Đề cương ôn tập Giữa kì 2 Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức

Bộ đề cương ôn tập Giữa kì 2 Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức với các dạng bài đa dạng có lời giải chi tiết giúp học sinh lớp 12 nắm vững được kiến thức cần ôn tập để đạt điểm cao trong bài thi Văn 12 Giữa kì 2.

Đề cương ôn tập Giữa kì 2 Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức

Xem thử

Chỉ từ 80k mua trọn bộ đề cương ôn tập Giữa kì 2 Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức bản word có lời giải chi tiết:

Quảng cáo

Nội dung kiến thức Văn 12 Giữa kì 2 Kết nối tri thức

I. NỘI DUNG KIẾN THỨC CẦN ÔN TẬP

1. Văn bản:

- Vận dụng được những hiểu biết về tác gia Hồ Chí Minh để đọc hiểu một số tác phẩm của Người; nhận biết và phân tích được quan điểm của tác giả về lịch sử, văn hóa được thể hiện trong văn bản.

- Nhận biết và phân tích được vai trò của cách lập luận và ngôn ngữ biểu cảm trong văn bản nghị luận.

- Nhận biết và phân tích được một số yếu tố của phóng sự và hồi kí như: tính phi hư cấu, một số thủ pháp nghệ thuật (miêu tả, trần thuật); sự kết hợp của các chi tiết, sự kiện hiện thực với trải nghiệm, thái độ và đánh giá của người viết;…

- Phân tích, đánh giá được khả năng tác động của tác phẩm kí đối với người đọc và tiến bộ xã hội.

a. Quan điểm sáng tác

Nội dung

Kiến thức

1. Khái niệm

Quan điểm sáng tác là hệ thống tư tưởng, nguyên tắc chi phối hoạt động sáng tác của nhà văn, do chính nhà văn xác định dựa trên những trải nghiệm đời sống và nghệ thuật của mình. 

Quan điểm sáng tác có thể được chính nhà văn phát biểu một cách tường minh nhưng nhiều khi được độc giả khái quát lên dựa vào sự ổn định trong cách nhà văn lựa chọn đề tài, xác định chủ đề, bày tỏ thái độ trước đối tượng miêu tả và vận dụng các phương thức, phương tiện nghệ thuật.

2. Quan điểm sáng tác của nhà văn cách mạng

Đối với các nhà văn cách mạng, quan điểm sáng tác thường được tuyên bố công khai, gắn với sự lựa chọn một thái độ chính trị dứt khoát, do đặc điểm của thời đại cách mạng quy định. Chính điều này làm nên tính đặc thù của những sáng tác thuộc loại hình văn học cách mạng mà thơ văn Hồ Chí Minh là một ví dụ tiêu biểu.

Quảng cáo

b. Đánh giá một tác giả, tác phẩm văn học

Nội dung

Kiến thức

1. Lưu ý

- Khi đánh giá một tác giả, tác phẩm văn học, cần huy động trải nghiệm, kiến thức nhiều mặt và phải dựa trên những tiêu chuẩn thẩm mĩ, nhân văn, tư tưởng phù hợp. 

- Biết đặt đối tượng vào đúng bối cảnh sáng tác (có đối chiếu với bối cảnh hiện tại) để nhận ra mức độ đóng góp của tác giả, tác phẩm đó cho đời sống và tiến trình văn học.

2. Đánh giá tác phẩm, tác giả lớn

- Những tác giả, tác phẩm lớn thường đạt được thành tựu quan trọng trong việc tổng hợp kinh nghiệm nghệ thuật phong phú của các giai đoạn văn học đã qua, tạo được bước phát triển có ý nghĩa cho văn học ở giai đoạn mới.

- Tuy khó tránh khỏi một số hạn chế do sự ràng buộc của thời đại, nhưng những tác giả, tác phẩm thực sự có tầm vóc thường chạm được vào các vấn đề nhân sinh vĩnh cửu, để tiếp tục đồng hành cùng bao lớp người đọc đến sau.

