêng cho cộng đồng.

    Câu thơ tràn đầy niềm tự hào về những phẩm chất cao quý của người đồng mình. Từ đó, Y Phương nhắn nhủ, răn dạy con phải biết kế thừa, phát huy những vẻ đẹp của con người quê hương.

b. Lời khuyên của người cha

• Hãy biết sống theo những truyền thống tốt đẹp của người đồng mình:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối 

Lên thác xuống ghềnh 

Không lo cực nhọc”

- Điệp từ “sống” được lặp đi lặp lại liên tiếp đã tô đậm được mong ước mãnh liệt của cha dành cho con.

- Hình ảnh ẩn dụ và phép liệt kê đá gập ghềnh”“thung nghèo đói”

+ Gợi không gian sống hiểm trở, khó làm ăn, canh tác.

+ Gợi đến cuộc sống nhiều vất vả, gian khó và đói nghèo.

    Từ đó, người cha mong muốn ở con: hãy biết yêu thương, gắn bó, trân trọng quê hương mình.

- Hình ảnh so sảnh: “Sống như sông như suối”

+ Gợi về cuộc sống bình dị, hồn nhiên, gắn bó với thiên thiên.

+ Gợi lối sống trong sáng, phóng khoáng, dào dạt tình cảm như sông, như suối

    Từ đó, người cha mong muốn ở con: một tâm hồn trong sáng, phóng khoáng như thiên nhiên.

- Thủ pháp đổi: “lên thác” >< “xuống ghềnh” gợi một cuộc sống vất vả, lam lũ, nhọc nhằn, không hề bằng phẳng, dễ dàng. Từ đó, người cha mong muốn ở con: Phải biết đối mặt, không ngại ngần trước những khó khăn và phải biết vươn lên, làm chủ hoàn cảnh.

    Đoạn thơ là lời khuyên của cha, khuyên con hãy tiếp nối cái tình cảm ân nghĩa, thủy chung với mảnh đất nơi mình sinh ra. Hãy tiếp nối cả ý chí can đảm, lòng kiên cường của người đồng mình.

• Khép lại bài thơ, là lời dặn dò vừa ân cần, trìu mến vừa nghiêm khắc của người cha:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ được nhỏ bé

Nghe con”

- Hai tiếng “lên đường”, cho thấy người con đã khôn lớn, trưởng thành, có thể tự tin, vững bước trên đường đời.

- Hình ảnh thơ được lặp lại “thô sơ da thịt” như là lời khẳng định để khắc sâu trong tâm trí con, rằng: con cũng là người đồng mình, cũng mang hình hài, vóc dáng nhỏ bé.

- Nhưng con “không bao giờ được nhỏ bé” mà phải kiên cường, bản lĩnh để đương đầu với những gập ghềnh, gian khó của cuộc đời.

- Hai tiếng “nghe con” nghe thật thiết tha, ân cần, xúc động, ẩn chứa biết bao mong muốn của người cha.

    Với giọng điệu thiết tha, tâm tình, trìu mến, người cha đã gửi gắm cho con những bài học quý giá, để trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời con mãi mãi khắc ghi.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Bài thơ “Nói với con” thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha dành cho con. Đồng thời, bộc lộ tình yêu quê hương, xứ sở và lòng tự hào về người đồng mình.

2. Nghệ thuật

- Thể thơ tự do, phóng khoáng, phù hợp với lối nói, diễn đạt và tư duy của người vùng cao.

- Giọng điệu thơ khi tâm tình, tha thiết, khi mạnh mẽ, nghiêm khắc, rất phù hợp với lời của người cha nói với con mình.

Xem thêm các tài liệu Văn ôn thi vào lớp 10 năm 2024 hay khác:

Đã có lời giải bài tập lớp 10 sách mới:

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, KHÓA HỌC DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn được các Giáo viên hàng đầu biên soạn bám sát kiến thức trọng tâm, hệ thống lại câu hỏi phần Tiếng Việt, các tác phẩm văn học, bài thơ có trong đề thi tuyển sinh vào lớp 10 môn Văn.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Tài liệu giáo viên