Quảng cáo

c. Phóng sự

Nội dung

Kiến thức

1. Khái niệm

Phóng sự xuất hiện trên cơ sở sự phát triển của báo chí hiện đại, thường được xem là một thể loại thuộc tính hình kí.

2. Chức năng/ tác dụng

Phóng sự cung cấp cho người đọc cái nhìn chân thực về một sự việc, hiện tượng, thường là đặc biệt, có ý nghĩa thời sự, diễn ra trong đời sống xã hội đương thời.

3. Đặc điểm

- Phóng sự thể hiện tính chiến đấu cao khi dùng sự thật để phản bác những nhận thực còn sai lệch và khẳng định điều tốt đẹp trong đời sống, tác động tích cực đén nhận thức của người đọc.

- Tính chân thực về thời gian, địa điểm, sự kiện, con người và chi tiết là những đặc điểm cốt lõi của một bài phóng sự.

4. Lưu ý

- Để đảm bảo sự xác thực và độ tin cậy của thông tin, người viết phóng sự thường dùng những biện pháp nghiệp vụ báo chí như điều tra, phỏng vấn, ghi chép tại chỗ,…

- Với phóng sự, ngoài các tư liệu thực tế xác thực, tác giả còn có thể sử dụng các thủ pháp hư cấu ở một mức độ nhất định nhằm làm cho câu chuyện và các sự kiện được kể trở nên hấp dẫn hơn. Do vậy, bên cạnh việc đáp ứng những yêu cầu về mặt thông tin, nhiều phóng sự còn thể hiện tính thẩm mĩ, mang dấu ấn phong cách cá nhân người viết trong việc mô tả sự việc, hiện tượng; sử dụng nghệ thuật trần thuật, biện pháp tu từ, ngôn ngữ giàu hình ảnh, cảm xúc,..

Quảng cáo

d. Hồi kí

Nội dung

Kiến thức

1. Khái niệm

Hồi kí là thể loại thuộc loại hình kí, có giá trị tư liệu cao, kể lại từ điểm nhìn chủ quan về những sự kiện, biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là nhân vật trung tâm hoặc là người tham dự, chứng kiến.

2. Đặc điểm

- Hồi kí luôn đề cao tính xác thực của những gì được kể. Câu chuyện về con người và sự việc trong hồi kí giúp độc giả vừa thấy rõ trải nghiệm phong phú và thế giới tinh thần riêng của người viết, vừa hình dung được diện mạo chân thực của đời sống lịch sử - xã hội và văn hóa một thời đã qua. Người viết hồi kí thường tập trung ghi chép, soi tỏ phần hiện thực mà mình hiểu rõ với tư cách là chứng nhân.

- Trong hồi kí, tác giả là người kể chuyện ngôi thứ nhất, trực tiếp trình bày, mô tả về con người và sự việc. Cùng với điều đó, quy luật vận động riêng của trí nhớ đã làm cho hồi kí mang đậm tính chủ quan - một đặc điểm quan trọng tạo nên sức hút riêng của thể loại này.

e. Bảng hệ thống hóa thông tin về các văn bản đọc

Bài

Văn bản

Tác giả

Loại, thể loại

Đặc điểm nổi bật

Nội dung

Hình thức

6

Tác gia Hồ Chí Minh

Nhóm biên soạn sách

Văn bản thông tin

Văn bản hệ thống hóa tiểu sử và sự nghiệp văn học của Hồ Chí Minh. Từ đó, người đọc thấy được cuộc đời văn học và cuộc đời cách mạng của Người gắn bó chặt chẽ, làm nên một nhân cách lớn, một cuộc đời vĩ đại. Hồ Chí Minh vừa là một nhà lãnh đạo cách mạng tài ba, vừa là một nghệ sĩ đích thực.

Văn bản có bố cục rõ ràng, chặt chẽ cùng hệ thống mục lớn, mục nhỏ kết nối logic tạo nên tính hệ thống, rành mạch, dễ hiểu cho người đọc.

Tuyên ngôn độc lập

Hồ Chí Minh

Nghị luận

- Là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta.

- Đánh dấu kỉ nguyên độc lập, tự do của nước Việt Nam mới.

- Là một áng văn chính luận mẫu mực.

- Lập luận chặt chẽ.

- Lý lẽ đanh thép.

- Ngôn ngữ hùng hồn.

- Dẫn chứng xác thực, lấy ra từ lịch sử cụ thể.

Mộ (Chiều tối)

Hồ Chí Minh

Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật

Bài thơ cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách người nghệ sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh: yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống. Luôn kiên cường, ung dung, tự tại và lạc quan trong mọi hoàn cảnh.

- Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, hàm súc, cô đọng. Kết hợp với thủ pháp đối lập, điệp vòng…

- Bài thơ mang đậm sắc thái nghệ thuật cổ điển và hiện đại:

+ Cổ điển: Thể thơ: thất ngôn tứ tuyệt, văn tự: chữ Hán, bút pháp tả cảnh ngụ tình, nghiêng về cảm hứng thiên nhiên,…

+ Hiện đại:

• Cảnh vật có sự vận động hướng về sự sống.

• Con người là trung tâm trong bức tranh thiên nhiên.

• Nhân vật trữ tình không phải là ẩn sĩ mà là chiến sĩ.

Nguyên Tiêu (Rằm tháng Giêng)

Hồ Chí Minh

Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật

Bài thơ miêu tả cảnh trăng sáng ở chiến khu Việt Bắc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm, lòng yêu nước sâu nặng của Bác Hồ.

- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt

- Sử dụng điệp từ

- Hình ảnh thơ mang màu sắc cổ điển mà vẫn bình dị, tự nhiên.

Những trò lố hay Va-ren và Phan Bội Châu

Hồ Chí Minh

Truyện ngắn

Tác phẩm khắc họa một cách rất sắc nét hai nhân vật với hai tính cách, đại diện cho hai lực lượng xã hội hoàn toàn đối lập nhau trên đất nước ta thời pháp thuộc: Va-ren là kẻ gian trá, lố bịch, đại diện cho thực dân Pháp phản động ở Đông Dương. Phan Bội Châu kiên cường, bất khuất, xứng đáng là bậc anh hùng, vị thiên sứ, đáng xả thân vì độc lập, tiêu biểu cho khí phách dân tộc Việt Nam.

- Sử dụng triệt để biện pháp tương phản, đối lập nhằm khắc họa hai hình tượng nhân vật đối lập.

- Lựa chọn các chi tiết miêu tả độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng

- Sáng tạo hình thức ngôn ngữ độc thoại

- Giọng văn sắc sảo, hóm hỉnh

- Giàu khả năng liên tưởng, hư cấu.

Vọng nguyệt (Ngắm trăng)

Hồ Chí Minh

Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật

Bài thơ cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách người nghệ sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh: Tình yêu thiên nhiên say mê và phong thái ung dung của Bác ngay cả trong cảnh tù đày.

- Sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt giản dị

- Hình ảnh thơ trong sáng, đẹp đẽ

- Ngôn ngữ lãng mạn

- Màu sắc cổ điển và hiện đại song hành.

Cảnh khuya

Hồ Chí Minh

Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật

Bài thơ miêu tả cảnh trăng sáng ở chiến khu Việt Bắc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm, lòng yêu nước sâu nặng của Bác Hồ.

- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt.

- Sử dụng điệp từ.

- Hình ảnh thơ mang màu sắc cổ điển mà vẫn bình dị, tự nhiên.

 

7

Nghệ thuật băm thịt gà

Ngô Tất Tố

Phóng sự

Văn bản kể lại quá trình hai năm ròng rã chọn gà, nuôi gà và chăm sóc gà của ông chủ nhà trọ làng V.Đ chuẩn bị cho lễ cúng “lên lão”. Đồng thời phê phán, mỉa mai thói mê tín dị đoan cùng những hủ tục lạc hậu ở làng quê.

- Sử dụng phong phú các chi tiết hiện thực cùng với thái độ đánh giá của người viết.

- Sử dụng ngôi kể và điểm nhìn chân thực giúp tăng độ tin cậy của câu chuyện.

Bước vào đời

Đào Duy Anh

Hồi kí

Đoạn trích "Bước vào đời" kể về sự kiện tác giả gặp gỡ cụ Phan Bội Châu lần đầu tiên vào một buổi trưa cuối năm tại Đồng Hới. Đây là một sự kiện quan trọng đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn tác giả và có ảnh hưởng lớn đến khuynh hướng tư tưởng của ông sau này.

- Sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật tinh tế: miêu tả không gian – thời gian, khắc họa hình ảnh con người,…

- Ngôn ngữ giản dị, gần gũi.

Vĩ tuyến 17

Xuân Phượng

Hồi kí

Tác phẩm đã ghi chép đa dạng các khía cạnh của cuộc sống trong chiến tranh, từ sự kiên cường và ý chí chiến đấu của người dân, cho đến những khó khăn và đau thương mà họ phải trải qua. Đó là một bức tranh đa chiều về cuộc sống trong thời kỳ chiến tranh, phản ánh sự thật về lịch sử và xã hội của Việt Nam vào thời điểm đó.

Ngôn ngữ giản dị, gần gũi.

................................

................................

................................

Các dạng bài Văn 12 Giữa kì 2 Kết nối tri thức

II. MỘT SỐ DẠNG BÀI TẬP MINH HỌA

1. Dạng 1: Đọc – hiểu

Bài tập 1. Đọc kĩ ngữ liệu dưới đây, sau đó trả lời các câu hỏi:

THUẾ MÁU(1)

(Nguyễn Ái Quốc)

1. CHIẾN TRANH VÀ “NGƯỜI BẢN XỨ(2)

Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-na-mít (Annamite)”(3) bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa “con yêu”, những người “bạn hiển” của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”.

Nhưng họ đã phải trả bằng một cái giá khá đắt cái vinh dự đột ngột ấy, vì để bảo vệ cho cái công lí và tự do mà chính họ không được hưởng một tí nào, họ đã phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu. Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi(4), đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng (Balcan)(5), lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ, - chả thế sao lại đem nướng họ ở những miền xa xôi ấy? Một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ (Marne), hoặc trong bã lầy miền Săm-pa-nhơ (Champagne)(6), để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế(7).

Cuối cùng, ở hậu phương, những người làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không phải hít hơi ngạt của bọn “bô-sơ”(8), nhưng lại nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người Pháp; đằng nào cũng thế thôi, vì những kẻ khốn khổ ấy cũng đã khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy. Tổng cộng có 700 000 người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, 80 000 người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa!

II. CHẾ ĐỘ LÍNH TÌNH NGUYỆN

Một bạn đồng nghiệp nói với chúng tôi: Dân lao khổ bản xứ ở Đông Dương từ bao đời nay bị bóp nặn bằng đủ mọi thứ thuế khoá, sưu sai, tạp dịch(9), bằng cưỡng bức phải mua rượu và thuốc phiện theo lệnh quan trên, từ 1915 – 1916 tới nay, lại - còn phải chịu thêm cái vạ mộ lính nữa.

Những biến cố trong mấy năm gần đây là cái cớ để người ta tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương. Những người bị bắt đều bị nhốt vào trại lính với đủ thứ tên: Lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp,...

Theo ý kiến của tất cả các cơ quan có thẩm quyền không thiên vị được giao cho sử dụng ở châu Âu “vật liệu biết nói” châu Á, thì vật liệu này đã không đưa lại kết quả tương xứng với chi phí rất lớn về chuyên chở và bảo quản.

Sau nữa, việc săn bắt thứ “vật liệu biết nói” đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là “chế độ lính tình nguyện” (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây ra những vụ những lạm(10) hết sức trắng trợn.

Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: Vị “chúa tỉnh” mỗi viên công sứ(11) ở Đông Dương quả là một vị “chúa tỉnh” – ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền, trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở kiểu D(12) thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói, nhất là xoay xở làm tiền.

Thoạt tiên, chúng tóm những người khoẻ mạnh, nghèo khổ, những người này phải chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: “Đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra”.

Những người bị tóm đi như thế còn hào hứng gì nữa với cái nghề cột vào cổ họ. Cho nên, bước chân vào trại lính là họ liền tìm mọi cơ hội để trốn thoát.

Còn những người nào thấy không thể thoát khỏi số phận hẩm hiu, thì tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất, mà thông thường hơn cả là bệnh đau mắt toét chảy mủ, gây ra bằng cách xát vào mắt nhiều thứ chất độc, từ vôi sống đến mủ bệnh lậu.

Ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, Phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những người lính sẽ còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh “cho Tổ quốc”, đã trịnh trọng tuyên bố rằng:

“Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến: xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ”.

Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hoà và ở nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập” và “không ngần ngại"?

[...]

III. KẾT QUẢ CỦA SỰ HI SINH

Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng(13) rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người “Nê-grô” (negroid)(14) lẫn người “An-na-mít” mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thỉu”.

Để ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỉ niệm đủ thứ,... trước khi đưa họ đến Mác-xây (Marseille) xuống tàu về nước, đó sao? Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó sao? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường nằm, không ánh sáng, thiếu không khí đó sao? Về đến xứ sở, chẳng phải họ đã được một quan cai trị biết ơn đón chào nồng nhiệt bằng thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!” đó sao?

Thế là những “cựu binh” – đúng hơn là cái xác còn lại – sau khi đã dũng cảm bảo vệ chính nghĩa và công lí nay tay không trở về với chế độ bản xứ của họ, một chế độ không biết gì đến chính nghĩa và công lí cả.

Theo báo chí Đông Dương thì thương binh người Pháp bị mất một phần thân thể và vợ con của tử sĩ người Pháp đều được cấp môn bài(15) bán lẻ thuốc phiện.

Như thế là trong một việc mà chính quyền thuộc địa đã phạm tới hai tội ác đối với nhân loại. Một mặt, họ vẫn chưa thoả khi tự tay làm cái việc bỉ ổi của người đầu độc, mà còn muốn lôi kéo vào đây cả những nạn nhân đáng thương hại của cuộc huynh đệ tương tàn(16) nữa. Mặt khác, họ coi rẻ tính mạng và xương máu của những kẻ đã bị họ lừa bịp, đến nỗi tưởng rằng chỉ cần quẳng cho những người này khúc xương thối ấy là đủ để đền bù được một cánh tay bị mất hoặc mạng của một người chồng. Chúng tôi chắc rằng thương binh và quả phụ chiến tranh sẽ đá văng món quà nhơ nhớp ấy và nhổ vào mặt kẻ tặng quà. Chúng tôi cũng tin chắc rằng thế giới văn minh và người Pháp lương thiện sẽ đứng về phía chúng tôi lên án bọn cá mập thực dân đang không ngần ngại đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi.

[...]

(In trong Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội,

2011, tr. 25-33)

* Chú thích:

(1) Thuế máu: Phần văn bản trên được trích từ Chương 1 (Thuế máu) trong Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc. Bản án chế độ thực dân Pháp được viết bằng tiếng Pháp, xuất bản lần đầu tại Pa-ri năm 1925, tại Việt Nam năm 1946. Tác phẩm gồm 12 chương và phụ lục Gửi thanh niên Việt Nam, tố cáo những tội ác tày trời của thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội,... và tình cảnh khốn cùng của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa Pháp trên thế giới.

(2) Người bản xứ: người dân ở một đất nước được nói đến với hàm ý coi khinh (theo quan điểm của chủ nghĩa thực dân).

(3) An-na-mít: (từ tiếng Pháp) chỉ người Việt Nam, thuộc về Việt Nam.

(4) Ngư lôi: một loại vũ khí thả xuống nước, dùng sức điện để phá huỷ chiến hạm quân địch.

(5) Ban-căng: một bán đảo nằm ở giữa biển A-đờ-ri-a-tích (Adriatic) và biển Đen, ngay góc đông nam của châu Âu.

(6) Săm-pa-nhơ: một vùng đất ở đông bắc nước Pháp.

(7) Thống chế: như Nguyên soái (thường dùng nói về quân hàm trong quân đội các nước tư bản).

(8) Bô-sơ: (từ tiếng Pháp) có nghĩa xấu, chỉ quân đội Đức.

(9) Sưu sai, tạp dịch: sưu (hay thuế thân), còn gọi là thuế đinh, thuế đầu người, là thứ sưu/ thuế căn cứ vào cư dân địa phương, mỗi dân đinh (đàn ông trong độ tuổi quy định: thường là 18 – 60 tuổi) đều phải nộp cho nhà nước trong chế độ phong kiến cũng như trong chế độ thực dân - phong kiến. Bên cạnh sưu đóng bằng hiện vật hoặc hiện kim, còn có sưu dịch đóng bằng sức lao động, thường là những công việc lao động nặng nhọc mà dân đinh phải làm cho nhà nước; sưu sai, tạp dịch: chỉ việc sưu nói chung.

(10) Những lạm: lạm dụng quyển hành để gây phiền hà và lấy của.

(11) Công sứ: viên chức người Pháp đứng đầu bộ máy cai trị cấp tỉnh ở Việt Nam thời Pháp thuộc, được thiết lập ở Trung Kì và Bắc Kì.

(12) D: chữ đầu của từ “débrouillard” (tiếng Pháp), có nghĩa là “xoay xở, tháo vát”.

(13) Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng: một cách chơi chữ của tác giả, nói về cái chết của người da đen và da vàng.

(14) Nê-grô: chỉ những người da đen.

(15) Môn bài: giấy cho phép mở cửa hàng buôn bán.

(16) Huynh đệ tương tàn: anh em tàn sát lẫn nhau.

Câu 1. Giải thích nhan đề Thuế máu. Từ nhan đề và các đề mục (Chiến tranh và “người bản xứ”, Chế độ lính tình nguyện, Kết quả của hi sinh), xác định chủ đề và thông điệp của văn bản.

Câu 2. Phân tích cách miêu tả thái độ của các quan cầm quyền thực dân Pháp đối với dân bản xứ, trước, trong và sau chiến tranh. Cách miêu tả đó có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện chủ đề của tác phẩm?

Câu 3. Cảm hứng chủ đạo của văn bản là gì?

Câu 4. Nhận xét về nghệ thuật viết phóng sự của Nguyễn Ái Quốc (kết cấu, cách sử dụng số liệu, từ ngữ, giọng văn, thủ pháp trào phúng, các biện pháp tu từ,... trong việc thể hiện tư tưởng tác phẩm).

Câu 5. Anh/ chị có suy nghĩ, cảm xúc gì về “chế độ lính tình nguyện” của thực dân Pháp đối với người dân bản xứ?

................................

................................

................................

Xem thử

Xem thêm đề cương ôn tập Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức có lời giải hay khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 12

Bộ giáo án, đề thi, bài giảng powerpoint, khóa học dành cho các thầy cô và học sinh lớp 12, đẩy đủ các bộ sách cánh diều, kết nối tri thức, chân trời sáng tạo tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official


Đề thi, giáo án lớp 12 các môn học
Tài liệu giáo viên